Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết vấn đề tiền lương nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.22 KB, 32 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang từng bước đổi mới,quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội . Với
đặc thù riêng về chính trị đất nước , hồn cảnh lịch sử… tác động gián tiếp trực
tiếp làm xuất hiện nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng và phong phú về các
hình thức sở hữu . Sự đa dạng về các hình thức sở hữu này đã làm xuất hiện nhiều
hình thức phân phối khác nhau. Mỗi một hình thức sở hữu nhất định nó sẽ làm nẩy
sinh một hình thức phân phối nhất định. Như vậy khi đI phân tích quan hệ phân
phối trong nền kinh tế chúng ta sẽ nắm bắt được các quan hệ kinh tế nhìn nhận
được sự cơng bằng xã hội qua các hình thức phân phối khác nhau.
Trong bất cứ một nền kinh tế nào phân phối cũng luôn chiếm giữ một vị trí vơ
cùng quan trọng, là cây cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là lĩnh vực hoạt động
kinh tế nhạy cảm& phức tạp đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách kinh tế phảỉ
nghiên cứu sâu rộng mỗi một hình thức phân phối nó gắn liền với một chế độ
chính trị pháp quyền nhất định . Như vậy mỗi một chế độ chính trị xã hội khác
nhau ta lại có một quan hệ phân phối khác nhau ở nước ta hiện nay đang trong giai
đoạn chuyển đổi kinh tế mạnh mẽ thích ứng với sự chuyển đổi này là sự đa dạng
về các hình thức sở hữu để phát huy hết sức mạnh của nền kinh tế quốc dân. Cho
nên làm xuất hiện nhiều quan hệ phân phối như phân phối theo lao động ,phân phối
ngoài thù lao lao động ,phân phối theo vốn và tài sản
Quan hệ phân phối trong nền kinh tế nước ta hiện nay là một chủ đề rộng. Để có
thể tìm hiểu một cách có hệ thống,và sâu sắc hơn về quan hệ phân phối em xin
được đi nhiều hơn vào quan hệ phân phối theo lao động(là quan hệ phân phối chủ
yếu ở nước ta hiện nay) và một hình thức thể hiện rõ nét của nó đó là:hình thức thu
nhập theo lao động

1


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI


Một số quan điểm và bản chất của quan hệ phân phối

I)

1.1) Một số quan điểm về quan hệ phân phối
1.1.1)

Quan điểm của Mac-Enghen .

Những quan hệ phân phối hay nó chính là nhu cầu động cơ khách quan, quan hệ
những lợi ích kinh tế phản ánh nhu cầu và động cơ khách quan của mỗi tác nhân
kinh tế trong tổng thể nèen kinh tế . Bởi vậy đến với quan điểm về phân phối MacEnghen có quan điểm hời hợt đầu tiên “ trong qúa trình sản xuất , các thành viên
của xã hội thích nghi(tạo ra, cải biến) các sản phẩm của tự nhiên cho phù hợp với
những nhu cầu của con người, phân phối xác định tỷ lệ mỗi cá nhân thâm gia vào
sản phẩm đã sản xuất ra , trao đổi đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định
mà anh ta muốn dùng phần nhận được do phân phối để trao đổi…” Như vậy rõ
ràng trong mọi nền kinh tế các tác nhân kinh tế tham gia vào nền sản xuất xã hội
thiết lập một quan hệ sản xuất nhất định, quá trình sản xuất cho phép tạo ra những
sản phẩm nhất định phục vụ cho nhu cầu của xã hội và dưạ trên những nền tảng
những quan hệ sản xuất của những tác nhân kinh tế đó mỗi một tác nhân được
nhận một sản phẩm nhất định do quá trình phân phối đem lại .
Quan hệ phân phối là mối quan hệ giữa chủ thể sản xuất và chủ thể tiêu
dùng.Dưới chế độ xã hội nhủ nghĩa Mac cho rằng “ phân phối sản phẩm là do
phương thức sản xuất quyết định” như vậy trong xã hội tư bản và xã hội chủ nghĩa
tồn tại hai phương thức sản xuất khác biệt liệu có dẫn đến hai q trình phân phối
khác nhau không . Để hiểu rõ về vấn đề này Mac đã đề cập đến các quan hệ phân
phối ở từng khía cạnh trong từng xã hội .
Phân phối và sản xuất: phân phối là nhân tố quyết định sản xuất cũng là nguồn
thu nhập , người lao động tham gia sản xuất tạo ra sản phẩm và qua đó họ dược
hưởng tiền cơng tiền lương, chế độ … người chủ sở hữu bỏ vốn sản xuất và họ thu

được lợi nhuận, cổ tức … Mac viết bản thân sự phân phối là sản vật của sản xuất
2


khơng những về mặt nội dung vì người ta chỉ có thể phân phối những kết quả của
sản xuất thơi mà cả về mặt hình thức, vì phương thức nhất định của việc tham gia
vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối , hình thái đó theo đó người
ta tham gia vào sự phân phối” (1)
Trong xã hội tư bản người công nhân tham gia vào quá trình sản xuất họ sáng tạo
ra những giá trị lớn hơn nhữnh giá trị mà họ nhận được từ tay những nhà tư bản rất
nhiều , họ bị nhà tư bản chiếm đoạt phần thặng dư đó . Như vậy trong xã hội tư bản
khơng có dược sự phân phối một cách công bằng, người lao động và người chủ sở
hữu có sự khác biệt khá lớn về hình thức phân phối . Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
– một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất . Người lao động đồng thời cũng là
người làm chủ trong quá trình sản xuất , họ được hưởng lợi ích xứng đáng với
thành quả lao động của họ , hay nói cách khác trong xã hội chủ nghĩa phân phối
cong bằng hơn cho mọi tầng lớp người trong xã hội.
-Mối quan hệ giữa phân phối và tiêu dùng . Chế độ tư bản chủ nghĩa nhà tư bản
chỉ quan tâm duy nhất tới lợi nhuận và vì vậy họ đầu tư nâng cao năng xuất lao
động vắt kiệt sức của người cơng nhân. q trình sản xuất tạo ra rất nhiều của cải
cho xã hội và nó là thành quả lao động của người công nhân nhưng rút cuộc nó lại
phục vụ chủ yếu cho nhà tư bản . Các nhà tư bản không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần… trong khi đó giai cấp công nhân chỉ nhận được giá trị phân
phối của nhà tư bản chỉ đủ bù đắp lại sức lao động đã mất , đời sống của họ vẫn
nghèo khổ cơ cực , có lẽ sự lệ thuộc về kinh tế như vậy nhà tư bản mới giữ được
họ ở tầng lớp thấp kém, làm thuê cho họ được . Khi nghiên cứu sang chế độ xã hội
chủ nghĩa Mac thấy rằng trong xã hội chủ nghĩa vì sự bình đẳng trong quan hệ sở
hữu nên đã thiết lập chế độ phân phối công bằng. Người lao động được hưởng
đúng với sức lao động hao phí đã bỏ ra . Khi người lao động có hu nhập cao họ sẽ
tiêu dùng nhiều hơn một mặt nâng cao được đời sống của người lao động mặt khác

