Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tài liệu ôn tập văn 10 học kì 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.39 KB, 35 trang )

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP ĐOẠN TRÍCH “TRAO DUYÊN”
I. Đọc – Hiểu văn bản.
1. Kiều thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân(12 câu đầu).
a. Hai câu đầu: Kiều mở lời đặt vấn đề
– Những điều quan trọng, thiêng liêng.
+ cậy, chịu, lạy, thưa.


“cậy” là giúp đỡ chứ không phải nhờ.

+ Thanh trắc à âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói > < nhờ
+ Hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, vật nài, tin tưởng nơi quan hệ
ruột thịt.
=>“cậy” là thể hiện niềm tin,chỉ có em là người tin cậy nhất. Vì thế, “cậy” có sức
nặng của niềm tin hơn.

“Chịu lời” chứ không phải nhận lời”. Khi nói “nhận lời” là người khác có thể
chối từ, còn khi nói “chịu lời” là bắt người mình tin phải nghe theo không thể chối t
– “Ngồi lên – lạy- thưa”: là những thái độ của người bề trên hoặc với những người
có ơn với mình.
– kiều lạy là lạy đức hy sinh cao cả của Thúy Vân, bởi rồi đây Thúy Vân phải chấp
nhận cưới một người không yêu mình:
“Lấy người yêu chị làm chồng,
Đời em thể thoắt một vòng oan khiên”.
=> Hai câu đầu đoạn trích, ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát lòng thì Thúy Kiều
vẫn dùng những lời lẽ đoan trang tế nhị.
b. Sáu câu tiếp theo: Tâm sự với em về mối tình của mình.
Kiều nói đến mối tình của mình với chàng Kim.
+Hình ảnh “quạt ước”, “chén thề”, điệp từ “khi”: diễn tả tình yêu thắm thiết, sâu sắc.
.
+”Đứt gánh tương tư”, “sóng gió bất kì”: mong manh, tan vỡ đột ngột, bất ngờ.


– Kiều xin em hãy chắp mối tơ thừa để trả nghĩa cho chàng Kim.
+Mối tơ thừa: cách nói nhún mình vì nàng hiểu sự thiệt thòi của em.


+Mặc em: phó mặc, ủy thác; vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải
nhận lời.
=> Giãi bày tâm sự, hoàn cảnh để Thúy Vân thấu cả
c. Bốn câu tiếp theo: Thuyết phục Thúy Vân
+ Ngày xuân – còn trẻ
+ Tình máu mủ – vì chị em
+ Chín suối – lấy cái chết để làm tin
+ Thành ngữ “ngậm cười chín suối”, “thịt nát xương mòn” èThúy kiều sẽ vui vẻ khi
chết đi nếu em nhận lời. Tăng tính thuyết phục.
=> Ngôn ngữ của Nguyễn Du ở đoạn này có sự kết hợp hài hòa những cách nói
trang nhã, văn hoa thường thấy trong những sáng tác văn học thời trung đại (điển
tích “keo loan”, “tơ duyên”) với cách nói giản dị của dân gian (“tình máu mủ”,”lời
nước non”)
2. Thúy Kiều trao kỷ vật tình yêu.( 14 câu tiếp theo)
“Mất người còn chút của tin,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”


Kỷ vật tình yêu:

+ Chiếc vành, bức tờ mây: gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của KimKiều.
+ Phím đàn, mảnh hương nguyền: trở thành ngày xưa, quá khứ.
 Những kỷ vật quý giá, thiêng liêng minh chứng cho tình yêu đẹp đẽ

Tâm trạng của Kiều chứa đầy mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lý trí và

tình cảm
+> Sự nuối tiếc về tình yêu, thể hiện rõ nét tình yêu tan vỡ

Kiều tiên đoán trước cảnh tượng oan nghiệt, xót xa: “Người mệnh bạc”,
người có số phận bạt bẽo, không may, không thoát ra được, như một định mệnh:
“ Rằng: hồng nhan tựa ngàn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”




Từ ngữ thể hiện cái chết: “dạ đài”, “thác”, “hồn”, “nát thân bồ liễu”.


