Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Ngữ văn 3-Mai Thị Bưởi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.99 KB, 10 trang )

I.Chọn đề tài.
Hiện nay việc dạy ngữ pháp ở trờng phổ thông manh tính chất thực
hành. Nghĩa là phải bồi dỡng cho học sinh kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
Học sinh sau khi học ngữ pháp phải biết vận dụng các tri thức đã học để
sử dụng sao cho đúng quy tắc của Tiếng việt, sao cho giao tiếp đạt hiẹu
quả cao.
Thực tế cho thấy sau nhiều năm học ở bậc phổ thông học sinh nói và
viết cha đạt chuẩn mực nh chúng ta mong muốn. Vậy làm thế nào để học
sinh nói và viết đúng quy tắc Tiếng việt. Thiết nghĩ đây là trách nhiệm của
hầu hết giáo viên thuộc các bộ môn nhng trách nhiệm lớn hơn cả là trách
nhiệm của giáo viên dạy Văn Tiếng việt. Và muốn vậy thì giờ ngữ pháp
phải đạt hiệu quả cao. Để một giờ ngữ pháp đạt hiệu quả cao đó chính là
mong ớc của hầu hết giáo viên dạy Văn Tiếng việt. Với mong ớc đó
nhiều giáo viên đã bỏ công sức để tìm ra phơng pháp dạy sao cho đạt hiệu
quả cao nhất. Với riêng tôi tôi cũng giành nhiều công sức để học hỏi kinh
nghiệm của thế hệ đàn anh đi trớc và tự mình nỗ lực tìm một cách dạy sao
cho phù hợp. Và đây là một vài suy nghĩ của tôi về vấn đề: Để một giờ
học Ngữ pháp ở trờng THCS đạt hiệu quả cao.
II.Nội dung đề tài.
1.Lí do chọn đề tài.
Tiếng việt là lời ăn tiếng nói hàng ngày của mỗi ngời Việt Nam. Vậy
mà hiện nay có rất nhiều học sinh nói và viết cha đạt chuẩn quy tắc của
Tiếng việt mặc dù các em đã đợc học. Đó cũng thể là do những giờ Ngữ
pháp cha đạt hiệu quả cao, nên sau khi học lý thuyết các em quên luôn và
cha vận dụng lý thuyết vào thực tế hoặc vận dụng mà cha chuẩn. Vậy
muốn các emnói và viết chuẩn với quy tắc của Tiếng việt thì giờ học Ngữ
pháp phải đạt hiệu quả cao, học xong các em nhớ để biết cách vận dụng.
Nói và viết đúng Tiếng việt sẽ giúp Tiếng việt ta giàu đẹp và trong sáng,
giao tiếp đạt hiệu quả cao. Đó chính là lý do khiến tôi chọn đề tài này.
2.Cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề đã đặt ra.
Theo Nguyễn Đức Hàm (Cuốn tài liệu bồi dỡng giáo viên dạy Ngữ