nó làm cầu tiêu dùng tăng lên có tác dụng thúc đẩy sản xuất .
-Mối quan hệ giữa phân phối và trao đổi . Thực chất đây là mối quan hệ giữa hai
khâu trung gian trong quá trình phân phối và phân phối lại. Với giá trị nhận được
3


từ trong q trình lao động người lao động có thể dùng nó để trao đổi lấy sản phẩm
mà mình cần thiết hơn điều đó được thực hiện trong quá trình trao đổi hàng hố .
Trong xã hội tư bản cạnh tranh Mac đề cập đến sự sản xuất tràn lan , và sự cạnh
tranh gay gắt làm cho quá trình trao đổi sản phẩm nhiều khi bị gián đoạn giá cả
trên thị trường bấp bênh không ổn định , tình trạng lạm phát làm cho đồng lương
danh nghĩa tăng đồng lương thực tế giảm gây khó khăn cho người lao động .
Nhìn nhận về quan hệ phân phối của Mac-Enghen đã đề ra. Trên nền tảng đó
Đảng và Nhà nước ta nhận định rằng “ chúng ta phải sống phù hợp với kết quả lao
động của mình khơng tiêu dùng quá giới hạn mà mức sản xuất cho phép”

(2)

“thiết

lập trật tự mới xã hội chủ nghĩa , trên mặt trận phân phối , lưu thơng để góp phần
ổn định đời sống đẩy mạnh sản xuất chuyển đổi tình hình kinh tế xã hội . Phát huy
tác dụng đòn kéo và cầu nối của phân phối … phân phối , lưu thông phải tham gia
đắc lực vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường , mở rộng trận địa chủ nghĩa xã
hội , điều tiết bằng được thu nhập của các tầng lớp dân cư cho công bằng và hợp
lý”(3)

1.1.2)Quan đIểm về các quan diểm phân phối
khác(Adámsmith,Ricardo,sismonvi)
Trước hết đến với quan điểm của Adáms.mith .Vềlý luận tiền theo ông trong xã

hơI ngun thuỷ trước chủ nghĩa tư bản thì tồn bộ sản phẩm thuộc về người lao
động .Điều đó có nghĩa là Adámsmith đã khẳng định rằng một khi người lao động
làm việc bằng chính những tư liệu sản xuất và ruộng đât của mình , thì lẽ cơng
bằng là người sản xuất phải được sản phẩm toàn vẹn của lao động của họ
Nhưng khi sở hữu tư bản chủ nghĩa xuất hiện , người lao động bị tước đoạt hết
tư liệu sảnt xuất buộc họ trở thành những người làm thuê cho chủ tư bản .Trong
điều kiện như vậy người làm thuê chỉ được nhạn một phần tiền từ chủ sau khi đã
làm việc cho chủ một thời gian nhát định .Vạy tiền lưong của những người công
nhân làm th khơng phải là tồn bộ giá trị sản phảm mà lao động của họ làm ra
,mà chỉ là một bộ phận giá trị đó. Ơng chỉ ra mức bình thường của tiền lương và
4


cho rằng tiền lương phải đạt được ở mức tối thiểu .Theo Adamsmith,tiền lương
không dược hạ thấp quá mức tối thiểu nếu khơng đó sẽ là thảm hoạ đối với dân
tộc .Bằng luận cứ khoa học ông chỉ ra rằng mức tiền lương tối thiểu chỉ diễn ra ở
những nước đang diễn ra sự thối hố về kinh tế.Cịn ở những nước phát triẻn
nhanh thì tiền lương vượt ngồi mức tối thiểu .
Adámsmith cho rằng tiền lương cao sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế .cụ thể
khi tiền lương cao, người lao động phấn khởi tìm mọi cách đẻ tăng năng suất lao
động , tăng thu nhập quốc dân nói chung .Đến lượt mình tăng thu nhập quốc dân
đẫn đến khả năng tăng tích luỹ tư bản và do đó tăng cầu về sản phẩm và suy đén
cùng nó sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển
Mặc dù có những tư tưởng hợp lý như vậy nhưng Adámsmith vẫn không
tránh khỏi sự lẫn lộn giữa lao đông và sưc lao động và coi tiền lương là giá cả của
sức lao động .
Tiếp tục sự nghiệp này của Adamsmith,D.Ricảrdo cho rằng giá trị người lao
động tạo ra gồm :Tiền lương và Lợi nhuận và khẳng định khi tiền lương tăng thì
lợi nhuận giảm .Ơng có ý đồ giải quyết việc xác định tiền lương theo quy luặt giá
trị nhưng khong thành cơng vì ơng đã mắc phải sai lầm giống Adámsmith.một

trong những công lao to lớn của ông là ông đă phân tích được tiền cơng thực tế và
xác định lương hàng hoá mà người cong nhân mua được bằng tiền chưa quyết định
địa vị xã hội của người đó.Sự quyết đinh tình cảnh của cơng nhân phụ thuộc vào
mối tương quan giữa tiền lương và lợi nhuận .
Sí smonvi khi đén với quan đIểm về tiền lương ơng có nhiều điẻm rõ ràng
hơn Adamsmithvà Ricardo.Ơcho rằng cơng nhân dân là ngươì tạo ra của cải vật
chất cho xã hội .Theo ông tiền lương phải ngang bằng toàn bộ giá trị sản phẩm của
công nhân…
Như vậy một số nhà kinh tế học cổ điẻn trước C.MAC đã đạt dược một số
thành tựu nhất định trong việc giải quyết các vấn đè phân phối .Nhưng bên cạnh đó
rõ ràng trong nhận định của các ơng vẫn cịn những hạn chế nhất định.
5


Đến với những lý luận về quan hệ phân phối của các nhà kinh tế học cổ điển
và lý luận và lý luận của các Mác Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định
riêng trên cơ sở tổng hợp những ưu nhược điểm của các nhà kinh tế chính trị học tù
đó rút ra cơ sở lý luận về vấn đề quan hệ phân phối ở nước ta.

6


2.

Bản chất của quan hệ phân phối và nguyên tắc phân phối ở nước ta.
Quan hệ phân phối là một mặt quan trọng trong nền sản xuất. Phân phối không

chỉ đơn thuần là phân phối giá trị sản xuất ra mà nó cịn bao hàm cả phân phối
nguồn lực cho sản xuất.
Phân phối cho sản xuất là sự bảo đảm các yêú tố đầu vào về tư liệu sản xuất, về