Tình yêu đã mất, Kiều xem như đã chết, cái chết trống trải khi không có tình
yêu, đó là cái chết của tâm hồn.


Tiếng nói thương thân xót phận của một con người tha thiết với tình yêu.


Chuyển từ đối thoại với em sang đọc thoại nội tâm. Kiều trao kỷ vật mà lòng
thổn thức, đau lòng. Kiều nói chuyện với em mà dường như đang nói chuyện với
mình.
3. Lời từ giã, độc thoại với tình nhân.(8 câu cuối)
– Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu
– Ý thức về hiện tại: Bây giờ
+ “Trâm gãy bình tan”
+ “phận bạc như vôi”
+ “hoa trôi”; “nước chảy lỡ làng”

“Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số
phận con người thể hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng của Kiều.
– Như lời cõi chết Kiều trở lại với thực tại dở dang, đỗ vỡ.
– Kiều nhận lỗi lầm về mình, tự cho mình là người phụ bạc. Đây là phẩm chất cao
quý của Kiều

Nhịp thơ hai câu cuối: 3/3 và 2/2/2/2, như một nhát cắt, một tiếng nấc nghẹn
ngào của thân phân nàng. Đau đớn khi chia lìa.
– Các hành động:
+Nhận mình là “người phụ bạc”
+Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt
+Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

=>Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đau
đớn tuyệt vọng biết bao. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu
sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình.


]Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy
sinh cao quý.
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Đoạn trích thể hiện tâm trạng phức tạp của Kiều.
– Nhân cách trong sáng, biết hy sinh vì người mình yêu và người thân.
– Nguyễn Du đã thấu hiểu tâm lý con người, đồng cảm sâu sắc với nhân vật.
=>Giá trị nhân đạo
2. Nghệ thuật
– Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lý nhân vật từ đối thoại đấn độc thoại nội tâm.
– Ngôn ngữ độc thoại sinh động. Sự kết hợp của ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác
học.

II. Phân tích đoạn trích Trao duyên-Truyện Kiều, Nguyễn Du
1.Tìm hiểu xuất xứ
Đây là một trong những đoạn ở vị trí mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của
Thuý Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do có kẻ vu oan, Thuý
Kiều phải bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứu cha và
em. Việc nhà đã tạm yên, Kiều mới nghĩ đến tình duyên lỡ dở của mình. Trước hết,
nàng nghĩ cho người mình yêu, phận mình dù thế cũng đành, nhưng cảm thấy có lỗi
với Kim Trọng. Phải làm thế nào cho người yêu đỡ khổ, suy nghĩ mãi, trong đêm
cuối cùng, nàng quyết định nhờ em thay mình trả nghĩa cho KimTrọng.
Trao duyên trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều.
2. Tìm hiểu bố cục đoạn trích
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:


Đoạn 1 (14 câu đầu): Thuý Kiều “trao duyên” cho Thuý Vân.

Mọi hành động sử dụng lại nội dung trên website xin hãy ghi: Nguồn bài viết
từ Vanhay.edu.vn


Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình.



Nhờ em và trao kỉ vật tình yêu cho em.




Đoạn 2: 12 câu tiếp Kiều trao kỉ vật và dặn dò


-Đoạn 3 : 8 câu cuối :Tâm trạng Kiều sau khi “trao duyên”.
+

Kiều mong muốn “trở về” gặp lại người yêu.

+

Kiều hướng đến sự đồng cảm với người yêu.

