Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Sử dụng sự dịch chuyển đường cung, đường cầu để phân tích sự biến động của ngành Xăng dầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.6 KB, 34 trang )

F

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

------

Đề tài: “SỬ DỤNG SỰ DỊCH CHUYỂN ĐƯỜNG CUNG,
ĐƯỜNG CẦU PHÂN TÍCH SỰ BIẾN ĐỘNG GIÁ CỦA
NGÀNH XĂNG DẦU”

GVHD

: TS. Trương Sỹ Quý

Lớp

: K36.QLK.KT

Nhóm HV :

- Nguyễn Văn Hải Đức
- Nguyễn Đức Hiển
- Trần Thị Ánh Chung
- Dương Thị Lam Giang
- Lương Viết Tú
- Nguyễn Minh Vương

Kon Tum, tháng 04 năm 2018



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................1
PHẦN I: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, .............................................................................2
MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................2
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 2
2.

Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 2

3.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 2

PHẦN II: THỰC TRẠNG CUNG CẦU XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM ......................3
I.
Tổng quan về thị trường xăng dầu ở Việt Nam. ...........................................3
1.

Giai đoạn trước năm 2000 .......................................................................... 3-4

2.

Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù

giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)................................. 4-6
3.

II.

Giai đoạn từ cuối năm 2008 đầu năm 2009 đến nay .................................. 6-8

3.1.

Cung xăng dầu .........................................................................................8

3.2.

Cầu xăng dầu ..................................................................................... 9-11

3.3.

Những biến động về giá cả xăng dầu Việt Nam .............................. 11-13

3.4.

Những tác động của tăng giá xăng dầu đến xã hội .......................... 13-14

Vận dụng cung cầu trong thị trường xăng dầu ...........................................14

1.

Xét về khía cạnh cung: ........................................................................... 14-17

2.

Xét về khía cạnh cầu ............................................................................... 17-18

3.

Các yếu tố khác (phi kinh tế) .................................................................. 19-20


III. Chính sách của Chính phủ đối với ngành xăng dầu nước ta .....................20
1.

Về điều hành giá xăng dầu: .................................................................... 20-21

2.

Biên độ điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu ........................................................ 21

3.

Về Quỹ bình ổn giá xăng dầu ....................................................................... 22

4.

Hệ thống phân phối xăng dầu ....................................................................... 22

5.

Tăng cường công khai, minh bạch ............................................................... 23

IV.

Các chính sách xăng dầu trên thị trường thế giới ...................................... 23-25

V.

Kinh tế Việt Nam và tác động từ giá dầu thế giới ..................................... 25-28

VI.


Bài học kinh nghiệm .................................................................................. 28-30

KẾT LUẬN ................................................................................................................311
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................32


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

LỜI NÓI ĐẦU
Quá trình phát triển loài người gắn liền với quá trình lao động. Chính nhờ lao
động sản xuất mà con người mới đưa xã hội lên tầm cao mới, xuất hiện nhiều nền văn
minh mới, khám phá nhiều nguồn năng lượng mới cho cuộc sống. Đặc biệt là sự xuất
hiện “dầu mỏ” một nguồn năng lượng vô cùng cần thiết cho tất cả các quốc gia trên
thế giới. Dầu là một trong những nguồn năng lượng đầu vào quan trọng nhất trong hầu
hết các hoạt động kinh tế, do vậy sự biến động của giá dầu có tác động đáng kể tới nền
kinh tế. Dầu mỏ là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho
con người. So với các khoáng sản khác như: than đá, đồng, chì, nhôm, sắt…thì dầu mỏ
được con người biết đến và sử dụng tương đối muộn hơn. Dầu mỏ, cùng với các sản
phẩm dầu mỏ, trong đó có xăng dầu trở thành nguồn năng lượng không thể thiếu đối
với loài người. Xăng dầu là nhiên liệu thiết yếu cho tất cả các loại phương tiện vận tải
hiện đại, giúp con người thuận tiện trong lưu thông, đi lại. Chúng cũng là nhiên liệu
dùng cho máy móc trong sản xuất, gián tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy,
xăng dầu có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống sinh hoạt và sản xuất, thương mại.
Xăng dầu là nguồn năng lượng có vị trí chiến lược trong các ngành sản xuất vật
chất, dịch vụ như giao thông vận tải, sản xuất than, điện, thép, an ninh quốc phòng và
tiêu dùng. Đối với tất cả các quốc gia, xăng dầu là động lực thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, là nhu cầu không thể thiếu của một xã hội hiện đại.

Thị trường xăng dầu nước ta mới hình thành khoảng hơn một thế kỷ, song đã có nhiều
thay đổi về quy mô, tính chất và cả về số lượng, chất lượng của chủ thể tham gia.
Cùng với nhịp độ phát triển kinh tế không ngừng, nhu cầu sử dụng năng lượng
của con người tăng mạnh. Những tác động của cung – cầu và một số nhân tố khách
quan khác khiến giá dầu thô trên thế giới liên tục biến động, kéo giá xăng dầu thế giới
tăng cao. Trong khi đó, Việt Nam là nước nhập khẩu xăng dầu nên trực tiếp chịu ảnh
hưởng của những biến động giá xăng dầu thế giới. Trong những năm gần đây, giá cả
xăng dầu trong nước luôn trong tình trạng bất ổn, khó dự đoán, gây ảnh hưởng không
nhỏ tới đời sống sản xuất và tiêu dùng cũng như toàn nền kinh tế. Do đó, một vấn đề
được đặt ra là cần tìm ra những nguyên nhân gây biến động giá, từ đó rút ra các giải
pháp cần thiết nhằm ổn định thị trường xăng dầu nội địa. Trên cơ sở nghiên cứu lý
luận về lý thuyết cung cầu chúng ta sẽ tìm hiểu diễn biến cung cầu của xăng dầu trên
thị trường Việt Nam thời gian qua và hiện nay; đồng thời đề xuất các giải pháp đối với
thị trường xăng dầu ở nước ta trong thời gian tới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nêu trên, nhóm em chọn đề tài “Sử dụng sự dịch
chuyển đường cung, đường cầu để phân tích sự biến động của ngành Xăng dầu”
Lớp: K36.QLK.KT

1


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

PHẦN I: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI,
MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: mặt hàng xăng dầu và thị trường xăng dầu nội địa, diễn
biến giá cả trên thị trường xăng dầu; các chính sách của Nhà nước có liên quan tới

quản lý giá cả và mặt hàng xăng dầu như: các văn bản luật và dưới luật có liên quan
như Nghị định, Quyết định. Ngoài ra đề tài cũng đi vào phân tích khái quát diễn biến
giá cả dầu thô thế giới, tình hình giá cả các loại hàng hóa nói chung nhằm làm nổi bật
nội dung vấn đề nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về những diễn biến giá cả của mặt hàng
xăng, dầu trên thị trường Việt Nam từ trước năm 2000 đến năm 2017.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu vị trí, vai trò và đặc điểm của mặt hàng xăng dầu và thị trường xăng
dầu Việt Nam trong những năm gần đây;
- Nghiên cứu, phân tích tình hình giá cả xăng dầu trên thị trường Việt Nam giai
đoạn trước năm 2000 – 2017 để có một cái nhìn tổng quan nhất về những biến động
của mặt hàng này trong thời gian qua. Qua đó phân tích những ảnh hưởng của nó đến
đời sống kinh tế – xã hội trong nước và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình
trạng giá cả tăng giảm thất thường;
- Tìm ra những giải pháp tối ưu nhất nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của
biến động giá xăng dầu đối với nền kinh tế, đồng thời phân tích và đưa ra những giải
pháp nhầm bình ổn giá cả trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa tài liệu, phương pháp so sánh…
Các số liệu được sử dụng trong bài được thống kê từ nhiều nguồn tài liệu: các văn bản
của Bộ Tài chính, các bài nghiên cứu, trao đổi, các bài phân tích đánh giá trên các tạp
chí, trang web, các phương tiện thông tin đại chúng… Ngoài ra từ những số liệu có sẵn
từ các bảng thống kê, biểu đồ so sánh, hệ thống nhằm tổng hợp để cụ thể hóa nội dung
cần phân tích.