lao động, nguyên nhiên liêu… cho quá trình sản xuất. Trong bất cứ một quá trình
sản xuất nào thì phân phối cho sản xuất luôn là vấn đề thiết yếu nó quyết điịnh hiệu
quả kinh tế, sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Khi phân phối cho quá trình
sản xuất đạt hiệu quả kinh tế, nó có thể cho nhiều sản phẩm đầu ra hơn trong khi
đầu vào không đổi. Rõ ràng ở đây phân phối sản xuất đã đóng một vai trị quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy từ sự phân phối tư liệu sản xuất, cùng các yếu tố đầu vào khác đã tạo
lên những đặc trưng riêng của san phẩm đầu ra và từ những sản phẩm đầu ra đó
người ta lại tiến hàng phân phối và phân phối lại theo các hình thức khác nhau.
Vậy thì ta thấy rằng phân phối sản phẩm chẳng qua chỉ là kết quả của quá trình
phân phối cho sản xuất, sự phân phối này đã bao hàm trong quá trình sản xuất và
quyết định cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất mà khơng quan tâm đến sự phân phối
đó, sự phân phối bao hàm trong sản xuất thì rõ ràng đó là một sự trừu tượng trống
rỗng, còn sự phân phối sản phẩm thì trái lại, đã bao hàm trong sự phân phối này là
một yếu tố của sản xuất.
Trong quá trình phân phối cho sản xuất tạo nên cơ cấu sản xuất khác nhauvà từ
đó thiết lập lên quan hệ phân phối sản phẩm khác nhau như ta đã nói. Ơ nước ta
chủ yếu là hình thức cơng hữu về tư liệu sản xuất, kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể
giữ vai trị chủ đạo. Vì tư liệu sản xuất là bình đẳng cho mọi người lao động nên ở
nước ta có được quan hệ phân phối cơng bằng hơn cho người lao động. Tuy nhiên
toàn bộ những sản phẩm mà xã hội làm ra lhông phải đều được sử dụng cho tiêu
dùng cá nhân mà trước hết những giá trị tạo ra đó phải được sử dụng để:
7


- Bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí, hao mịn trong q trình sản xuất kinh
doanh.
- Lập quỹ dự phòng đề phòng thiên tai, tai nạn bất ngờ , quốc phòng an ninh…
- Để mở mang sản xuất, quá trình sản xuất ngày càng mở rộng, phát triển thì các
tư liệu sản xuất phải được thay đổi, đổi mới cùng với sự cải tiến của quan hệ

sản xuất.
Phần còn lại mới được dành cho tiêu dùng. Trong phần này lại được phân phối
cho quá trình sản xuất để bù đắp lại những hao phí bỏ ra, quản lý hành chính,
phúc lợi xã hội…phần cịn lại cuối cùng mới được dành cho tiêu dùng cá nhân.
Như vậy tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cá nhân vừa
được phân phối tiêu dùng cho sản xuất.
2.2.Nguyên tắc

phân phối ở nước ta hiện nay.

Xuất phát từ bản chất của quan hệ phân phối ở nước ta đã hình thành lên một
số nguyên tắc phân phối chủ yếu sau.
2.2.1. Phân phối theo lao động.
La hình thức phân phối chủ yếu và rã nét nhất ở nước ta hiện nay. Xuất phát
từ một nền sản xuất chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì
phân phối theo lao động là một hình thức phân phối tỏ ra thích hợp nhất. Chính
sự cơng hữu về tư liệu sản xuất này đã thiết lập lên sự công bằng cho người lao
động, quyền làm chủ của người lao động. Người lao động sẽ được hưởng những
thành quả lao động xứng đáng với năng lực sản xuất của mình, giá trị lao động
của họ đem lại cho xã hội, đó cũng chính là cơ sở để tiến hành phân phối theo
lao động. Khi mà nước ta chủ yếu là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể thì phân
phối theo lao động là hồn tồn phù hợp.
Hơn nữa nước ta hiện nay còn tồn tại sự khác biệt rất lớn giưuã các thành
phần lao động như lao động động trí óc, lao động chân tay, lao động giản
đơn…Do xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậulại đang định hướng lại theo
con đường phát triển kết hợp công nơng nghiệp-dịch vụ nên có sự pha trộn
8


khơng đồng đều giữa các thành phần kinh tế vì vậy mà lao động cũng hình

thành nhiều loại khác nhau. Chính vì vậy mà kết quả lao động cũng rất khác
nhau, do đó chúng ta muốn tiến hành phân phối cơng bằng cho họ thì cần phải
căn cứ vào giá trị mà lao động động của họ dã tạo ra cho xã hội. Mặt khác trong
xã hội hiện còn tồn tại khá nhiều những người có tư tưởng ỉ lạ, ăn bám “ muốn
trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác ” trong tình hình đó phân phối theo
lao động là giải pháp hợp lý. đất nước ta mới chỉ đang ở giai đoạn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, kinh tế còn nghèo nàn, sản phẩm quốc dân chưa đủ để phân
phát cho mọi người theo nhu cầu, hơn nữa lao động chưa trở thành nhu cầu mà
nó vẫn còn là phương thức sinh nhai của mỗi người, trong hồn cảnh đó thì
phân phối theo lao động sẽ thúc đẩy mọi người lao động ngày một tích cực và
hăng hái hơn giúp cho sản xuất phát triển.
Như vậy để phân phối theo lao động cần đảm bảo các yêu cầu: Phải căn cứ
vào số lượng chất lượng lao động của mỗi người dể trả công cho người lao
động ,phải trả cong bằng nhau cho lao động như nhau,trả công khác nhau cho
lao động khác nhau khong phan biệt già trẻ , gái trai, dân tộc …Mặt khác phải
giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích vật chất với đơng viên tinh thần cho
người lao động,có vậy mới phát huy khả năng lao động, sáng tạo của mọi người
.Sau cùng để phân phối theo lao động được công bằng hơn chúng ta cần đấu
tranh chống lại hai sai lầm phổ biến đó là chủ nghĩa bình qn và khuynh
hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách bậc lương mà khơng có căn cứ kinh
tế .Thực hiện tốt phân phối theo lao động ở nước ta hiện nay sẽ mang lại nhiều
tác dụng to lớn ,nó sẽ góp phần tạo ra cơng bằng trong xã hội ,khuyến khích
người lao dộng tích cực lao động hết năng lực và khong ngừng nâng cao trình
độ bản thân , qua đó tạo diều kiện phân bổ lao động hợp lý giữa các ngành kịnh
tế , thúc đẩy nền sản xuât xã hội phát triển.
2.2.2.Phân phối theo tài sản ,ng uồn vốn và những đóng góp khác
Nguyên tắc phân phối này cũng rất phù hợp cho thực trạng nền kinh tế
nước ta hiện nay khi mà chúng ta đang thực đa dang hoá các hình thức sở hữu
9



trong kinh doanh .Phân phối theo vốn taì sản và những đóng góp khác đựoc
hiểu là q trình trả cơng cho vốn tài sản và những đóng góp khác đó nó được
thể hiện thơng qua lãi ,cỏ tức ,lợi nhuận…Với một nền kinh tế đang phát triển
như nước ta hiện nay bao gồm chủ yếu là hình sản suất nhỏ lẻ ,hộ gia đình
chưa thành lập được cơng ty lớn (vì thiếu vốn)thì hình thức theo vốn tài sản
cùng những đóng góp khác là một động lực to lớn thúc đẩy huy động vốn trong
dân chúng .
chúng ta biết rằng hiện nay, một phần lớn nguồn vốn còn đang nằm rải rác
trong tay người lao dộng , nhà tư bản nhỏ .Để huy động nguồn vốn này chúng
ta không thể áp dụng các biện pháp cưỡng bức vì nước ta là một nưóc theo chủ
nghĩa xã hội .một biện pháp tỏ ra hiệu quả trong vấn đề này,khơng có gì khác
chính là những biên pháp kinh tế mềm dẻo ,khuyến khích nguời dân . Muốn
dân chúng góp vốn kinh doanh thì nhà nước cần có những chính sách rõ ràng
trong việc quy định lãi suất , lợi nhuận …thu được từ nguồn vốn tài sản đóng
góp đó.
Huy động được nguồn vốn trong dân kích ứng được người dân mạnh dạn đầu
tư sản suất kinh doanh sẽ nlà một lợi thế lớn tạo đà cho nền kinh tế phát triển
vững mạnh và đó cũng là một trong những mục tiêu chiến lược của đảng ta.
2.2.3)Hình thức phân phối ngồi thù lao động thơng qua quỹ phúc lợi xã hội
Hình thức phân phối này là một trong những hình thức phân phối không
thể thiếu trong một đất nước luôn vươn tới sư cơng bằng bình đẳng như nước ta
.Ngun tắc phân phối này đảm bảo cho mọi người được hưởng một mức phân
phối cơmg bằng và nó mang tính nhân đạo cao . Nhũng người làm việc với
năng lực cao hơn mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn sẽ được hưởng
xứng đáng với lao đơng mình bỏ ra , ngồi phần lương cơ bản ra cịn có khen
thưởng .Điều đó giúp cho người lao động hứng khởi trong sản xuất , người làm
tốt sẽ làm ngày một tốt hơn ,người làm chưa tốt thì khơng ngừng phấn đấu ,rèn
giũa mình để làm việc lao động tốt hơn .Khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi cá
10