+
Tâm trạng tuyệt vọng của Kiều bởi mâu thuẫn trong tâm hồn nàng (tình yêu
sâu nặng và sự chia biệt vĩnh viễn) vẫn không thể giải quyết.
3. Nhan đề Trao Duyên
Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao
duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc
mới hiểu được, “Trao duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người
khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút
dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời
đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng
Kim.
Cách viết phần mở bài cho đoạn trích Trao Duyên:
Khi phân tích đoạn trích “trao duyên”, các em có thể mở bài như sau:
+Giới thiệu tên tác giả ( Nguyễn Du) và Truyện Kiều
+Nêu vắn tắt xuất xứ đoạn “Trao duyên”
+Trích dẫn đoạn thơ cần phân tích : đề bài yêu cầu phân tích đoạn nào thì mình trích
đoạn đó
@ nếu đề bài yêu cầu chứng minh nhận định về đoạn trích thì các em trích dẫn nhận
định đó vào phần mở bài, nêu vấn đề nghị luận.
Ví dụ mở bài sau:Đề bài : phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao

duyên
Bài làm:
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta phải đứng trước những sự lựa chọn khắc
nghiệt :Chữ Tình và chữ Hiếu. Tuy nhiên công đức sinh thành bao giờ cũng cao
cả ,bởi vậy nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ thì dẫu cho tình yêu
kia có đẹp đến mấy, người ta vẫn quyết định chọn chữ Hiếu để trả ơn bố mẹ. Kiều
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ Hiếu lớn lao ấy. Thế nhưng nàng
vẫn muốn bù đắp cho tình yêu dang dở của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên
cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích “trao duyên” thể hiện được tất cả những tâm
trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân


“Cậy em em có chịu lời

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
(“Trao duyên”- trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du)
Trong mở bài trên, câu văn in đậm là câu nêu vấn đề nghị luận
Bài văn mẫu Phân tích Trao Duyên:
Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến bao giờ :
Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Nghe xong Thuý Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết tha chắc không
thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã
chọn được hai từ đắt nhất và cũng hợp với hoàn cảnh nhất : cậy và chịu. Cậy không
chỉ là nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng. Cũng vậy, chịu không chỉ là nhận
lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết người nhận không dễ
dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan.
Lời xưng hô nghiêm cẩn và trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp
lực đối với Thuý Vân.
“Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý Kiều dường như

ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể nào nói được :
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thuý Kiều đã nói. Thuý Vân hết sức ngỡ ngàng
nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào
những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một
thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở hai chữ tơ
thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu trao cho em chỉ là sự nối tiếp, chỉ là chắp mối tơ
thừa mà thôi. Mặc em ở đây có thể hiểu là Kiều phó thác cho em, gắn trách nhiệm ở
em phải cứu vãn tình yêu đó. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa.
Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân
đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng
gió bất kì”.
Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh
của mình. Nhưng để trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục :


Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có
ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng
phải nhắc đến hai chữ ngày xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày
xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thuý Kiều đâu thể xứng đáng với
Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ
hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao
giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng
cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một lời khẩn cầu đầy
chua xót :

Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng
trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về
hoàn cảnh bấp bênh, khôn lường bất trắc ? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc
nước đời là ở những chỗ như vậy.
Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ chối. Thuý Kiều trao
kỉ vật cho em :
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc Thuý Vân
chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình
yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được ? Tìm về với những kỉ vật thiêng
liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu
của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó
thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người
thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì
giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và
niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất.
Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm
ngùi đau xót nghĩ về tương lai :


Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong
lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều
vẫn không hề thay đổi :

Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn không quên nghĩ về
sự tủi hổ, bất hạnh của mình :
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thuý Kiều từ cõi hư không. Thời gian không
còn là thời gian tâm trạng, nó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thuý
Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”,
“tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói
tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời. ý thức về hiện tại, Kiều
chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ
buông xuôi, thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác :
Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !
Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái
đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Thuý Kiều sau đó xa cách Kim Trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy
không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ không cần phải đợi đến
mười lăm năm. Ngay trong ngày phải đau đớn “trao duyên”, người đọc có thể thấy
tình yêu trong lòng người con gái ấy không gì có thể chia cắt nổi.
Ở Trao duyên, cần phải ghi nhận một thành công của Nguyễn Du, đó là bút lực sắc
sảo tuyệt vời trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.
Cảm nhận về tám câu cuối đoạn trích trao duyên( Truyện Kiều -Nguyễn Du)