Lớp: K36.QLK.KT

2



Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

PHẦN II: THỰC TRẠNG CUNG CẦU XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
I. Tổng quan về thị trường xăng dầu ở Việt Nam.
Để phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế Nhà nước đã nhiều lần điều
chỉnh cơ chế quản lý về kinh doanh xăng dầu với những chính sách hợp với đặc thù
của mỗi giai đoạn.
Khái quát thị trường xăng dầu trong gần 30 năm qua, kể từ khi Việt Nam xây
dựng nền móng của thị trường xăng dầu năm 1989. Quá trình chuyển đổi có thể phân
chia thành 3 giai đoạn: trước năm 2000; từ năm 2000 đến cuối năm 2008 và từ cuối
năm 2008 đến nay.
1. Giai đoạn trước năm 2000
Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng dầu cung cấp
theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy định “giá cứng” sang áp
dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng
ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự cân đối, mua của các doanh nghiệp xuất khẩu qua
ngân hàng hoặc hình thức uỷ thác bao tiêu xăng dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ thu
được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn này, nguồn ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước bảo
đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu. Doanh nghiệp
đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt
động kinh doanh.
Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá
tối đa với xăng, dầu; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi
giá tối đa. Nhà nước xác định mức độ chịu đựng của nền kinh tế để xác định giá tối đa;
việc điều chỉnh giá tối đa ở giai đoạn này chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã
sử dụng hết. Cơ chế "giá tối đa" trong giai đoạn này không những bảo đảm được cung
- cầu phục vụ nền kinh tế mà còn tạo ra nguồn thu ổn định cho Nhà nước và DN.

Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà nước về giá
chuẩn, doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc
nguồn ngoại tệ tự huy động từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ
thông qua tỷ giá phù hợp nên đã huy động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu
cầu xăng dầu cho nền kinh tế sau khi không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định.
Chính chủ trương không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng sử dụng xăng
dầu thông qua doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều kiện quyết định để Việt Nam
có thể tự cân đối được ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập
trung của Nhà nước từ dầu thô mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu
Lớp: K36.QLK.KT

3


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu lúc đó.
Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (giá dầu vào
tháng 11 năm 1998 chỉ ở mức 13 USD/thùng), tương đối ổn định nên với cơ chế giá
tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể là: (1) Cân đối cung – cầu được
đảm bảo vững chắc; (2) Các hộ sản xuất và người tiêu dùng lẻ được hưởng mức giá
tương đối ổn định; biến động giá tuy chỉ theo xu hướng tăng song mức tăng đều,
không gây khó khăn nhiều cho sản xuất và tiêu dùng khi chủ động hoạch định được
ngân sách cho tiêu thụ xăng dầu hàng năm; (3) Ngân sách Nhà nước tăng thu thông
qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ thu, phí xăng dầu; (4) Doanh nghiệp có tích luỹ
để đầu tư phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho đầu mối, kho
trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới bán lẻ.
Mặc dù vậy, cơ chế quản lý – điều hành trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ khá

rõ những nhược điểm như tương quan giá bán giữa các mặt hàng không hợp lý dẫn
đến tiêu dùng lãng phí, nhà đầu tư không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu quả
đầu tư nên chỉ cần thay đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng
nhiên liệu, nhiều nhà sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi nhiên
liệu đốt (thay thế madut, dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận thương mại xuất hiện
do định giá thấp đối với mặt hàng chính sách (dầu hoả); Nhà nước giữ giá ổn định
trong một thời gian quá dài thoát ly giá thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của
người sử dụng về thay đổi giá mà không cần xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải
điều chỉnh tăng giá.
Ở cuối của giai đoạn này thị trường đã có dấu hiệu biến động mạnh ở mức cao
hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát…đều
có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài; trong khi chưa tìm được cơ chế điều
hành thích hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã sử dụng
biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho người tiêu dùng qua doanh
nghiệp nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.
2. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù
giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)
Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động kinh doanh
xăng dầu vẫn chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó.
Trong khi đó, từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có
những thay đổi căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập
mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu
dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp
Lớp: K36.QLK.KT

4


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô


GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

nên số tiền ngân sách bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22
nghìn tỷ đồng năm 2008; loại trừ yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng quá
cao; chưa có đánh giá nào đề cập đến khía cạnh này song xét đơn thuần trên số liệu,
nếu đầu tư hàng ngàn tỷ đồng này cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh doanh
xăng dầu, đã có thể tạo lập một hệ thống kinh doanh xăng dầu đủ lớn và hiện đại, có
khả năng cạnh tranh khi mở cửa thị trường xăng dầu trong tương lai gần.
Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2;
giá xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ
không thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu.
Cho đến thời điểm này, sự đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo
Quyết định Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg vẫn được coi là mạnh mẽ nhất với các tư
tưởng cơ bản bao gồm:
- Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh
tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu).
- Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp
được phép cộng vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2%
so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu.
- Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà
nước không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước
và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong
QĐ số 187/2003/QĐ-TTg chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà
nước tiếp tục điều hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng
và giảm.
Trong giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá, song sự ra đời
của Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 và Nghị đinh số 55/2007/NĐCP ngày 06/4/2007 đã tạo ra một hệ thống phân phối rộng khắp với gần 10.000 cửa
hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành mạnh hóa thị trường trước đây

khá lộn xộn khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu và các đại lý, tổng đại lý khi
gắn trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với các đại lý, tổng đại lý cũng
như giúp cơ quan quản lý chức năng, người tiêu dùng cùng tham gia vào quá trình
giám sát hoạt động của các đại lý, tổng đại lý trong việc chấp hành quy định kinh
doanh xăng dầu.

Lớp: K36.QLK.KT

5


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để đổi mới cơ
chế quản lý kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp quy là Quyết định
187/2003/QĐ-TTg và Nghị định 55/2007/NĐ-CP. Tuy nhiên, cho đến nay, các Quy
định trên đã không đi vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống phân phối được thiết lập
nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện được). Yếu tố ổn định giá
vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước lúng
lúng khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như mâu thuẫn nhau ở cùng một thời
điểm.
Việc áp dụng một biện pháp duy nhất (biện pháp bù giá), làm cho giá nội địa
thoát ly giá thế giới trong một chu kỳ quá dài với bối cảnh giá xăng dầu thế giới đã
nhiều lần hình thành mặt bằng giá mới cao hơn; ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố địa
chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến biến động giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau
mỗi ngày… đã làm cân đối ngân sách bị phá vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực
cho phát triển; việc kìm giá và điều chỉnh sốc tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa
kể hiện tượng đầu cơ chờ tăng giá làm méo mó nhu cầu, chuyển khá nhiều nguồn lực

cho đại lý; phần lớn người tiêu dùng không được thông tin đầy đủ về cơ chế điều hành
và lợi ích mà Nhà nước đem lại cho nhân dân nên thường xuyên có phản ứng tiêu cực
sau mỗi lần điều chỉnh giá (kể cả tăng và giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận
trong xã hội; thẩm lậu xăng dầu qua biên giới ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà
nước thất thu ngân sách kể cả lúc giá thấp hơn và cao hơn nước lân cận do thẩm lậu
xăng dầu qua biên giới.
Hệ quả rất xấu của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu dùng vẫn hiểu
là bù lỗ cho doanh nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận điều chỉnh tăng giá dẫn đến
ngân sách nhà nước bị thâm hụt do thực hiện chính sách bù giá, kể cả mức rất thấp và
phản ứng mạnh trước thông tin doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không có hiệu quả
mà luôn được Nhà nước bù lỗ.
Cũng cần khẳng định rằng, chỉ khi Nhà nước bảo đảm đủ cân đối ngoại tệ cho
nhập khẩu xăng dầu thì mới có thể áp dụng biện pháp bù giá. Đây chính là điểm khác
biệt so với giai đoạn trước, khi mà nguồn ngoại tệ từ dầu thô và các nguồn dự trữ tập
trung khác của Nhà nước đã đủ lớn.
3. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đầu năm 2009 đến nay
Ngày 15/10/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh
doanh xăng dầu thay thế Nghị định số 55/2007/NĐ-CP ngày 06/4/2007. Việc Chính
phủ ban hành Nghị định này, lần đầu tiên việc kinh doanh xăng dầu được thực sự vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Nghị định quy định rất cụ
Lớp: K36.QLK.KT