nhân ngươì lao đọng nó cịn giúp cho tưng nhà máy ,từng phân xưởng ,đôn vị
sản xuất không ngừng nâng cao năng suất tạo ra nhiều hơn của cải cho xã hơi.
Phân phối ngồi thù lao lao động thơng qua quỹ phúc lợi xă họi mang
tinh chất nhân dạo cao. Qua hai hình thức phân phối đa xét ta thấy rằng nhửng
ngưịi có sức lao động , có vốn,hay có đóng gỏp khác cho quá trinh sản xuất xă
hội họ sẽ được hưởng những giá trị phân phối nhất định từ thành quả lao
động ,đóng góp ấy.Thế vậy cịn nhưng người khơng có khả năng lao động(như
người ốm yếu ,già cả mất sửc lao đọng….) thì sao.Quan hệ phân phối trong xã
hội chủ nghĩa mà cụ thể là nước ta đảm bảo cho họ một mức sống ổn định tối
thiểu .
Nhận định về hình thửc phân phối này ta thấy rằng nó tạo ra sức phát triển tồn
diện cho mọi thành viên trong xãhội,đúng theo quan điẻm mà đại hội VII của
đảng dã đề ra “coi con nguời là trung tâm của mọi sư phát triển gắn liền chíng
sách phát triển kinh tế với chíng sách phát triển xã hội”
2.2.4)

Đến với đa quan hệ phân phối trên ta thấy đó là ba quan hệ phân phối

phổ biến và quan trọng , không thể thiếu đối với nền kinh tế nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Các quan hệ phân phối này tạo nên các hình thức thu nhập khác
nhau giữa các tầng lớp dân cư ,phổ biến là các hình thức thu nhập sau:
Thứ nhất là: hình thức tiền cơng,tiền lương :
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là quá trình chúng ta dần dần thừa
nhận sức lao động là hàng hoá. Khi người lao đọng làm việc cho chủ doang
nghiệp hoặc tổ chức kinh tế quốc doanh người lao đọng nhận được một khoản
thu nhập gắn với kết quả lao dộng của họ . Về nguyên tắc khoản thu nhập đó
phải dược tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã cống

hiến . Số thu nhập theo lao đong đó dược gọi la tiền lương .Hay nói cách khác
tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao đọng .
Để cho người lao đọng thực sự yên tâm từ dó sẵn sàng mang hết sức sáng
tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh ,điều quan trọng trước hết ở
11


chỗ là người lao dộng phải được nhận đủ mức lương và nhận kịp thời ,mức
lương đó phải ngày một tăng theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
chính họ. Do vậy trong cơ cấu tiền lương thường bao gồm hai phần là tiền
lương cơ sở và tiền thưởng . Phần tiền lương cơ sở là phần lương tính chung
cho người lao động có trình độ và điều kiện làm việc như nhau còn phần tiền
thưởng là phần tính riêng cho những cá nhân lao động xuất sắc, đây là phần
lương có tác dụng khuyến khích người lao động.
Tiền lương còn được các nhà kinh tế học thể hiện qua hai phạm trù đó là tiền
lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là phần tiền tệ mà
người lao động nhận được phù hợp với sức lao động mà họ bỏ ra. Trong điều kiện
khơng có sự biến động trên thị trường giá cả và thị trường tiền tệ thì sự nâng cao
tiền lương danh nghĩa cũng đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống của người lao
động. Nhưng trong tình trạng lạm phát, chẳng hạn tiền tệ giảm giá trị hàng hóa
tăng giá trị khi đó mức tiền lương danh nghĩa khơng phản ánh đúng mức thu nhập
của người lao động. Khi ấy người ta phải dùng đến tiền lương thực tế. Tiền lương
thực tế chính là phần giá trị thu được từ những giá trị vật chất, dịch vụ mà người
lao động đã có được khi mua chúng bằng tiền lương danh nghĩa. Mức tiền lương
thực tế phản ánh chính xác nhất đầy đủ nhất thu nhập thực tế của người lao động,
nó cho biết đời sống của người lao động được nâng lên hay giảm đi. Như vậy tăng
thu nhập tiền lương thực tế sẽ làm tăng mức sống của dân cư.
Rõ ràng tiền lương có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người lao động, do
đó thơng qua chính sách tiền lương, có thể tác động mạnh mẽ tới đời sống của
người lao động. Nghị quyết đại hội VII đã khẳng định “Đối với chính sách tiền

lương và thu nhập, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế bảo vệ các nguồn thu nhập hợp pháp, điều tiết
hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành, các vùng đấu tranh ngăn chặn
thu nhập phi pháp”.
Thứ hai là : hình thức lợi tức, lợi nhuận.
12


Trong nền kinh tế thị trường cái mà các nhà sản xuất kinh doanh quan tâm
trước hết là lợi nhuận và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh thể hiện ở lợi
nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa chi phí bán hàng và phí tổn
sản xuất.
Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học quan niệm rằng lợi nhuận chính là
sự trả cơng cho những ai dám mạo hiểm vay vốn đầu tư vào quá trình sản xuất kinh
doanh và dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt lợi nhuận tất yếu các nhà
sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau tìm mọi cách để giảm chi
phí để thu lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường lưọi nhuận là động lực
chi phối hoạt động của người sản xuất kinh doanh. Chính lợi nhuận đã đưa doanh
nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hóa mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ
các khu vực ít người tiêu dùng. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc áp dụng
khoa học kỹ thuật ngày càng rộng rãi và hiệu quả nhất. Lợi nhuận tạo điều kiện
xúc tác cho thị trường hàng hóa ngày càng hồn thiện và đa dạng để có thể đáp ứng
mọi nhu cầu của người tiêu dùng.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu
nhập là tiền lương, cịn khoản thu nhập khác đó là lợi nhuận và phần này ngày
càng tăng lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập mà mỗi người lao
động nói chung mỗi nhà sản xuất nói riêng nó vừa phải phản ánh kết quả lao động
của mỗi người, vừa phản ánh kết quả lao động của tập thể với tư cách là chỉnh thể.
Để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối đa sức sáng tạo
của các nhà kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị trường. Đúng vậy cần không