văn) đã từng nói: Không học tiếng vì tiếng mà học tiếng để phục vụ cho
giao tiếp. Từ cách nhìn đó chúng ta thấy rằng quan điểm giao tiếp sẽ là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy học Tiếng việt. Khi dạy Tiếng việt
giáo viên không đa ra những khái niệm, những tri thức sẵn có cho trớc mà
phải đa ra những văn bản có tính định hớng tri thức cần lĩnh hội đợc hiện
hình trong đó. Từ những văn bản này dới sự hớng dẫn của giáo viên, học
sinh lĩnh hội đợc tri thức, khái niệm. Từ sự lĩnh họi ấy, học sinh lại đợc
luyện tập qua hệ thống bài tập. Cứ thế học sinh sẽ tích luỹ tri thức cơ bản,
1
phổ thông, hệ thống và hiện đại về Tiếng việt và học sinh đợc rèn luyện
năng lực hoạt động ngôn ngữ để nói và viết đúng quy tắc, chuẩn ngữ pháp.
3.Thực tế hiện nay khi ch a thực hiện đề tài.
Khi cha áp dụng đề tài này tôi thấy bài dạy của mình có phần tẻ nhạt.
Học sinh cha đợc thực hành nhiều nên khi học bài mới(lý thuyết trên lớp)
các em học có vẻ rất sôi nổi, hiểu bài nhng khi làm bài tập về nhà để tiết
sau kiểm tra bài cũ thì cho thấy các em nắm kiến thức cha chắc, cha vững.
Học sinh thuộc lý thuyết nhng lại không thực hành đợc và nh vậy thì xem
nh kết quả học tập của học sinh cha đạt yêu cầu.
thực tế cho thấy ngữ pháp vốn là một môn khô và khó. Ngời ta từng nói
phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt nam. Chính vì nó khô và
khó nh vậy nên tâm lí giáo viên ngại dạy vì nó khô, học sinh ngại học vì
nó khó. Vậy làm thế nào để thya đổi tâm lí học sinh và giáo viên. Đây
chính là vấn đề đặt ra. Ngời giáo viên phải làm cho bài giảng của mình
sinh động, phải có biện pháp để giờ dạy đạt hiệu quả cao, để hấp dẫn học
sinh,học sinh dễ tiếp thu và giờ ngữ pháp thực sự không còn là giờ học
khó.
Để có đợc một giờ dạy đạt hiệu quả cao đó chính là kết quả của quá
trình lao động đầy gian khổ và nghiêm túc của ngời thầy. Đặc biệt là việc
chuẩn bị bài giảng, hớng dẫn theo dõi học sinh sau giờ học.
Theo dõi để một giờ ngữ pháp đạt hiệu quả cao trong khâu lên lớp ngời

thầy cần làm tốt những thao tác sau.
III.Một số thao tác cần chú ý.
1.Thao tác chuẩn bị bài giảng.
Để một giờ dạy đạt hiệu quả cao trớc hết phải chuẩn bị tốt. Khi chuẩn
bị phải chú ý đến yêu cầu nội dung bài, phơng pháp dạy bài. Và cũng phải
chú đến đối tợng học sinh. Thêm nữa nếu chỉ có giáo viên chuẩn bị mà
học sinh không chuẩn bị thì bài dạy không thể đạt kết quả cao. Nh vậy
không thể coi là chuẩn bị tốt.
Do đó một giờ dạy đạt hiệu quả cao là kết quả của quá trình chuẩn bị
tốt. Và chuẩn bị tốt là chuẩn bị đầy đủ những yếu tố sau:
-Nội dung bài dạy.
-Phơng pháp để truyền đạt nội dung đó.
-Đánh giá đúng đối tợng học sinh.
-Chuẩn bị tinh thần để xử lí các tình huống có thể xảy ra.
Và một vấn đề không thể thiếu đợc trong giảng dạy ngữ pháp là đồ
dùng(bảng phụ). Bảng phụ này đã viết sẵn các ví dụ tiêu biểu, chứa nhiều
kiến thức để phục vụ bài giảng hoặc luyện tập.
2
Ví dụ: Khi dạy bài câu ghép chính phụ-Ngữ pháp lớp 7-Tiết 124. Tôi
đã chuẩn bị bảng phụ với hệ thống ví dụ sau:
a.(Tuy) gia đình có nhiều khó khăn(nhng) Giáp vẫn cố gắng đi học đều
và học tập tốt.
b.(Mặc dù) nhà ở xa trờng (nhng) tôi vẫn đi học đúng giờ
c.(Để) không ngời nào bị điểm kém, chúng ta tổ chức giúp nhau trong
học tập.
d.(Để) công việc đợc hoàn thành đúng thời hạn, (thì) công nhân phải
làm việc thêm ba ca một thời gian.
-Ví dụ a,b dùng để học sinh phân tích, so sánh,đối chiếu rút ra nội
dung thứ nhất của bài học: Thế nào là câu ghép chính phụ nhợng bộ tăng
tiến? Có những cặp quan hệ từ nào thờng dùng?