6


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

thể, khống chế định mức, định lượng, thời hạn của việc tăng, giảm giá xăng dầu. Đặc

biệt là việc công khai hóa công thức tính toán hình thành giá bán lẻ xăng dầu, công
khai minh bạch để làm căn cứ giám sát quá trình tăng, giảm giá. Nghị định cho phép
doanh nghiệp được phép tự ban hành, công bố và áp dụng giá bán mà không cần đăng
ký, xin phép phương án điều chỉnh giá, bỏ qua khâu kiểm tra, phê duyệt phương án
như trước đây, từ đó xóa bỏ được tình trạng cơ quan quản lý chờ doanh nghiệp đăng
ký giá, còn doanh nghiệp nhìn nhau để tăng, giảm, tức là loại bỏ yếu tố phi thị trường.
Nghị định cho phép doanh nghiệp được phép tự ban hành, công bố và áp dụng giá bán
mà không cần đăng ký, xin phép phương án điều chỉnh giá, bỏ qua khâu kiểm tra, phê
duyệt phương án như trước đây, từ đó xóa bỏ được tình trạng cơ quan quản lý chờ
doanh nghiệp đăng ký giá, còn doanh nghiệp nhìn nhau để tăng, giảm, tức là loại bỏ
yếu tố phi thị trường. Sự ra đời của Nghị định 84/2009/NĐ-CP được xem là hành lang
pháp lý để xăng dầu chính thức đi vào hoạt động.
Năm 2010, được xem là một cơ hội đối với ngành Xăng dầu Việt Nam vì đây là
năm đầu tiên Nghị định 84/2009/NĐ-CP thực sự được “đi vào cuộc sống”. Bên cạnh
đó cũng có không ít khó khăn, áp lực đối với các doanh nghiệp đầu mối. Vì khi áp
dụng cơ chế này đòi hỏi sự chủ động cũng như phải rất linh hoạt trong việc ứng phó
với thị trường xăng dầu vốn luôn biến động đầy phức tạp như:
• Doanh nghiệp vẫn không có thực quyền về xác định giá bán như các văn bản
quy định.
• Nhà nước không có biện pháp kiểm soát các doanh nghiệp kết cấu giá bán
xăng để hình thành nguồn trả nợ ngân sách. Thị trường kinh doanh xăng dầu chưa có
sự cạnh tranh thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh
doanh xăng dầu.
• Các văn bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (khung thuế
nhập khẩu, quỹ bình ổn giá).
• Cơ chế đăng ký giá kéo dài mang nặng tính xin cho (phê duyệt), các cơ quan
truyền thông khai thác và đưa ra thông tin về tăng giảm giá rất sớm, không những
không có tính định hướng dư luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả doanh nghiệp và cơ
quan quản lý. Về phương thức điều hành giá kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam trên
danh nghĩa đã được chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước từ sau

16/9/2008, tuy nhiên cơ chế hiện nay còn chưa thực hiện được. Về cơ chế định giá còn
mang “lưỡng tính" hay “nửa vời", nghĩa là Nhà nước giao quyền cho doanh nghiệp
định giá, nhưng Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá
• Nguồn lực từ doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại lý rất khó kiểm soát sự
Lớp: K36.QLK.KT

7


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

minh bạch và đúng đắn trước thời điểm tăng giá.
3.1. Cung xăng dầu
3.1.1. Nguồn cung do nhập khẩu
Theo số liệu của Tổng cục thống kê: đến thời điểm tháng 02/2011, Việt Nam
nhập khẩu xăng dầu các loại đạt mức 886,6 nghìn tấn với kim ngạch 743,9 triệu USD;
giảm 15,4% về lượng và giảm 9,7% về trị giá so với tháng trước; giảm 5,3% về lượng
nhưng tăng 35% về trị giá so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng lượng xăng dầu các
loại nhập khẩu của Việt Nam 02 tháng đầu năm 2011 đạt 1,9 triệu tấn với kim ngạch
1,6 tỉ USD, tăng 15,6% về lượng và tăng 57,3% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm
11,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước 02 tháng đầu năm 2011.
Phần lớn nhập khẩu các loại: xăng, diesel, mazut, nhiên liệu bay của Việt Nam
trong 02 tháng đầu năm 2011 có tốc độ tăng trưởng mạnh cả về lượng và trị giá; trong
đó Singapore là thị trường dẫn đầu về lượng và kim ngạch nhập khẩu đạt 811 nghìn
tấn với kim ngạch 637,8 triệu USD, tăng 27% về lượng và tăng 75,6% về trị giá so với
cùng kỳ, chiếm 40,7% trong tổng kim ngạch.
Theo thông tin từ Bộ Công thương, mặc dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã đưa
vào hoạt động và chạy hết công suất, nhưng sản lượng đáp ứng được 25- 30% nhu cầu.

Do đó, trong 5 tháng đầu năm nhập khẩu xăng dầu vẫn tăng cao. Trong nhiều năm gần
đây, nguồn xuất khẩu dầu thô trong nước đủ bù đắp nhập khẩu xăng dầu, thậm chí có
thời kỳ xuất siêu, nhưng năm nay tỷ lệ xuất đã thấp hơn nhập.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu dầu thô chỉ đạt 3 tỷ USD, trong khi nhập khẩu
xăng dầu lên tới 4,6 tỷ USD, gây áp lực lớn lên cán cân thương mại, nhất là việc đảm
bảo nguồn ngoại tệ. Trong 5 tháng này, tổng lượng xăng dầu chúng ta nhập khẩu đã
lên tới 5,142 triệu tấn, tăng 15,6% về lượng. Cộng với mức tăng 41% về giá, tổng số
tiền phải bỏ ra để nhập khẩu xăng dầu đã tăng đến 61,3%.
3.1.2. Nguồn cung nội địa
Giai đoạn này, Việt Nam đã có nguồn sản xuất xăng dầu trong nước đó là Nhà
máy lọc dầu Dung Quất. Từ khi Nhà máy Lọc dầu Dung Quất được đưa vào vận hành,
nguồn cung xăng dầu tại Việt Nam được bổ sung khoảng 6,5 triệu tấn/năm (tương
đương 148.000 thùng/ngày) đáp ứng khoảng 30% nhu cầu thị trường trong nước; còn
lại Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ các nước như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Hiện tại, tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam – Petro VietNam – đang xúc tiến nâng
công suất chế biến nhà máy lên đến 10 triệu tấn dầu thô/năm.
• Trong giai đoạn đầu, nhà máy chế biến 100% dầu thô từ mỏ Bạch Hổ.
Lớp: K36.QLK.KT

8


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

• Giai đoạn kế tiếp, nhà máy sẽ chế biến dầu thô hỗn hợp với 85% dầu thô Bạch
Hổ (hoặc dầu ngọt tương đương trong nước và có thể nhập từ Nga, Kuwait) cùng với
15% dầu chua nhập từ Dubai. Bắt đầu từ năm 2011, nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ
nhập dầu thô từ nước ngoài về nhiều hơn, trung bình mỗi chuyến từ 80.000 – 100.000