nâng cao thu nhập trong đó có lợi nhuận của họ. Việc khơng ngừng nâng cao thu
nhập cho họ địi hỏi khơng ngừng cải tiến cơ chế quản lý và các chinsh sách kinh
tế, trong đó có chính sách phân phối lợi nhuận. Việc đưa ra đúng cơ chế hình thành
và phân phối lợi nhuận sẽ góp phần hình thành quan hệ “làm chủ thực sự với
cơngviệc”.
Lợi tức chính là một phần từ lợi nhuận mà các tổ chức kinh tế trả cho người
sở hữu tiền tệ (đóng góp cổ phần vào doanh nghiệp) như vậy lợi tức có nguồn gốc
13


từ lợi nhuận, tuỳ theo hình thức mua bán cổ phiếu mà lợi tức được chi trả theo các
phương thức khác nhau. Lợi lức chính là động cơ để mọi người mua cổ phiếu cả
doanh nghiệp, thường thì những doanh nghiệp có uy tín sẽ thu hút được mọi mua
cổ phiếu khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. Thông qua hình thức phát hành cổ
phiếu giúp cho doanh nghiệp có thể huy động vốn nhàn rỗi để mở rộng quy mô của
doanh nghiệp, tăng nguồn vốn chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay đã và đang xuất hiện những cơng ty cổ
phần, đó là cơng ty cổ phần nhà nước và công ty cổ phần tư nhân, đều được nhà
nước khuyến khích mở rộng.
Thứ ba : Hình thức thu nhập từ quỹ tiêu dùng cơng cộng: đó là phần thu
nhập mà người lao động nhận được từ quỹ tiêu dùng chung của xã hội những
khoản ưu đãi nhất định như trợ cấp, bảo hiểm, các khoản ưu đãi…Đó chính là phần
thu nhập mà chính phủ trích ra từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho người lao
động. Đây là hình thức thu nhập phản ánh tính nhân đạo, quan tâm đến đời sống
mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội của đảng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay
khi mà nguồn thu nhập bình quân đầu người chưa cao. Các khoản trợ cấp , ưu đãi
đảm bảo cho những người khơng cịn khả năng lao động hoặc bị tai nạn lao động
một cuộc sống bình thường tối thiểu… Các khoản bảo hiểm xã hội thường chỉ có ở
thành phần kinh tế nhà nước, nó là nguồn thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho
những người lao động đã đến tuổi nghỉ hưu


:

2.3 Kinh nghiệm thực hiện phân phối ở một số nước
2.3.1) Indonexia :
Ở Indonexia các vấn đề chính được chính phủ quan tâm là giáo dục và tạo
việc làm. Trong lĩnh vực giáo dục, chính phủ một mặt chú trọng tăng cường giáo
dục phổ thông, một mặt đưa ra hệ thống đào tạo quốc gia về kỹ năng hướng
nghiệp. Hệ thống này có nhiệm vụ đào tạo công nhân các ngành nghề cơ bản như
thêu, hàn, sửa chữa xe hơi, xây dựng. Từ những năm 60 chính phủ Indonexia đã
14


ln tiến hành các chương trình tăng cường việc làm ở khu vực nơng thơn với một
phần kinh phí do ngân sách cấp và phần khác là viện trợ của nươc ngồi. Mục tiêu
chính của chương trình là tăng cường sản xuất lương thực mở ra các cơ hội việc
làm và tạo ra sự phân phối thu nhập công bằng hơn.
Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế cho rằng, ở đây dân chúng ngày càng phụ thuộc
nặng nề hơn vào các chương trình của chính phủ hoặc nói cách khác nhân dân
khơng nắm vững hoặc làm chủ q trình phát triển. ở Indonexia các tổ chức phi
chính phủ có đóng góp to lớn trong việc tiếp cận, giúp đỡ các tầng lớp nghèo khổ.
Sự ra đời các tổ chức này, một mặt do nhu cầu phải bổ sung những khiếm khuyết
trong những chương trình của chính phủ. Mặt khác có quan hệ chặt chẽ với việc
suy giảm các nguồn tài trợ từ ngân sách do thu nhập từ dầu lửa giảm. Hoạt động
của các tổ chức này gồm bốn dạng chính, huấn luyện, nghiên cứu, phát triển thực
hiện các chương trình như sản xuất, tư vấn… về các chức năng của các tổ chức này
tỏng việc giảm bớt nghèo khổ có thể kể đến là hỗ trợ, bổ sung và làm trung gian.
Do tính chất quan liêu nặng nề, các chương trình của chính phủ có thể khơng với
tới các vùng các nhóm dân cư. Sự có mặt của các tổ chức phi chính phủ ở những
nơi bị bỏ trống này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.Với tư cách là người hỗ trợ, các

tổ chức này làm chức năng cộng sự thực hiện các chương trình của chính phủ giúp
đỡ các tầng lớp nghèo, với tư cách là người trung gian họ chuyển những nguyện
vọng cảu tầng lớp nghèo đến các cơ quan của chính phủ.

2.3.2 )Singapore :
Đất nước giàu có và có thu nhập cao, việc giảm bớt nghèo khổ, chênh lệch
thu nhập lại có những điểm khác. Sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong
nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải hơn. Một chiến
lược quan trọng nhằm làm giảm nghèo khổ là đầu tư vào con người. Trong những
năm gần đây, chính phủ Singapore đã có những cố gắng đáng kể để tăng kỹ năng
và chất lượngcủa tồn bộ lượng lao động, coi đó như là một phần của cải cách kinh
tế của chính phủ. Chi phí cho giáo dục tăng nhanh chủ yếu là tập trung cho các lĩnh
vực giáo dục kỹ thuật, đào tạo chuyên ngành. Mặt khác các chính sách được áp
15


dụng đều khuyến khích cơng nhân có tay nghề cao. ậ Singapore sự can thiệp của
nhà nước vào thị trường lao động và giáo dục có tác dụng toạ nên nguồn vốn nhân
lực trong các hộ gia đình và cá nhân. Các biện pháp trên không trực tiếp loại bỏ
mức thu nhập thấp và những bất bình đẳng về của cải. Nó chỉ giúp cho mọi cá
nhân có được việc làm tốt với thu nhập xứng đáng.