Hướng dẫn :
(8 câu cuối):Kiều trở về với thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng
Hướng đến tương lai đã không cho Kiều một sự giải thoát, quay về thực tại Kiều
càng đau đớn bội phần. Tiếng nói thành tiếng than khóc, nói với em mà như nói với

chính mình, rời quên hẳn xung quanh chỉ còn hướng đến người yêu đang vắng mặt:
« Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây »
“Bây giờ” của Kiều là “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, là“phận bạc
như vôi”, là“nước chảy hoa trôi”. Hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” và một loạt
những thành ngữ, từ ngữ dân gian cho thấy sự ý thức sâu sắc về bi kịch hiện tại của
Thuý Kiều. Thực tại đó hoàn toàn đối lập với quá khứ hạnh phúc, đẹp đẽ không sao
kể xiết mà nàng đã có “muôn vàn ái ân”. Quá khứ giờ đây đã trở thành niềm khát
khao mãnh liệt của Kiều. Bi kịch vì vậy càng sâu sắc.
– Câu thơ “Trăm nghìn gửi lại tình quân” thể hiện sự day dứt, giày vò, biểu hiện tình
yêu cao đẹp Kiều dành cho Kim Trọng, đồng thời cũng cho thấy một nhân cách vị
tha trong sáng.
– Khi bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm, Kiều thốt lên tiếng kêu xé lòng: “Ôi Kim
lang! hỡi Kim lang / Thôi thôi tiếp đã phụ chàng từ đây.”+ Thán từ “ôi, hỡi” như
một tiếng nấc đau thương.+ Lời gọi được lặp lại một cách trang trọng “Kim lang”
như một lời kêu cứu tuyệt vọng.
+ Nhịp thơ 3/3 ở câu trên như một tiếng nấc nghẹn ngào, trong khi đó, điệp từ “thôi”
vừa thể hiện sự dằn vặt, vừa xác nhận sự phụ bạc, nhịp thơ ngân dài như một tiếng
than vọng mãi không lời đáp, tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng.
Đoạn trích kết lại bằng tiếng kêu xé lòng trong tột cùng đau đớn của Thúy Kiều khi
nàng ý thức sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ của mình. Kiều thương mình thì ít,
thương cho chàng Kim thì nhiều. Nàng đã nhận hết mọi trách nhiệm của sự tan vỡ
tình duyên về mình. Có thể nói, trong đau khổ tột cùng Kiều vẫn sáng lên vẻ đẹp của
một nhân cách cao thượng: ân cần, chu đáo với Kim Trọng mà vẫn tự trách, nàng

quên đi bất hạnh của mình để cảm thông cho người khác. Đây là giây phút độc thoại
thật nhất, nhân bản nhất.
Tổng kết:
– Trao duyênlà âm hưởng mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Thuý Kiều. Đoạn
trích khắc hoạ những phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều: son sắt, thuỷ chung, giàu
đức hi sinh, giàu lòng vị tha, quên mình vì hạnh phúc của người khác. Qua đoạn
trích, Nguyễn Du đã tỏ ra thấu hiểu, cảm thông với những khổ đau và khát vọng tình
yêu của nàng Kiều – một con người vừa cao cả về mặt đạo đức, vừa nhân bản về
mặt con người.


– Tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật (vừa sâu
sắc, vừa phức tạp, vừa tinh tế), sử dụng ngôn từ chọn lọc, hàm súc đã được khẳng
định qua đoạn trích.
Một số bài văn mẫu phân tích Trao Duyên tuyển chọn
Phân tích trao duyên – bài 1
Trong suốt chiều dài lịch sử văn học, có rất nhiều những thành tựu văn học rực rỡ
thời kì trung đại của những nhà tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương,
Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Đóng góp vào trong dòng chảy văn học ấy
ta không thể không nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du. Ông không những là một nhân
cách lớn mà đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. Những sáng tác của
Nguyễn Du bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng tiêu biểu nhất là
tác phẩm Đoạn trường tân thanh hay còn được biết nhiều hơn dưới tên Truyện Kiều.
Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài
năng cũng như tử tưởng nhân đạo của tác giả.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyên có sẵn
của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Thế nhưng, điều đáng nói là
bằng sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường
trở thành một kiệt tác. Nếu như Kim Vân Kiều truyện là một câu chuyện “tình khổ”
thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một khúc ca đau lòng thương người bạc