tấn. Hiện mỗi năm, nhà máy lọc dầu Dung Quất có thể sản xuất từ 200.000-300.000
tấn nhiên liệu bay Jet A1, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và một phần xuất khẩu.
Đến thời điểm này, Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã nhập được 67 chuyến dầu thô với
tổng khối lượng hơn 5,3 triệu tấn, đã sản xuất ra hơn 4,6 triệu tấn sản phẩm và xuất
bán ra thị trường hơn 4,4 triệu tấn sản phẩm các loại đạt tiêu chuẩn.
Ngày 25/01/2010, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã ký hợp
đồng nguyên tắc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam). Theo đó trong năm
2010, Petrolimex sẽ mua 1 triệu m3 sản phẩm xăng dầu thành phẩm do nhà máy lọc
dầu Dung Quất sản xuất, giao hàng theo điều kiện FOB Dung Quất. Các mặt hàng đã
thoả thuận mua bán gồm: 100.000m3 xăng 95; 400.000m3 xăng 92; 235.000m3 điêzen
0,05S; 235.000m3điêzen 0,25S và 30.000m3 dầu hỏa. Chất lượng sản phẩm theo Tiêu
chuẩn cơ sở của Nhà máy lọc dầu Dung Quất và phù hợp với tiêu chuẩn xăng dầu
được phép lưu thông tại Việt Nam.
Petrolimex là doanh nghiệp Nhà nước đang kinh doanh trên 12 lĩnh vực, trong
đó xăng dầu là trục chính. Trong lĩnh vực xăng dầu, Petrolimex giữ vai trò chủ đạo
trên thị trường nội địa, với trên 50% thị phần. Hiện Petrolimex đang trực tiếp kinh
doanh xăng dầu trên địa bàn 62/63 tỉnh, thành phố với hơn 1.900 cửa hàng khắp cả
nước. Hàng năm, Petrolimex nhập khẩu từ 7-8 triệu m3 xăng dầu các loại.
3.2. Cầu xăng dầu
Theo báo cáo của Bộ Công thương, năm 2010 tiêu thụ xăng dầu trong nước ước
tính khoảng 15 triệu tấn, tăng khoảng 4% so với năm 2009. Năm qua, Việt Nam đã sản
xuất được gần 2 triệu tấn xăng dầu và vẫn phải nhập khoảng 13 triệu tấn. Theo dự báo
của Bộ Công thương, năm 2010 tiêu thụ xăng dầu trong nước sẽ trên 16 triệu tấn,
trong nước sản xuất được khoảng 5,88 triệu tấn.
Đặc biệt, do là một nước đang phát triển nên nhu cầu tiêu thụ sản phẩm xăng
dầu ở Việt Nam sẽ tăng rất nhanh, 6 - 7%/năm từ năm 2011 - 2020 và khoảng 44,5%/năm từ năm 2021-2050. Nhu cầu các sản phẩm xăng dầu vào các năm 2005,
2010, 2020, 2050 tương ứng khoảng 11,2 triệu tấn, 17,5 - 18 triệu tấn, 32,7 - 36,5 triệu
tấn và 106 - 135 triệu tấn.
Nhu cầu dầu làm nguyên liệu trong công nghiệp hóa dầu càng tăng nhanh: cần
trên 5 triệu tấn vào năm 2005, khoảng 8 triệu tấn vào năm 2010 và trên 17 triệu tấn

Lớp: K36.QLK.KT

9


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

vào năm 2020. Tương tự là nhu cầu tiêu thụ khí (80% cho sản xuất điện), năm 2010
cần khoảng 8 - 10 tỷ m3, và có thể lên đến 14 - 18 tỷ m3 vào năm 2020, tùy thuộc vào
khả năng cấp khí
Với xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam, tăng trưởng GDP trung bình
giai đoạn 2008-2010 dự báo là 7,5%, giai đoạn 2011- 2020 là 7,2%. Sự tăng trưởng
kinh tế kéo theo tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu. Dự báo nhu cầu xăng dầu ở
Việt Nam đến 2025 như sau:
Theo tính toán, nhu cầu năng lượng của ngành công nghiệp vào năm 2010 sẽ
vào khoảng 13,4 - 14 triệu TOE (triệu TOE - tương đương triệu tấn dầu), năm 2020:
khoảng 25,4 - 28 triệu TOE, năm 2050: khoảng 110 - 131 triệu TOE (tốc độ tăng bình
quân giai đoạn 2001 - 2020 là 9,2 - 9,7%/năm, giai đoạn 2021 - 2050: 5 - 5,3%/năm).
Tỉ trọng năng lượng tiêu thụ của ngành công nghiệp sẽ tăng lên đến 42% vào năm
2020 và 52% - 53% vào năm 2050.
Đối với ngành giao thông vận tải, nhu cầu năng lượng
• Năm 2010 là khoảng 11,3 - 12 triệu TOE,
• Năm 2020: khoảng 21,5 - 24 triệu TOE, năm 2050: khoảng 55 - 72 triệu TOE;
• Tỉ trọng tiêu thụ năng lượng của ngành sẽ giảm dần từ 35% hiện nay xuống
còn 27% vào năm 2050
Đối với ngành dịch vụ nhu cầu năng lượng:
• Năm 2010 là khoảng 2,2 triệu TOE.
• Năm 2020: khoảng 3,7 - 4,3 triệu TOE.

• Năm 2050: khoảng 16 - 21 triệu TOE; tỉ trọng tiêu thụ năng lượng giữ ổn định
trong khoảng 7 -8%.
Đối với ngành nông nghiệp được dự báo là:
• Khoảng 1 triệu TOE vào năm 2010, năm 2020: khoảng 1,4 - 1,5 triệu TOE,
năm 2050
• Khoảng 3,4 - 3,8 triệu TOE; tỉ trọng tiêu thụ năng lượng sẽ giảm từ 5% hiện
nay xuống c ̣n 2 - 3% vào từ sau năm 2010.
Đối với khu vực dân dụng, tiêu thụ năng lượng sẽ tăng dần theo sự tăng dân số,
mức độ đô thị hóa và mức tăng thu nhập. Dự báo nhu cầu năng lượng cho dân dụng
vào:
• Năm 2010 sẽ là khoảng 4,4 triệu TOE,
Lớp: K36.QLK.KT

10


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

• Năm 2020: khoảng 8,2 - 8,6 triệu TOE.
• Năm 2050: khoảng 22 - 24 triệu TOE
Chuyển thành nước nhập khẩu năng lượng. Từ một nước xuất khẩu năng lượng,
bắt đầu từ năm 2013, dự kiến Việt Nam sẽ trở thành nước nhập khẩu năng lượng với
tỷ lệ khoảng 25 - 27% vào năm 2020; khoảng 57 - 62% vào năm 2050. Những con số
này có thể lớn hơn thế nữa, nếu ngay từ bây giờ ngành năng lượng Việt Nam không có
sự đầu tư lớn và quyết liệt cho cân bằng giữa cung và cầu về năng lượng.
3.3. Những biến động về giá cả xăng dầu Việt Nam
Việt Nam là nước phải nhập khẩu phần lớn xăng dầu; dĩ nhiên sự gia tăng giá
xăng dầu trên thị trường thế giới cũng kéo theo sự gia tăng liên tục của giá xăng dầu

tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, nhờ nhiều biện pháp can thiệp kịp thời của Chính
phủ nên biến động giá xăng dầu ở nước ta chưa đến mức cao như mức bình quân trên
thị trường thế giới, nhưng giá xăng dầu cũng đã khá cao này nếu duy trì trong một thời
gian dài cũng đặt ra nhiều vấn đề kinh tế đáng để các nhà hoạch định chính sách xem
xét. Ta nên xem lại giá xăng dầu trung bình qua các năm:
Đơn vị tính: Đồng/lít
Xăng 92

Diesel 0,25S – 0.05S

Năm 2005

8.960

6.180

Năm 2006

11.120

8.120

Năm 2007

11.440

9.630

Năm 2008


15.120

13.700

Năm 2009

13.770

11.850

Năm 2010

16.450

14.640

Năm 2011

20.550

20.100

Năm 2012

22.480

21.000

Năm 2013


23.700

21.900

Lớp: K36.QLK.KT

11


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

Năm 2014

24.700

22.600

Năm 2015

17.910

14.160

Năm 2016

15.850

11.350


Năm 2017

17.530

13.970

Năm 2018

18.570

15.780

Nhiều người dân đang băn khoăn là tại sao mất tới 3 tỉ USD đầu tư để có nhà
máy lọc dầu rồi, giá xăng dầu sản xuất tại Việt Nam vẫn không thấp hơn giá xăng dầu
nhập khẩu.
Có nhiều nguyên nhân:
• Nhà máy lọc dầu Dung Quất chỉ đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu trong nước
nên phải tuân theo điều hành vĩ mô về giá của Chính phủ, không thể trong một nước
để cùng tồn tại hai mức giá.
• Do giá dầu thô Bạch Hổ sẽ được bán cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất tương
đương giá xuất khẩu cùng thời điểm, nên cấu thành đầu vào của nhà máy không rẻ
hơn.
• Đoạn đường vận chuyển dầu thô từ biển vào Dung Quất tương đối xa, vận tải
xăng dầu đã qua chế biến từ Quảng Ngãi đi các thị trường tiêu thụ, đặc biệt là Hà Nội
Lớp: K36.QLK.KT