2.3.3 )Thailand :
Trong các nước ASIAN , Thailand vẫn được coi là ít có sự can thiệp của
chính phủ vào đời sống kinh tế hơn cả. Những năm gần đây, Thailand đã thành
công trong việc phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tỷ lệ sinh đẻ
hạ làm cho thu nhập theo đầu người tăng một cách ổn định.
Thailand đã có nhiều thành tựu trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ
bản dưới nhiêù hình thức phong phú, có mục đích chung là nâng cao chất lượng
cuộc sống cho dân chúng. Một số dịch vụ có thể kể đến là :

1. Phúc lợi cho những khốn cùng trong xã hội. Ở đây những người rơi vào
hoàn cảnh nan giải có thể được cung cấp tiền mặt, hiện vật, các chỉ dẫn
hoặc tư vấn. Một chương trình quan trọng khác là giúp đỡ vô danh và
thầm yêu đối với những phần tử khốn cùng do hoàn cảnh kinh tế xã hội
gây ra.
2. Trợ giúp gia đình. Hình thức này nhằm mục đích củng cố gia đình như
một đơn vị cơ bản của xã hội. Đối tượng này là gia đình thiếu khả năng
tự đảm bảo được cuộc sống tối thiểu.
3. Phúc lợi trẻ em và thanh niên. Phúc lợi này bao gồm các dịch vụ cho trẻ
em tại gia đình khuyến khích các gia đình chăm sóc cho trẻ em lang
thang cơ nhỡ bảo vệ phúc lợi cho trẻ em hư hỏng chống bóc lột trẻ em và
chăm sóc có tổ chức khi cần.
4. Trợ giúp việc làm và cho vay vốn, vốn được cho vay không quá
4000bạt , không tính lãi hồn trả trong 3 năm nhằm các gia đình tự tạo
việc làm.
16


5. Phúc lợi chăm sóc và phục hồi chức năng cho những người tàn tật. Tham
gia hoạt động này là các tổ chức chăm sóc cho người tàn tật trên 17 tuổi
bị lệ thuộc khơng có bệnh truyền nhiễm, có khuyết tật như mù, mất khả
năng về chân tay hoặc có bệnh mãn tính. Những người tàn tật cịn được
dạy nghề nhằm tạo khả năng tham gia vào lao động theo nguyện vọng
của họ.
6. Trợ cấp tai nạn. Các nạn nhân có thể được hỗ trợ bằng tiền mặt, hiện vật
hay dịch vụ tuỳ theo nhu cầu cụ thể của từng trường hợp nhằm giúp họ
vượt qua tai hoạ ổn định cuộc sống.
Tóm lại kinh nghiệm thực tế của các nước và lý thuyết kinh tế hiện đại đã
chứng minh rằng, giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế

không chỉ dẫn đến sự giàu có chung của đất nước, mà cịn tạo điều kiện
thuận lợi giúp các nhóm có thu nhập thực hiện việc xố đói giảm nghèo mặt
khơng thể có tăng trưởng kinh tế kéo dài nếu không áp dụng các chính sách
phân phối thu nhập cơng bằng hơn. Việc tăng thu nhập của đông đảo quần
chúng nhân dân sẽ dẫn đến mở rộng thị trường tiêu thụ nhiều loại sản phẩm
thơng dụng kích sản xuất phát triển. Việc chính phủ quan tâm đến giáo dục y
tế và các dịch vụ xã hội khác có tác dụng nâng cao chất lượng lao động ổn
định xã hội. Tất cả những điều này đều rất quan trọng cho quá trình phát
triển sản xuất tiếp theo. Đó là những kinh nghiệm thực tế hết sức quý báu
đòi hỏi đảng và nhà nước ta phải biết chắc lọc và áp dụng vào nền kinh tế
nước nhà một cách linh hoạt.

17


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI
Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI.

I/ Thực trạng phân phối theo lao động ở Việt Nam .
1)Nhìn lại quá khứ- phân phối theo lao động trong thời kì kinh tế kế
hoạch hố tập trung.
Trong thời kì kế hoạch hố tập trung phân phối theo lao độngở Việt Nam đã
có rất nhiều điểm yếu kém thể hiện tư tưởng nóng vội của Đảng ta muốn nhanh
chóng đạt được nền sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà Các Mác đã nêu. Nhìn nhận
một cách khách quan cho ta thấy. Đảng và nhà nước đã xuất phát từ những nguyện
vọng chính đáng, tất cả vì nhân dân phục vụ nhưng Đảng ta đã vận dụng tư tưởng
của Mác một cách quá máy móc. Xây dựng quan hệ sản xuất trước khi xây dựng
lực lượng sản xuất- trong điều kiện đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh tàn phá lực
lượng sản xuất còn nghèo nàn lạc hậu nhưng nước ta đã thiết lập ngay chế độ công

hữu về tư liệu sản xuất chế độ sở hữu nhà nước và kinh tế tập thể. Nhà nước nhấn
mạnh số lượng sản phẩm làm ra mà không qua tâm đến chất lượng sản phẩm. Về
người lao động, nhà nước căn cứ vào ngày công để từ đó tiến hành phân phối,
khơng quan tâm đến năng suất lao động và trình độ tay nghề. Chính những lí do
chủ quan đó nên đã tạo ra những bước trì trệ trong nền kinh tế, khơng kích ứng
được nền kinh tế phát triển người lao động cảm thấy sức lao động của họ khơng
được đánh giá đúng mức.
Bình qn xã hội, bình qn sản phẩm đó làm cho người làm động trầy ì
khơng làm hết sức lao động của mình họ chỉ quan tâm đến ngày cơng lao động của
mình vì nhà nước chỉ căn cứ duy nhất trên ngày cơng đó để phân phối sản phẩm.
Mặt khác trong q trình phân phối theo kiểu tem phiếu đó cũng xuất hiện nhiều
tiêu cực như “ Người đến trước thì hưởng miếng ngon” thiên vị mang tính chất
riêng tư của cán bộ phân phơi…Kẽ hở đó làm triệt tiêu những nhân tố tích cực
18


trong nền kinh tế, những con người dám hi sinh vì đất nước qn mình trong lao
động. Có kẻ dựa dẫm “ làm bát nháo báo cáo thì hay”. Thủ tiêu quan hệ tiền hàng
nền kinh tế khơng có yếu tố cạnh tranh để phát triển từ công bằng xã hội chuyển
sang bình quân xã hội.
Trong hệ thống kinh tế, chỉ bào gồm kinh tế nhà nước kinh tế tập thể cịn
kinh tế tư nhân thì bị chèn ép khơng có điều kiện phát triển. Vì được nhà nước bảo
hộ nên sự độc quyền của kinh tế nhà nước đã làm yếu tố cạnh tranh trong nên kinh
tế bị triệt tiêu.Các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thường xuyên bị thua lỗ vì họ
khơng quan tâm đến chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất do họ đã có nhà nước
gánh chịu “ Lỗ nhà nước chịu, lãi nhà nước thu” vì sự khơng hiệu quả trong hoạt
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến người lao động trong
các doanh nghiệp nhà nước có mức thu nhập khơng cao khơng đảm bảo được mức
sống.