mệnh, nới lên những điều trông thấy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Đoạn trích nằm ở câu thơ 723 đến câu 756, trong phần gia biến và lưu lạc. Đây cũng
chính là mở đầu cho nỗi đau khổ dằng dặc của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Sau
khi tạm chia tay Kiều, Kim Trọng trở về quê để chịu tang chú. Thế nhưng trong thời
gian đó, gia đình của Kiều có biến, cha và em bị bắt. Là người con có hiếu, Thúy
Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và cũng vì thế mà nằng không thể giữ
trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng. Kiều một mình chịu đựng nỗi đau:
Một mình nàng ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt lệ, tóc se mái đầu.
Kiều ngổn ngang bao nỗi băn khoăn, trăn trở và cuối cùng nàng quyết định nhờ em
mình là Thúy Vân chắp mối tơ duyên với Kim Trọng mặc dù vô cùng đau khổ và
dằn vặt:


Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng lại phụ tấm lòng với ai.
Vượt lên trên tất cả, Kiều đã quyết định trao duyên cho em cùng muôn vàn đau khổ,
rơi vào mối mâu thuẫn: lí trí bắt buộc phải trao nhưng tình cảm lại không thể. Trao
duyên còn là đứng trước nỗi đau của một bi kịch kép: tình yêu tan vỡ và bi kịch của
một cuộc đời lầm than. Tất cả xảy ra khi Kiều còn đang ở độ tuổi rất trẻ vì vậy,
Nguyễn Du đã viết nên đoạn trích bằng tất cả niềm cảm thông, thấu hiểu và thương
xót của mình.
Thúy Kiều mở lời nhờ cậy em một cách vừa từ tốn, trang trọng nhưng cũng vô cùng
khéo léo, tinh tế và sắc sảo:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Từ “em” được nhắc đi nhắc lại hai lần, đi liền với từ “cậy”, “chịu” và cử chỉ kì lạ:
“ngồi lên”, “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên tha thiết, đưa Thúy Vân đến

với không gian trang trọng, thiêng liêng của buổi trao duyên. Trong lời mình, Thúy
Kiều đã dùng chữ “cậy” thay cho chữ “nhờ” khiến cho lời lẽ trở nên tha thiết và có
sức nặng đồng thời thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của nàng dành cho em. Kiều
muốn Vân biết rằng em chính là chỗ bấu víu, trông cậy duy nhất của chị. Đồng thời,
Kiều cũng hiểu rằng việc Vân nhận lời giúp mình cũng là một sự san sẻ. Cũng chính
vì thế, thay bằng lối giao tiếp thông thường, Kiều quỳ xuống lạy em như lạy một ân
nhân cứu mạng của cuộc đời mình. Ngay từ những lời đầu tiên, với từng lời nói và
cử chỉ ta thấy được tấm lòng tha thiết của Kiều nhưng vô cùng sắc sảo, mặn mà. Sau
đó Kiều đã tâm sự với Thúy Vân về mối tình của mình với Kim Trọng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Kiều nói rõ cho em sự dang dở của mình trong mối tình với Kim Trọng. Câu thơ đã
sử dụng cách nói tượng trưng thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều về mối tình đầu
dang dở với chàng Kim. Kiều còn gọi mối tình của mình với Kim Trọng là “mối tơ
thừa” bởi nàng hiểu với mình, mối tình ấy là tất cả thế nhưng đối với Thúy Vân thì
đó lại là điều trói buộc, trái ngang. Kiều không muốn Thúy Vân phải bận lòng, băn