12



Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

và Tp.HCM cũng không kém bao nhiêu so với nhập từ Singapore về Việt Nam nên chi
phí vận tải không thay đổi.
• Ngoài ra, các nhà máy mới đi vào hoạt động thì chi phí khấu hao thường lớn.
Chỉ sau khi khấu hao xong, chính sách giá mới có thể linh hoạt. Đây chính là các lý do
khiến giá xăng dầu từ Dung Quất khó rẻ hơn giá nhập khẩu.
Theo lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng đối
với các nền kinh tế. Việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của
dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản phẩm xăng
dầu tăng lên tương đối so với thu nhập. Hơn nữa, mặt hàng xăng dầu tương đối không
co giãn so với giá - nghĩa là giá tăng nhưng người sử dụng phương tiện vận tải cơ giới
vẫn phải sử dụng do không có nhiên liệu khác thay thế, do vậy khi giá xăng dầu tăng
thì người tiêu dùng có ít thu nhập hơn dùng để chi tiêu cho các hàng hóa khác.
Sự gia tăng giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tượng giá
cánh kéo. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế khác,
nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá
đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức
mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát.
3.4. Những tác động của tăng giá xăng dầu đến xã hội
Việc tăng giá xăng dầu với biên độ lớn được xem là mức tăng giá xăng dầu cao
nhất trong lịch sử ngành sản xuất và cung cấp nhiên liệu tại Việt Nam. Mấy tháng trở
lại đây, báo chí trong nước liên tục đưa tin, giá xăng dầu của Việt Nam thấp hơn các
nước trong khu vực, nên hiện tượng buôn lậu xảy ra triền miên. Đồng thời, cho đến
giữa tháng 01/2011, quỹ bình ổn xăng dầu của Việt Nam lại bị gánh thêm 600 đồng
cho mỗi lít dầu diesel nhập khẩu, chi tiêu từ quỹ bình ổn đã cạn kiệt với hơn 6.000 tỷ
đồng để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu.
Bên cạnh đó, các mức thuế nhập khẩu ưu đãi cho xăng dầu cũng xuống đến mức

thấp kỷ lục 0%. Mức tăng giá lớn lần này khiến các doanh nghiệp và người dân không
có thời gian chuẩn bị và điều chỉnh lại hành vi sử dụng xăng dầu, do vậy sẽ ảnh hưởng
bất lợi đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân.
Về mặt ngắn hạn, bao hàm những yếu tố tiêu cực dễ nhận thấy như: tâm lý tiêu
dùng của người dân xáo trộn, sức ép tăng giá lên những mặt hàng có liên quan đến sử
dụng xăng dầu, gây sốc trên thị trường chứng khoán, bất lợi cho khu vực kinh doanh
khi yếu tố đầu vào tăng giá và quan trọng nhất là tác động trực tiếp đến chỉ số giá tiêu
dùng (CPI).

Lớp: K36.QLK.KT

13


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

Tuy nhiên, về mặt dài hạn, thì tăng giá xăng dầu xem ra lại có những biểu hiện
tích cực, cụ thể là giảm sức ép của thâm hụt ngân sách do thuế khoá hoặc vay nợ nước
ngoài, hạn chế buôn lậu xăng dầu qua biên giới, ngăn ngừa đầu cơ xăng dầu trục lợi,
và tránh được những méo mó trên thị trường do các hình thức trợ cấp (chẳng hạn, quỹ
bình ổn) tạo nên. Ngoài ra, giá xăng dầu tăng hơn sẽ khiến các doanh nghiệp điều
chỉnh hành vi kinh tế của mình theo hướng tiết kiệm và sử dụng nhiên liệu hiệu quả
hơn.
Vấn đề xăng dầu ảnh hưởng đến chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) được các nhà
kinh tế phân tích khá kỹ. Theo đó, xăng dầu có “quyền số” 2% trong tổng thể giá hàng
tính CPI. Nghĩa là mức tăng giá xăng dầu kỳ này của Việt Nam 20% thì sẽ tác động
trực tiếp đến CPI: 20% nhân với 2% là khoảng 0,4%. Phương tiện vận chuyển chính
của người dân là xe gắn máy.

Còn ở góc độ xăng dầu ảnh hưởng đến chi tiêu các hộ gia đình, thì phân tích
này cho biết, xăng dầu chiếm khoảng gần 2,5% chi tiêu của các hộ gia đình. Như vậy,
khi xăng dầu tăng giá 20%, đồng nghĩa, ngân sách chi tiêu thực của người dân nói
chung giảm đi khoảng 0,5%. Nói một cách nôm na, với mức tăng xăng dầu lần này,
mọi người dân Việt Nam thấy nghèo đi khoảng 0,5%.
Cũng có khá nhiều câu hỏi đặt ra là tại sao những chuyện bảo hộ cho xăng dầu
diễn ra quá lâu, tạo sức ép cho ngân sách quốc gia, nạn buôn lậu xăng dầu xảy ra triền
miên, cũng như những nghi ngờ về tiêu cực xung quanh việc sử dụng quỹ bình ổn
xăng dầu vẫn tái diễn.
Những câu trả lời này được khẳng định qua kết luận của Bộ Tài chính. Bộ này
cho biết Tổng công ty xăng dầu VN (Petrolimex) sử dụng sai mục đích.
II. Vận dụng cung cầu trong thị trường xăng dầu
Trên thị trường, giá cả xăng dầu cân bằng của hàng hoá xăng dầu là trạng thái
khi cung hàng hoá xăng dầu đủ thỏa mãn cầu đối với nó trong một thời kỳ nhất định.
Với cách định nghĩa này, giải thích diễn biến giá của xăng dầu trên thị trường là việc
đi tìm hiểu đặc điểm tính chất cung – cầu của loại hàng hoá này trên thị trường, ngoài
ra có thể xem xét đến một số yếu tố khác (phi kinh tế) có ảnh hưởng đến giá cân bằng.
1. Xét về khía cạnh cung:
Có thể khẳng định thị trường dầu mỏ bị chi phối bởi một số nước sản xuất dầu
lửa. Đây là những quốc gia sản xuất dầu chủ yếu trên thế giới, bao gồm các nước
thuộc nhóm OPEC (The Organization of Petroleum Exporting Contries) – Tổ chức các
nước xuất khẩu dầu mỏ thế giới.
Lớp: K36.QLK.KT