-Ví dụ c,d dùng để học sinh phân tích,so sánh, đối chiếu rút ra nội
dung thứ hai của bài học: Thế nào là câu ghép chính phụ chỉ mục đích?
Có những cặp quan hệ từ nào thờng dùng?
Bảng phụ - Đó là phơng tiện dạy học rất tốt, nếu giáo viên sử dụng hợp
lí trong khi dạy sẽ tiết kiệm thời gian đồng thời hệ thống ví dụ đã đọc
chuẩn bị từ trớc nên cẩn thận, rõ ràng giúp học sinh dễ quan sát.
2.Thao tác trên lớp.
Nếu giáo viên đã chuẩn bị tốt thì khi lên lớp sẽ chững chạc, tự tin. Nh-
ng khi lên lớp giáo viên cần chú ý những điểm sau:
.Phải tạo cho lớp học có một không khí tốt.
Khi bớc vào lớp thì ngay từ đầu giáo viên phải chú ý đến khâu ổn định
tổ chức. Học sinh phải trật tự, nghiêm túc. Cả học sinh và giáo viên phải
có một t thế, một tinh thần sẵn sàng bớc vào giờ học.
.Phải thực hiện tốt quy trình của khâu lên lớp.
Muốn đạt hiệu quả cao trong giờ ngữ pháp cần phải thực hiện đúng quy
trình ba bớc:
Kiểm tra bài cũ Giảng bài mới Luyện tập.
Kiểm tra bài cũ (khoảng 5-> 10).
Kiểm tra bài cũ là cơ sở nền tảng của sự điều khiển tối u quá trình dạy
học. Giúp thầy giáo biết kết quả lựa chọn nội dung, phng pháp dạy học
cảu mình. Từ đó mà phát huy, điều chỉnh. Giúp học sinh bết kết quả học
tập để điều chỉnh việc tiếp thu nội dung cũng nh phơng pháp học tập.
Khi tiến hành bớc này cần chú ý đến đối tợng học sinh. Với những đối
tợng học sinh đã học bài thì chúng ta không phải bàn luận ( vì đã tạo cho
thầy tâm thế thoải mái). Nhng với những học sinh học bài cũ cha tốt thì
3
thầy phải khéo léo. Thầy nên nhẹ nhàng gợi ý giúp các em nhớ lại bài cũ,
tránh hiện tợng nổi nóng,quát mắng. Nh thế các em sẽ mất bình tĩnh,
không nhớ lại đợc kiến thức đã học đồng thời có thể giờ học đó sẽ có
không khí nặng nề không sôi nổi.

-Khi kiểm tra bài cũ, cần đảm bảo tốt việc chữa bài tập mà giáo viên đã
giao cho học sinh về nhà làm. Chữa bài tập chính là thực hành ngữ pháp
để rèn kỹ năng nói, viết đúng quy tắc, đồng thời phải củng cố kiến thức
nên lợng thời gian phải hợp lý.
Cuối bớc kiểm tra bài cũ nên cho học sinh nhắc lại kiến thức đã học ở
những tiết trớc để khái quát kiến thức.
Ví dụ: Trớc khi dạy bài câu ghép chính phụ (Ngữ pháp lớp 7-Tiết
124). Có thể hỏi: Thế nào là câu ghép chính phụ? Các em đã đợc học
những loại câu ghép chính phụ nào? Nêu khái niệm về những loại đó?
-Khi kiểm tra bài cũ để tận dụng thời gian nên kiểm tra nhiều em cùng
một lúc. Có thể làm nh sau:
+Có thể hai hoặc ba em lên bảng chữa bài tập cùng một lúc( với những
bài cần sử dung bảng).
+Những bài không cần sử dụng bảng có thể gọi học sinh chữa miệng
ngay tại chỗ, nếu cha đúng thì giáo viên chữa ngay.
+Sau khi các em trên bảng làm xong, giáo viên cho học sinh nhận xét
và chữa.
Ví dụ: Khi dạy bài: câu ghép chính phụ (Ngữ pháp lớp 7-Tiết 124).
Tôi đã kiểm tra đợc bốn học sinh.
Làm bài tập 3: Đặt hai câu ghép chính phụ có quan hệ nguyên nhân
kết quả, hai câu ghép chính phụ có quan hệ điều kiện kết quả.
Làm bài tập 5: Đặt câu ghép chính phụ với những cặp quan hệ từ cho
sẵn.
Viết một đoạn văn ngắn, tự em xác định nội dung. Trong đó có dùng
câu ghép chính phụ và cho biét kiểu câu ghép chính phụ đợc dùng.
Đảo trật tự của hai vế trong từng câu ghép chính phụ có đợc ở bài
tập 5 và tự em rút ra quy tắc về cách sử dụng quan hệ từ tơng ứng ở đầu vế
chính.
Với em thứ nhất (BT
3