khoăn quá nhiều. Nàng cũng muốn tùy em xử trí: “mặc em”. Lời nói của Kiều tưởng
như vô cùng dứt khoát và mạnh mẽ thế nhưng, bên trong đó là một nỗi đau đến đứt
ruột bởi mối tình của Thúy Kiều với Kim Trọng là mối tình đầu sâu đậm không dễ
nguôi ngoai. Kiều đã kể lại cho em về buổi gặp gỡ, thề nguyền đính ước với chàng
Kim. Thúy Kiều gọi Kim Trọng một cách rất trân trọng cùng với sự nối tiếp của các
hình ảnh: “quạt ước”, “chén thề” gợi về những kỉ niệm giữa hai người. Qua đó Kiều
muốn khẳng định một cách chắc chắn với Thúy Vân rằng mối tình của mình với
Kim Trọng là mối tình sâu sắc chứ không phải trăng gió vật vờ. Đồng thời khi hồi
tưởng lại mối tình xưa, Thúy Kiều thể hiện tình cảm tha thiết và đầy nuối tiếc mà tất
cả hiện lên như vừa mới hôm qua.
Kiều còn nói với em về cảnh ngộ hiện tại của mình:
Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Nàng muốn Vân hiểu những bất hạnh bất ngờ ập tới khiến cho Kiều vô củng rối bời,
Kiều muốn em hiểu rằng mình đang làm tròn chữ hiếu và mong em giúp mình làm
trọn chữ tình. Qua đó ta còn thấy một Thúy Kiều muốn sống khao khát sống trọn
tình vẹn nghĩa nhưng cuộc đời đầy đau khổ bất hạnh lại không cho phép nàng.
Không những thế, Kiều còn nói đến hoàn cảnh hiện tại của Vân để rồi cất lời nhờ
em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Kiều nhắc đến tình máu mủ để nói việc mình nhờ cậy em cũng là hợp với đạo lí.
Kiều cũng nói đến lời nước non để chứng minh rằng tình cảm của mình với Kim
Trọng là tình cảm thiên liêng rất xứng đáng với em. Kiều cũng nói với em những lời
rất tội nghiệp để thuyết phục hoàn toàn Thúy Vân:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Dù có ở thế giới khác đi chăng nữa thì Kiều cũng cảm thấy mãn nguyện khi đã trao
duyên được cho em. Nhưng mặt khác, hai chữ “thơm lây” khiến cho Kiều trở thành
một người ngoài cuộc bởi hạnh phúc bây giờ đã trao lại cho Thúy Vân. Qua đây ta
cũng thấy được thân phận và số phận của Kiều khi thốt ra những lời như thế. Nếu


như không có sóng gió bất ngờ xảy ra thì Kiều đã được hưởng những hạnh phúc ấy
và bởi vậy, lời nói của Kiều có gì đó thật xót xa, hạnh phúc mới chớm nở thì đã tàn.
Sau khi mở lời nhờ cậy em, Kiều đã trao lại cho em những kỉ vật đính ước và tha
thiết tâm sự với em:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Thúy Kiều trao lại cho em những kỉ vật là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh
hương nguyền. Đó là những tín vật của tình yêu gợi lại mối tình đầu. Nhìn thấy
những kỉ vật Kiều như được sống lại với kỉ niệm tình yêu của mình. Trong hoàn
cảnh hiện tại khi Kim Trọng đang ở nơi xa thì những kỉ vật ấy là chỗ bấu víu duy
nhất của Thúy Kiều nên không dễ dàng gì để trao lại cho em. Cũng vì thế là Kiều
thốt lên những lời đầy lạ lùng: “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Chính sự
không rõ ràng trong hai từ “của chung” ấy đã thể hiện sự lúng túng là ngập ngừng
của Thúy Kiều, cho thấy tâm trạng của nàng khi trao lại kỉ vật cho em: lí trí mách
bảo phải trao nhưng tình cảm thì lại không thể. Trao lại kỉ vật cho em những tâm
hồn Kiều không thể nguôi ngoai:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc, coi mình như đã chết. Những hình ảnh trong
câu thơ gợi ra một Thúy Kiều đang ở trong một thế giới khác, không thể trở lại hòa
nhập với cuộc sống và số phận của nàng vô cùng mong manh. Ngay cả khi ở thế
giới bên kia kia thì Kiều cũng thể thanh thản mà còn nặng lòng với tình duyên , cuộc