14


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý


Thành lập ngày 14/9/1960 tại Bagdhad (thủ đô Iraq), lúc đầu gồm các nước
Venezuela, Saudi Arabia, Iraq, Iran, và Kuwait. Quata được kết nạp năm 1961;
Indonexia và Lybia (1962); Tiểu vương quốc các nước Arab thống nhất (1967);
Algeria (1969); Nigeria (1971). Ecuado gia nhập năm 1973 nhưng xin rút lui năm
1992. Gabon gia nhập năm 1975 nhưng xin rút lui năm 1994. OPEC chuyển tổng hành
dinh từ Geneva (Thụy Sĩ) đến Vienna (Áo) vào ngày 01/09/1965. Các nước thành viên
OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng
¾ trữ lượng dầu thế giới.
Ngày nay nguồn cung cấp dầu mỏ không chỉ tập trung ở khu vực Trung Đông
mà còn nhiều nơi như Biển Bắc, ngoài khơi Angola… Những nước Non-OPEC (không
nằm trong khối OPEC) cũng xuất khẩu dầu mỏ làm ảnh hưởng không nhỏ đến thị
trường dầu thế giới : Mỹ, Nga, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Canada, Anh, Mexico, Na Uy,
Đan Mạch, Congo, Việt Nam, Azerbaijan, Brunei, Romania, Peru,… Khi xảy ra biến
động chính trị ở những quốc gia dầu mỏ cũng làm cho giá dầu biến động. Chẳng hạn
cuộc chiến tại Iraq hoặc những xáo trộn tại Nigenia, Iran bị quốc tế áp đặt lệnh trừng
phạt về vấn đề hạt nhân … khiến cho giá dầu từ giữa năm 2005 biến động mạnh, có
ngày vượt qua 70 USD/thùng (trong khi mức giá bình quân thường được giữ ở mức 25
– 28 USD/thùng từ hàng chục năm qua). Theo Financial Times, giá trung bình một
thùng dầu Brent trong năm 2012 là 109,3USD; giá dầu thô thế giới năm 2013 trên mức
100 USD/ thùng . Tuy nhiên, từ tháng 6 năm 2014 giá dầu thô đã giảm hơn 30% bởi vì
sự kết hợp của nguồn cung dư thừa và nhu cầu tiêu thụ ở mức thấp.
Kể từ đầu mùa hè năm 2014 đến đầu năm 2015, giá dầu đã giảm hơn một nửa:
giá dầu Brent từ 100 USD/thùng giảm xuống 45 USD/thùng. Quyết định của Tổ chức
Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) về duy trì hạn ngạch khai thác dầu ở mức 30
triệu thùng/ngày càng khiến giá dầu giảm mạnh. Kể từ tháng 01/2015, giá dầu bắt đầu
tăng lên, ngày 6/5 đạt đỉnh điểm gần 70 USD/thùng.Tháng 12/2015 giá dầu đã rơi về
mức 35 USD/thùng.
Trong năm 2016, dù từng có lúc rớt xuống mức thấp nhất trong hơn 1 thập kỷ
nhưng tính cả năm, giá dầu ghi nhận mức tăng mạnh nhất tính từ khủng hoảng tài

chính toàn cầu.
Những động thái của OPEC đã tác động mạnh đến giá dầu suốt từ tháng 2 khi
giá mặt hàng này rớt xuống dưới 30 USD/thùng và khiến toàn bộ thị trường tài chính
choáng váng, cho đến tháng 11 khi họ chính thức đưa ra được thỏa thuận giảm sản
lượng dầu. Nhà đầu tư trên thị trường dầu hiện dự báo giá dầu sẽ chạm mức 60
USD/thùng trong chưa đầy 1 năm nữa.
Lớp: K36.QLK.KT

15


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

Suốt cả năm 2016, cả giới đầu tư và chuyên gia trên thị trường năng lượng cũng
như người tiêu dùng thế giới luôn hoài nghi về tính chắc chắn trong cam kết giảm sản
lượng của OPEC. Dù giá dầu nhìn chung trong xu thế tăng nhưng cũng có nhiều thời
điểm giá dầu gần như đứng yên quanh ngưỡng 50 USD/thùng bởi nhà đầu tư chưa tin
vào OPEC hoặc lo ngại các công ty năng lượng Mỹ sẽ tăng mạnh sản lượng.
Tính cả năm 2016, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI trên thị trường Mỹ tăng 45% còn
giá dầu Brent tăng 52%. Mức tăng của giá dầu như vậy mạnh nhất từ năm 2009.
Chốt phiên giao dịch cuối cùng của năm 2016, thị trường New York, giá dầu
thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 2/2017 giảm 5 cent tương đương 0,1% xuống 53,72
USD/thùng. Giá dầu Brent kỳ hạn tháng 2/2017 trên thị trường London giảm 3 cent
tương đương 0,1% xuống 56,82 USD/thùng.
Hai phiên giao dịch cuối cùng của năm 2016, giá dầu trên các thị trường gần
như không biến động bởi nhiều nhà đầu tư đã đi nghỉ lễ, những nhà đầu tư còn lại
thường không muốn thực hiện những giao dịch lớn. Cùng lúc đó, Cơ quan thông tin
năng lượng Mỹ (EIA) công bố dự trữ dầu thô tại Mỹ tăng, nhiều nhà đầu tư băn khoăn

về không ít các yếu tố bất lợi sẽ tác động đến giá dầu trong năm 2017.
Nói tóm lại, thị trường năng lượng thế giới năm 2017 sẽ chịu nhiều tác động từ
phía Mỹ. Chính người Mỹ “góp công” gây ra tình trạng thừa dầu khi họ cố gắng khai
thác dầu đá phiến với chi phí thấp. Họ đã khiến Saudi Arabia và nhiều nước xuất khẩu
dầu lớn của thế giới phải nâng sản lượng lên mức cao kỷ lục để giành khách hàng. Nay
khi Saudi Arabia và các nước khác đã nhượng bộ, các công ty năng lượng Mỹ nhiều
khả năng hưởng lợi lớn.
Nếu như cách đây đúng 1 năm, không ít người lo ngại về khả năng nhiều công
ty sản xuất dầu đá phiến Mỹ sẽ phá sản, nay khi giá dầu đã lên mức 50 USD/thùng, rủi
ro trên đã được loại bỏ. Tính toán của nhiều chuyên gia cho thấy đa phần các công ty
sản xuất dầu đá phiến Mỹ đã cắt giảm chi phí đủ mạnh để có lãi ở mức giá dầu 50
USD/thùng, nay họ có thêm điều kiện để tăng sản lượng nhằm giành khách hàng.
Thỏa thuận giảm sản lượng mà OPEC đưa ra mới đây có thời hạn 6 tháng, sau
đó các nước thành viên sẽ cùng xem xét lại. Nếu cùng lúc người Mỹ tăng sản lượng và
OPEC cũng bán mạnh dầu ra thị trường, “lực đỡ” cho giá dầu năm 2017 sẽ không còn
nữa.
Đường cung của thị trường dầu mỏ biểu hiện trên đồ thị là đường có độ dốc lên
từ trái qua phải, biểu thị khi giá tăng lên thì lượng cung cũng tăng lên theo.

Lớp: K36.QLK.KT

16


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

P
S


O
Q
Đồ thị 1: Biểu diễn đường cung xăng dầu trên thị trường thế giới
2. Xét về khía cạnh cầu
Cùng với sự phát triển xã hội, nhu cầu về dầu mỏ ngày càng ngày tăng, bên
cạnh đó cầu quốc tế đối với loại hàng hoá này rất không co giãn vì hầu hết các quốc
gia trên thế giới đều phụ thuộc vào dầu và có quá ít hàng hoá thay thế sẵn có đối với
sản phẩm dầu. Biểu diễn đường cầu trên đồ thị là đường có độ dốc từ trái qua phải
nhưng độ dốc tương đối lớn. Theo nhận định vừa được Tổ chức các nước xuất khẩu
dầu mỏ (OPEC) đưa ra thì nhu cầu dầu thế giới năm 2007 sẽ tăng thêm 1,2 triệu
thùng/ngày so với năm 2006, lên mức 85,4 triệu thùng/ngày.

P

D

O

Q

Đồ thị 2: Biểu diễn đường cầu dầu mỏ trên thị trường thế giới
Với đường cầu có độ dốc như vậy, bất cứ khi nào cung thay đổi, mặc dù thay
đổi với một lượng nhỏ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giá cân bằng.

Lớp: K36.QLK.KT

17



Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

Có thể lấy ví dụ nhỏ để minh họa: Vào năm 1974, OPEC đã đơn phương quyết
định tăng giá dầu thô quốc tế trên 400%, nhưng lượng cầu chỉ giảm xuống 30%, như
vậy hệ số co giãn Ed = -30/400 = -0,075 tức là hệ số co giãn gần bằng 0.
Kết hợp đồ thị cung - cầu xăng dầu ở trên có đồ thị thị trường của xăng dầu trên
thế giới.