), và em thứ hai (BT
5
) tôi cho làm trên bảng hai
bài tập còn lại tôi cho làm miệng ngay tại chỗ.
Với cách kiểm trên trong một thời gian có hạn có thể kiểm tra đợc
nhiều em nên GV có thể nắm đợc sâu sắc tình hình học vcà làm bài tập ở
nhà của học sinh.
Giảng bài mới(15-> 20).
4
Hiện nay SGK môn Tiếng việt ở trờng THCS việc bố trí nội dung bài
học ( nếu là tìm hiểu kiến thức mới) thờng gồm hai phần:
-Tìm hiểu bài.
-Bài học.
Đây là bớc chủ yếu nhất trong quy trình một bài dạy, cũng là phần
hình thành klhái niệm để từ đó học sinh vận dụng vào làm bài tập nên cần
làm tốt những việc sau:
-Hệ thống ví dụ phải tốt.
-Dẫn dắt phân tích tốt.
-Rút ra khái niệm tốt.
*Hệ thống ví dụ tốt cần đảm bảo những yêu cầu sau:
-Ví dụ phải phù hợp với đối tợng dạy, nội dung dạy.
-Phải tiêu biểu,rõ ràng (nên gạch chân những chỗ cần thiết).
-Phải có đủ số ví dụ cần thiết cho việc so sánh,phân tích để bớc quy
nạp rút ra bài học.
-Phải có tính giáo dục, tính thẩm mỹ: Nội dung chính xác, trong sáng,
là ngôn ngữ văn học.
-Phải có tính khoa học, tính t tởng: Sát thực tế.
*Ví dụ đã đa ra trên bảng phụ. Chúng ta có thể tiến hành theo những b-
ớc sau:
Cách 1: Có thể hớng dẫn học sinh so sánh, phân tích toàn bộ các ví dụ

rồi rút ra bài học.
Cách 2: Có thể lần lựơt phân tích từng ví dụ để rút ra từng bài học.
VD: Khi bài dạy câu ghép chính phụ (Ngữ pháp lớp 7-Tiết 124), tôi
đã sử dụng 4 ví dụ và làm theo cách hai.
-Để rút ra bài học thứ nhất: Câu ghép chính phụ nhợng bộ tăng tiến
tôi sử dụng ví dụ a,b.
-Để rút ra bài học thứ hai: Câu ghép chính phụ chỉ mục đích, tôi sử
dụng ví dụ c,d.
*Dạy nghữ pháp là phải dạy theo phơng pháp quy nạp.
Phơng pháp chung trong dạy học tiếng việt là quy nạp, thực
hành.Nghĩa là đi từ thực tế là nơi (từ ví dụ) mà dẫn dắt, phân tích để rút ra
những khái niệm, những quy tắc nói và viết chuẩn mực.
Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: Cần khắc
phục triệt để lối dạy và học lý thuyết suông tách rời thực tiễn có tính chất
nhồi sọ của nền giáo dục còn rớt lại trong nhà trờng XHCN của chúng ta.
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×