2) Tính tất yếu của phân phối theo lao động trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn nhận thấy những yếu kém khi chúng ta q dập khn mơ hình kinh tế
mà Mác đưa ra Đảng và nhà nước ta đã dần khắc phục những điểm yếu đó từng
bước cải tổ nền kinh tế theo quan điểm của Mác nhưng thích ứng hơn với kinh tế
thị trường. Đó là việc làm cần thiết cứu nguy cho nền kinh tế thoát khỏi tình trạng
của kế hoạch hố tập trung.
Trong nền kinh tế mở hiện nay chúng ta thiết lập nhiều quan hệ sản xuất mới
nhưng vẫn lấy kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm chủ đạo phát triển kinh tế
nhiều thành phần để tận dụng được thế mạnh của từng thành phần kinh tế đó. Do
sự đa dạng đó dẫn đến thiết lập các quan hệ phân phối theo lao động có nhiều điểm
khác so với thời kì kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước cho phép sự hoạt động của
nhiều thành phần kinh tế tạo ra yếu tố cạnh tranh. Người lao động ngày nay có thể
tự do tìm cho mình một cơng việc phù hợp với khả năng và trình độ của
mình.Quan hệ phân phối trong thời kì này cơng bằng hơn đối với người lao động.
19


Người làm nhiều thì hưởng nhiểu , người làm ít thì hưởng ít ngươì khơng làm thì
khơng hưởng. Sự cơng bằng trong phân phối là yếu tố kích ứng sự nâng cao tay
nghề, trình độ chun mơn , văn hố …không những của những người lao động
hiện thời mà của mọi lớp người trong xã hội. Bởi vì xuất phát từ lợi ích cá nhân
của mình khi càng ngày sự phân phối càng công bằng hơn. Nền sản xuất ngày càng
có trình độ khoa học kĩ thuật cao hơn địi hỏi trình độ tay nghề của người lao động
ngày một cao hơn, nếu họ không tự thân vận động , khơng bắt kịp với sự thay đổi
đó thì chính bản thân họ sẽ bị nền sản xuất loại trừ, xã hội loại trừ. Khi trình độ tay
nghề của người lao động được nâng lên kết quả dĩ nhiên là họ sẽ được nền sản xuất
chấp nhận và thu nhập của họ ngày càng cao, thu nhập đó là thành quả lao động
chính đáng với trình độ của họ và nó sẽ làm cho mức sống của họ ngày càng cao.
Đó cũng chính là mục tiêu vĩ mơ của nền kinh tế nước ta hiện nay.

Tuy nhiên không phải trong giai đoạn hiện nay sự bất công trongphân phối
theo lao động đã được dỡ bỏ hoàn toàn. Nền kinh tế thị trường hiện nay ln có
những mặt trái của nó và chúng ta có thể nhìn nhận thấy nó ngay trong vấn đề phân
phối.
Sự đa dạng hố về hình thức sở hữu có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu
cực của nó, q trình sở hữu khác nhau ấy sẽ tạo ra quá trình phân phối khác nhau
giữa các tâng lớp dân cư. Như trong xã hội tư bản mà chúng ta đã đề cập chắc chắn
nó sẽ làm xuất hiện tình trạng chênh lệch nhau về thu nhập.
- Quá trình đào thải của xã hội đối với những người có tay nghề thấp trình độ
văn hố thấp kết quả là xã hội lại xuất hiện ngày một nhiều hơn những người
thất nghiệp khơng có cơng ăn việc làm, trở thành những gánh nặng cho xã hội.
- Trong quá trình phân phối thành quả lao động đến tay người lao độngcũng còn
nhiều bất cập thực tế trong xã hội hiện nay vẫn còn nhiều kẻ “ ngồi mát ăn bát
vàng” đó chính là những mảnh vỡ cịn sót lại của thời kì bao cấp. Cái tư tưởng
kế hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp đã ăn sâu vào tư tưởng một số người,
kể cả tầng lớp lãnh đạo.
20


Khi đề cập đến khía cạnh kinh tế nhà nước chúng ta thấy kinh tế nhà nước
chưa thực sự là gương mẫu để cho các thành phần kinh tế khác noi theo, chúng
ta thấy ở đó vẫn cịn nhiều tình trạng khơng làm mà hưởng, làm ít hưởng nhiều,
người có trình độ thấp lại lãnh đạo người có trình độ cao hơn, tình trạng ơ dù
móc ngoặc khơng phải là khơng có và người lao động khơng phải khi nào cũng
được hưởng thành quả lao động một cách công bằng.
3) Những giải pháp cho vấn đề phân phối theo lao động ở nước ta.
Cơ chế thị trường đã đưa lại nhiều thành tựu do các thành phần kinh tế được
nơi lỏng, tạo ra cơ hội phát triển sống động nền kinh tế, năng lực sản xuất tăng
đáng kể. Tính chủ động năng động được phát huy ở mọi người và ở mọi lĩnh vực
cơ may về sản xuất và việc làm ngày càng nhiều người lao động dễ dàng tìm cho

mình nơi làm việc theo tài năng sở trường và đồng lương hợp lý. Nhưng như đã
nói ở trêncơ chế thị trường cũng phát sinh những quan hệ những chừng mực mới
gay gắt giữa thành phần kinh tế quốc doanh- tập thể với các thành phân kinh tế cá
thể , tư bản tư nhân, tư bản nước ngoài. Trong mối quan hệ nàynhà nước không thể
tập trung đầu tư bao cấp , ưu đãi cho kinh tế quốc doanh tập thể như trước các
thành phần kinh tế phải được cùng bình đẳng trước pháp luật kinh tế quốc doanh
cũng khơng còn là một hệ thống kinh tế độc quyền như xưa, tuy thế mạnh nắm
trong tay lực lượng vật chất kĩ thuật quốc gia to lớn. Nhưng chúng ta thấy rằng
trong giai đoạn hiện nay kinh tế nhà nước vẫn chưa phát huy được sức mạnh của
nó và chưa thể hiện được vai trò trụ cột trong nền kinh tế nhiều thành phần
này.Trong khi đó kinh tế tư nhân tư bản, kinh tế cá thể có ưu thế nhiều hơn về đầu
tư về trang thiết bị đang thích ứng nhanh nhạy với cơ chế thị trường và đang đạt
được những hiệu quả kinh tế rất khả thi. Điều đó địi hỏi nhà nước phải có những
biện pháp tích cực cải tổ nền kinh tế hơn nữa trong thời gian tới cụ thể :
Một là: cần phải đẩy mạnh phát triển kinh tế quốc doanh, tập thể vững mạnh cổ
phần hoá rộng rãi các xí nghiệp quốc doanh đồng thời ban bố luật phá sản đối với
các xí nghiệp làm ăn thua lỗ
21


Hai là ta cần thành phần kinh tế quốc doanh mạnh làm cơ sở kinh tế – xã hội để
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động đồng thời với việc thu hẹp phạm vi
tương đối số lao động nhân viên hưởng biên chế trong khu vực kinh tế nhà nước để
tiết kiệm ngân sách nhà nước, tiến hành các biện pháp thi biên chế công chức để
tạo ra sự phấn đấu tránh tư tưởng trì trệ của cán bộ công nhân viên nhà nước.
Thứ ba là ta cần các thành phần kinh tế quốc doanh làm cơ sở tạo lập một cơ sở
hạ tầng định hướng XHCN. Không có một cơ sở hạ tầng như thế, thì cũng khơng
có một nhà nước mang bản chất vơ sản của dân, do dân và vì dân được. Trong nền
kinh tế tập trung mối quan hệ này tỏ rõ tính đồng nhất tương quan phù hợp sự ăn
khớp nhịp nhàng. Trong cơ chế thị trường sự biến động trong cơ cấu thành phần sự

đa dạng phức tạp và xu thể tăng của khu vực tư nhân , cá thể, tư bản tác động trực
tiếp ngay vào sự ra đời nhà nước cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Mâu thuẫn đã rõ, những nghịch lý phát sinh còn nhiều nhưng mục tiêu xã hội chủ
nghĩa thì khơng bao giờ được từ bỏ.
Giải pháp cho toàn bộ vấn đề này là phải thấy rõ được mối quan hệ biện chứng
kéo cách giữa ba nhân tố (vẽ hình)
Kiến trúc thượng