P
S

D

O

Q

Đồ thị 3: Biểu diễn đường cung - cầu dầu mỏ trên thị trường thế giới
Với khả năng chi phối thị trường, các nước xuất khẩu dầu mỏ chủ yếu trên thế
giới có thể hành động như một nhóm độc quyền, có nghĩa một vài nhóm “cấu kết với
nhau” bán một sản phẩm nhất định. Bằng cách thỏa thuận tăng vọt giá bán, trong khi
cầu dầu thô của thế giới không co giãn họ có thể tăng thu nhập của mình lên rất nhiều
lần.
Ví dụ: vào giữa năm 1973 và 1974, giá dầu mỏ đã tăng gấp 3 lần từ 2,9
USD/thùng lên tới 9 USD /thùng và kết quả là tổng thu nhập từ việc xuất khẩu dầu của
OPEC nhảy vọt từ 24,2 tỷ USD lên 100,7 tỷ USD với lượng dầu xuất khẩu có giảm
một ít.
Khi các nước xuất khẩu dầu chủ yếu trên thế giới phát hiện và tin rằng: Giá dầu

tăng lên với 1 lượng rất lớn thị chỉ làm giảm 1 lượng nhỏ trong khi lượng dầu được
bán ở trên thị trường.Với niềm tin như vậy, từ năm 1973, thị trường dầu mỏ đã biến
động mạnh mẽ, giá cả của xăng dầu trên thị trường thế giới thường xuyên tăng lên đột
ngột và ở mức tăng cao.

Lớp: K36.QLK.KT

18


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

3. Các yếu tố khác (phi kinh tế)
Bên cạnh việc giá cân bằng của dầu mỏ trên thị trường thế giới bị ảnh hưởng
bởi Cung – Cầu, giá cả của hàng hoá này còn bị ảnh hưởng một số yếu tố khác (phi
kinh tế) đó là:
Thứ nhất: việc khai thác dầu phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết. Khi thời tiết
lạnh, mưa bão,…dầu không khai thác được, khi đó lượng cung giảm xuống, nhưng do
cầu là co giãn rất ít so với giá cho nên khi lượng cung giảm xuống, giá sẽ có sự thay
đổi rất lớn. Chẳng hạn mùa mưa bão ở vùng vịnh Mehico của Mỹ, kéo dài từ tháng 6
tới tháng 11 hàng năm, cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung nơi đây.
Thứ hai: là yếu tố chính trị, đối với một số nước có sức mạnh về chính trị, khi
nhập khẩu dầu, họ thương lượng với các nước xuất khẩu nhằm làm giảm chi phí nhập
khẩu xuống; tuy nhiên khi có sự bùng phát về chính trị, mâu thuẫn giữa các nước
không thể dung hoà được sẽ khiến cho giá cả dầu mỏ tăng lên rất nhiều. Ví dụ điển
hình là Irắc vào năm 1991 và năm 2000 đã đẩy dầu mỏ lên tới đỉnh điểm, giá 1 thùng
dầu lúc đó lên tới 55–56 USD.
Thời gian tiếp theo, giá dầu thô trên thị trường thế giới luôn luôn biến động và

tăng cao, có thời điểm đã vượt ngưỡng 75 USD/thùng. Sự tăng giá đó phải kể đến cuộc
khủng hoảng xung quanh chương trình hạt nhân của I-ran, bạo lực gia tăng tại Ni-giêri-a, bạn hàng xuất khẩu lớn thứ năm của Mỹ. Giá dầu tiếp tục biến động và tăng lên
cao sau khi Iran, nước xuất khẩu dầu lớn hàng đầu thế giới, bị tấn công quân sự phải
ngừng xuất khẩu dầu nhiều tháng.
Yếu tố thứ ba là: do sản phẩm dầu xuất khẩu của OPEC trong đó 90% là sản
phẩm dầu thô, việc lọc dầu lại được diễn ra tại các nước giàu có như Mỹ, Singapore,
Nhật bản,… Mà nhu cầu của thế giới tăng (sản phẩm lọc dầu); giá cả của dầu mỏ cũng
bị chi phối bởi các quốc gia đó. Do vậy, giá cả của xăng dầu trên thế giới luôn luôn
biến động.
Theo tính toán của OPEC, với chi phí cận biên của việc khai thác dầu bằng 0 vì
việc khai thác dầu chỉ phải bỏ ra chi phí ban đầu trong việc thăm dò, sau đó lắp đặt hệ
thống hút dầu và khai thác dầu. Trong quá trình khai thác hầu như không phải bỏ chi
phí gì thêm, cho nên lượng dầu tối ưu của các nước xuất khẩu và nhập khẩu là 22,8
USD/thùng.
Với mức giá bán thực tế luôn cao hơn mức giá cân bằng cung - cầu khiến cho
cầu luôn nhỏ hơn cung. Có nghĩa, khi các nước xuất khẩu dầu mỏ có khả năng để cung
cấp nhiều hơn nhưng với mức giá cao như vậy khiến cho cầu bị hạn chế. Trong thực tế
khi có mâu thuẫn xảy ra trong OPEC, một quốc gia muốn tăng sản lượng để thu thêm
Lớp: K36.QLK.KT

19


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

lợi nhuận về, các quốc gia còn lại không thống nhất sẽ dẫn đến giá cả của dầu mỏ trên
thị trường thế giới sẽ giảm xuống. Ngược lại khi mức giá bán trên thị trường thấp hơn
mức giá cân bằng, có nghĩa cầu lớn hơn lượng cung, khi đó lượng dầu mỏ được sản

xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu của thế giới, với mức giá thấp, nguồn tài nguyên
không có khả năng tái tạo, dầu mỏ bị khai thác quá mức và có nguy cơ bị cạn kiệt. Do
đó hạn chế lượng cung là điều kiện cần thiết.
P

S’

P2
S
P1
D
O

Q2 Q1

Q

Đồ thị 4: Biểu diễn ảnh hưởng của các yếu tố khác (phi kinh tế)
Ban đầu, thị trường xăng dầu cân bằng tại mức giá P và Q do các yếu tố phi
1

1

kinh phí như thời tiết, chiến tranh, chính sách của các nước giầu có, đẩy đường cung
(S) lên (S’) điểm cân bằng mới của thị trường (P ; Q ). Sự tác động của các yếu tố phi
2

2

kinh tế làm cho sản lượng giảm từ Q → Q , một lượng nhỏ nhưng tăng mạnh từ mức

1

2

giá P → P
1

2

III. Chính sách của Chính phủ đối với ngành xăng dầu nước ta
1. Về điều hành giá xăng dầu:
Giá xăng, dầu Việt Nam đã dựa trên cơ sở giá thế giới và các sắc thuế cũng như
mức trích/xả quỹ bình ổn giá xăng, dầu. Nhằm tăng cường tính cạnh tranh giá giữa các
thương nhân, đồng thời bảo đảm giá bán lẻ trong nước bám sát giá thế giới, Nghị định
số 83/2014/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 83) quy định tần suất điều chỉnh giá là 15
ngày/một lần (Khoản 1 Điều 38) thay vì 10 ngày/một lần như Nghị định số
84/2009/NĐ-CP quy định; giá cơ sở được tính toán trên cơ sở bình quân giá thế giới

Lớp: K36.QLK.KT

20


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

15 ngày sát với ngày tính giá (Khoản 9 Điều 3) thay vì bình quân giá thế giới 30 ngày
gần ngày tính giá như Nghị định số 84/2009/NĐ-CP quy định.
2. Biên độ điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu

Biên độ điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu được sửa đổi để phù hợp với khả năng
chấp nhận của nền kinh tế nước ta hiện nay và công khai rõ ràng để mọi người quan
tâm đều nắm bắt được. Căn cứ theo Nghị định 84/CP, không phải giao toàn quyền cho
doanh nghiệp định giá. Định giá xăng dầu sẽ được chia thành 3 bước:
+ Nếu giá nguyên liệu đầu vào thay đổi 0-7% thì doanh nghiệp được quyền
quyết định giá xăng dầu;
+ Nếu giá nguyên liệu biến đổi 7-12% thì Nhà nước sẽ tham gia một phần trong
việc điều chỉnh giá;
+ Trong trường hợp giá nguyên liệu tăng trên 12% thì Nhà nước tham gia định
đoạt giá xăng dầu.
Biên độ điều chỉnh giá bán lẻ quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP là hợp
lý vào thời điểm đó, khi giá xăng dầu lúc đó còn thấp. Đến nay, xu hướng giá xăng dầu
thế giới biến động theo chiều hướng tăng là chủ yếu (so với năm 2009 là năm ban
hành Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, giá xăng dầu thế giới đối với xăng RON 92 bình
quân năm 2013 là 116,208 USD/thùng, tăng 48,243 USD/thùng, tương đương
170,98%; bình quân 8 tháng đầu năm 2014 là 116,624 USD/thùng, tăng 48,659
USD/thùng, tương đương 171,59%).
Với biên độ điều chỉnh giá quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, nếu quy
về con số tuyệt đối sẽ rất lớn, ví dụ giá bán lẻ xăng RON 92 là khoảng 23.710 đồng/lít,
ứng với mức 7% là xấp xỉ 1.660 đồng/lít, với mức 12% là khoảng trên 2.800 đồng/lít,
v.v… Nếu thực hiện điều chỉnh giá bán lẻ theo các biên độ này, mức điều chỉnh này
thì sẽ gây “sốc” cho nền kinh tế và tâm lý người tiêu dùng. Với biên độ quy định tại
Nghị định là 3%, tương ứng khoảng trên 700 đồng/lít thì sẽ ít tác động tới nền kinh tế
và tâm lý người tiêu dùng.
Nghị định 83 quy định rõ trình tự, thủ tục điều hành giá xăng dầu, thẩm quyền
và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc điều hành giá xăng dầu để
công khai, minh bạch và để người dân cùng giám sát (Điều 38).

Lớp: K36.QLK.KT


21


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

3. Về Quỹ bình ổn giá xăng dầu
Nguyên tắc, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bình ổn giá tại Nghị định số
84/2009/NĐ-CP thực hiện các biện pháp bình ổn giá trong thời hạn áp dụng biện pháp
bình ổn giá (Khoản 1 Điều 38).
Việc thành lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu trước hết doanh nghiệp là
người hưởng lợi, được sử dụng tạo nguồn vốn lưu động mà không phải đi vay, không
phải trả lãi, Nhà nước có thêm công cụ để điều tiết giá, kiềm chế lạm phát ổn định an
sinh xã hội. Tuy nhiên, việc trích lập, sử dụng và điều hành Quỹ bình ổn giá xăng dầu
còn nhiều bất cập, nhiều người cho rằng Quỹ bình ổn là một khoản trả trước của người
tiêu dùng giao cho doanh nghiệp quản lý để ổn định giá khi biến động theo sự điều
hành của Nhà nước. Song về nguồn thu từ quỹ đó chưa công bằng, thu chưa đúng thời
điểm, việc sử dụng, quản lý đó còn chưa minh bạch.
4. Hệ thống phân phối xăng dầu
Nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị trường xăng dầu, bên cạnh việc kinh doanh
xăng dầu theo phương thức tổng đại lý, đại lý hiện đang quy định tại Nghị định số
84/2009/NĐ-CP, Nghị định 83 bổ sung thêm 2 phương thức phân phối xăng dầu mới
là phương thức mua đứt bán đoạn và nhượng quyền thương mại. Theo đó, đưa ra thêm
đối tượng là thương nhân phân phối xăng dầu (Điều 13,14, 15) được mua xăng dầu từ
nhiều thương nhân đầu mối, đối tượng là thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu
(Điều 22, 23) hoạt động theo pháp luật về nhượng quyền thương mại.
Thương nhân phân phối xăng dầu được mua xăng dầu từ nhiều thương nhân đầu
mối, được quyền quy định giá bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của mình
theo nguyên tắc, trình tự như thương nhân đầu mối. Thương nhân phân phối xăng dầu

phải xây dựng thương hiệu riêng của mình, chịu trách nhiệm trước pháp luật về số
lượng, giá cả, chất lượng xăng dầu trong hệ thống phân phối của mình, phải có phòng
thử nghiệm (thuộc sở hữu hoặc đồng sở hữu hoặc theo hợp đồng thuê dịch vụ với cơ
quan nhà nước) đủ năng lực kiểm tra, thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng xăng dầu.
Thương nhân phân phối xăng dầu phải kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý thuộc
hệ thống phân phối của mình, liên đới chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm của
đại lý trong hoạt động kinh doanh xăng dầu theo quy định của pháp luật.
Thương nhân nhận quyền bán lẻ được kinh doanh bán lẻ xăng dầu bằng phương
thức nhượng quyền thương mại: nhận quyền từ thương nhân đầu mối, thương nhân
phân phối xăng dầu để bán lẻ xăng dầu tại các cửa hàng sở hữu, đồng sở hữu.

Lớp: K36.QLK.KT

22


Bài tập nhóm môn: Kinh tế Vi mô

GVHD: TS. Trương Sỹ Quý

5. Tăng cường công khai, minh bạch
Nghị định số 84/2009/NĐ-CP chưa quy định chế độ công khai, minh bạch
thông tin về giá cơ sở, sử dụng Quỹ Bình ổn giá, báo cáo tài chính của doanh nghiệp…
dẫn đến việc người dân khó nắm bắt được thông tin về điều hành giá, người dân ít
đồng thuận với việc điều hành giá.
Để khắc phục tình trạng này, Nghị định 83 quy định riêng một Điều 39 về công
khai, minh bạch trong điều hành giá và kinh doanh xăng dầu. Trong đó, quy định Bộ
Công Thương chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính điều hành giá công khai, minh bạch,
đúng quy định tại Nghị định 83; Bộ Công Thương có trách nhiệm công bố thông tin về
giá thế giới, giá cơ sở, giá bán lẻ xăng dầu hiện hành, số trích lập, sử dụng và số dư

Quỹ Bình ổn giá xăng dầu theo hàng quý, v.v… Bộ Tài chính có trách nhiệm giám sát
việc điều hành giá xăng dầu, giám sát mức trích lập, mức sử dụng Quỹ Bình ổn giá của
doanh nghiệp đầu mối. Doanh nghiệp đầu mối chịu trách nhiệm công bố thông tin về
giá bán lẻ hiện hành, số trích lập, sử dụng, số dư Quỹ Bình ổn giá của doanh nghiệp,
công bố báo cáo tài chính trong năm tài chính của doanh nghiệp khi đã được kiểm
toán.
IV. Các chính sách xăng dầu trên thị trường thế giới
Vào nửa cuối năm 2014, giá dầu thế giới bắt đầu giảm mạnh. Những dự báo
được xem là bi quan vào thời điểm đó cho rằng, khoảng giá “bền vững” sẽ dừng ở mức
45-50 USD/thùng và sớm tăng trở lại vào cuối năm 2015. Tuy nhiên, những dự báo
này lại trở thành quá lạc quan khi những giao dịch trên thị trường giao ngay tuần vừa
qua vào tuần thứ 2 tháng 12/2015 giá dầu đã rơi về mức 35 USD/thùng và đó vẫn chưa
phải là đáy. Kịch bản giá dầu của những năm 1986 dường như lại lặp lại.
Việc giá dầu năm 2015 giảm xuống mức 35 USD/thùng là hoàn toàn có cơ sở
khoa học và thực tiễn. Về phương diện lý thuyết, khi phân tích giá dầu, cần phân biệt
rõ ràng các yếu tố giải thích dao động của giá trong ngắn hạn và dài hạn là rất khác
nhau. Nếu trong ngắn hạn, đặc trưng ít co giãn của lượng cung và lượng cầu so với sự
thay đổi của giá; ảnh hưởng từ các thể thức thương mại quốc tế về dầu mỏ trên các thị
trường vật lý và thị trường chứng khoán làm cho giá dầu vô cùng nhạy cảm và biến
động mạnh thì trong dài hạn, yếu tố quyết định mức giá sẽ là chi phí sản xuất và cung
ứng. Đó là nguyên lý kinh tế cơ bản.
Nếu như giá dầu dao động cao hơn nhiều so với chi phí sản xuất và kéo dài theo
thời gian, các hiệu ứng tiết kiệm và hiệu ứng thay thế từ phía cầu sẽ làm lượng cầu
giảm. Hiệu ứng đầu tư (giá cao hấp dẫn đầu tư) và hiệu ứng chi phí (được hiểu là khi
giá cao những mỏ dầu trước đây không khai thác kinh tế trở thành khai thác kinh tế) từ
Lớp: K36.QLK.KT

23



×