Nhà nước

tầng xã hội

cở sở hạ tầng xã hội
Kinh tế

tập thị trường kinh tế

Quốc doanh

thể

tư nhân

Nhân tố thứ nhất, kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa chứa hai sung lực:
khu vực kinh tế quốc doanh- tập thể và khu vực tư nhân cá thể tư bản. Nhân
tố thứ hai là cơ chế thị trường chứa hai sung lực: sức mạnh thị trường và
những tiêu cực của nó, lại tác động vào tất cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
22



thượng tầng xã hội. Nhân tố thứ ba là nhà nước đã tạo dựng trên cơ sở hạ
tầng và tác động trở lại cơ sở hạ tầng xã hội.
Hơn lúc nào hết, trong cơ chế thị trường, nhànước nhân tố hàng đầu, thông
qua Đảng lãnh đạo nhà nước cơ quan quản lý xã hội, hành pháp và tư pháp, có
nghĩa vụ tập hợp toàn bộ nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển toàn diện
kinh tế xã hội đất nước.
Thứ tư. nước ta phải xây dựng cho được cơ sở kinh tế của CNXN , bằng con
đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, kết hợp những bước tiến tuần tự
do xuất phát điểm của nước ta thấp “ nền kinh tế vẫn mang tính chất nơng nghiệp
lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé kết cầu cơ sở hạ tầng kém phát triên. Cơ sở kĩ thuật
chưa cao” đồng thời ta phải đón đầu để hình thành những mũi nhon phát triển theo
trình độ tiến tiến của khoa học công nghệ thế giới tạo nền tảng tăng trưởng nhanh,
hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Đảm bảo cho thành phần kinh tế
quốc doanh phát triển, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế tập thểđủ sức dẫn dắt các thành
phần kinh tế khác theo đinh hướng XHCN, tạo ra cơ sở kinh tế xã hội để thực hiện
phân phối và mở rộng phân phối theo lao động và từng bước thực hiện công bằng
xã hội.
Cần phải đổi mới tận gốc quan niệm và phương pháp công tác cán bộ, từ
khâu đánh giá , tuyển chọn, sử dụng, bố trí cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt. Cuộc
sống mới đòi hỏi phải tập trung trong bộ máy nhà nước những con người có tài đức
nhin xa thấy rộng dám làm, dám chịu tính tốn hiệu quả, giữ nghiêm kỉ cương
phép nước. Đánh giá lựa chon cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cơ bản. Những
người có bản lĩnh chính trị kiên định với mục tiêu và lí tưởng của Đảng có lối sống
lành mạnh cần kiệm liêm chính, gần gũi quần chúng, có năng lực và phẩm chất
ngang tàm nhiệm cụ. Phải dân chủ hố cơng tác cán bộ, mới tránh được tư thù, phe
cánh họ hàng gia thế, bè phái, mới đề cao được yêu cầu tuyển chọn thận trọng công
tâm.

23



Tất cả lại gắn với công tác đào tạo bồi dưỡng theo chức danh để tạo ra được
những con người của XHCN đúng như lời Bác đã dạy “ Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”.

Giải quyết đối với hình thức phân phối tiền lương và lợi nhuận
Suy đến cùng vấn đề phân phối thu nhập, phân phối lợi ích kinh tế cho
người lao động, tập thể và xã hội được giải quyết như thế nào cho cơng bằng
so với sự đóng góp về lao độngtrong q trình tạo ra lợi ích kinh tế. Một nền
kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển ngày càng cao hồn tồn có
điều kiện và khả năng thực tế để giải quyết tốt các lợi ích kinh tế. Đến lượt
mình, việc giải quyết tốt các lợi ích kinh tế lại tạo ra động lực mới cho sự
phát triển.
Cần đổi mới cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận: vê cơ chế hình
thành lợi nhuận khơng nên xác đinh lợi nhuận bình qn theo cấu thành giá
thành như trước đây. Nhà nước nên quy định và điều chỉnh lại tỉ lệ lợi nhuận
định mức khác nhau. Nhà nước nên nâng tỉ lệ lợi nhuận định mức, cịn đối
với những sản phẩm tính giá trị lớn, sản phẩm độc quyền , nhà nước nên hạ
tỉ lệ lợi nhuận định mức. Khi đó sẽ góp phần giải quyết dần những bất bình
đẳng trong việc thu và phân phối lợi nhuận trước đây. Bên cạnh đó nhà nước
cần thông qua bộ máy quản lý thực hiện việc kiểm tra, kiểm kê, kiểm sát để
nắm chính xác các nguồn vốn của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó buộc các
đơn vị phải đi vào hoạt động thực sự hiệu quả hơn
II)Vấn đề phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay
1/ Vấn đề phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay.
1.1/ Thực trạng chính sách tiền lương
1.1.1/ Nhận định chung về chế độ chính sách tiền lương của công nhân viên
chức trước tháng 9/1985.
Nền kinh tế nước ta từ trước tháng 9 năm 1985 là nền kinh tế theo
kiểu kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Chế độ tiền lương trong giai

đoạn này mang tính chất hiện vật nhiều thông qua tem phiếu. Đồng thời nhà
24


nước duy trì chế độ bán cung cấp về nhà ở, điện, nước sinh hoạt. Hàng tháng
cán bộ công nhân viên chức chỉ phải trả tiền nhà, điện nước sinh hoạt bằng 1
% đến 5 % tuỳ theo mức lương và chức vụ theo chế độ tính cơng, tính điểm
nên khơng khuyến khích được người lao động làm việc hết năng lực của
mình.
Hình thức tiền lương này sớm mang tính bất cập, do sản phẩm được phân
phối đôi khi không đáp ứng được nhu cầu người lao động. Giá cả sinh hoạt
ngàycàng cao nhưng tiền lương danhnghĩa không tăng nên tiền lương thực tế
ngày càng giảm sút vì tiền lương.
Nhìn chung trong thời kì này chế độ tiền lương vừa bằng tiền và hiện
và bằng hiện vật với giá quá thấp vừa chắp vá và vừa bình quân kéo dài quá
lâu nên đã gây ra nhiều tiêu cực trong tổ chức, quản lý người lao động, trong
lĩnh vực phân phối lưu thông không phát huy được tiềm năng sáng tạo của
những người lao động cũng như tập thể sản xuất

1.1.2. Q trình điều chỉnh chế độ tiền cơng tiền lương sau khi ban
hành nghị định 235/HD-BT & những ưu nhược điểm.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
tất yếu phải đổi mới các chính sách kinh tế xã hội cũ trước đây cho phù hợp
với cơ cấu và cơ chế mớicủa nền kinh tế. Trong đó chính sách tiền công và
tiền lương lao động là hết sức cần thiết, nó thể hiện quan điểm của Đảng và
nhà nước ta trong sự hình thành và phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta.
Sau 1/9/1985 nhà nước bắt đầu có những chính sách điều chỉnh tiền
lương. Cụ thể năm 1986- 1987 –1988-1989 liên tục tiến hành điều chỉnh

mức tiền lương làm cho mức đời sống của cán bộ công nhân viên nhà nước
được nâng lên ngày một cao hơn giảm dần hình thức phân phối theo hiện
vật, chế độ tem phiếu.
25


×