sống và nàng coi mình là người thác oan, nỗi đau tức tưởi nhưng đồng thời cũng vô
cùng bất lực.
Trong tận cùng đau khổ, Kiều hướng về Kim Trọng với những tâm sự tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Thúy Kiều tâm sự với chàng Kim nhưng Kim Trọng đang ở phương xa và thực chất
đây là những lời độc thoại, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về nỗi đau
thân phận mình. “Gương gãy”, “trâm tan” là những hình ảnh diễn tả một cách cảm
động và xót xa về bi kịch của Thúy Kiều. Đằng sau đó ta thấy một Thúy Kiều nặng
tình nặng nghĩ với chàng Kim. Đi liền với nỗi đau về tình yêu còn là nỗi đau về thân
phận bạc bẽo. Thành ngữ “bạc như vôi” như có gì đó oán trách, đi liền vói nó là tâm
trạng gần như bất lực “Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng.” Kết thúc đoạn thơ,
Thúy Kiều cất lên tiếng gọi Kim Trọng tha thiết khiến cho lời than như một tiếng
nấc được thốt ra nghẹn ngào. Trong lời than ấy, Kiều đã gọi Kim Trọng là Kim lang,
coi Kim Trọng giống như chồng của mình. Điều này tưởng như phi lí bởi Kiều đã
trao duyên cho em nhưng lại rẩ có lí bởi Kiều đã thể hiện tình cảm chân thật của
mình mà quên đi tất cả mọi thứ xung quanh. Nàng mắc phải một mặc cảm là mình
đã phụ tình Kim Trọng. Người đau khổ nhất lúc này đó chính là Thúy Kiều nhưng
nàng đã quên đi những đau khổ ấy để chỉ nghĩ về Kim Trọng. Thúy Kiều không chỉ
nặng tình mà còn nặng nghĩa. Những câu thơ cuối là những câu cảm thán khiến cho
đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Bi kịch, đau khổ và cả tình yêu nồng nàn
của Thúy Kiều được đẩy lên đến đỉnh điểm, qua đó bộc lộ được những nét đẹp trong
tâm hồn của nàng.
Đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch
về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên
được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà.
Nguyễn Du đã một lần nữa khẳng định được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật vô
cùng sống động, chân thực và phong phú. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để



nhân vật tự thốt lên từ tận đáy lòng. Qua đoạn trích, nội tâm nhân vật Thúy Kiều
được khám phá một cách toàn diện. Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với
ngôn ngữ uyển chuyển, mềm mại, tinh tế để có thể miêu tả được những rung động,
đau khổ trong lòng nhân vật. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân
hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.
Phân tích trao duyên – bài 2
Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao
duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc
mới hiểu được, “Trao duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người
khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút
dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời
đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng
Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu
nặng của Thúy Kiều.
Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại tình tiết trao
duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn
thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng
“để lòng thị phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình,
nàng đành cậy em:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trong dãy từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính
xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại
thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ
để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết
chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em
nghe:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề


Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến. Chuyện
gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh. Chuyện kể nguyền hẹn ước với Kim
Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà đối với cái trí bình
thường của Thúy Vân không bao giờ biết được:
“Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai”
Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu – tình là hai giá trị
tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn
những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy
Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng
và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một lời trong Kinh Thánh như vậy, chúng
ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều.
Cho nên hy sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi
lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em
hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim
Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt
vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi
sinh lớn lao.
Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỷ vật giữa nàng và chàng Kim:
“Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung”
Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỷ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện
ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc thoa với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng
đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì, nàng trao duyên, trao cả những


kỷ vật tình yêu cho em. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung
được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo
vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con
người.
Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỷ vật và còn
dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tờ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.”
Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ
hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim
Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với
“ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…” Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn
động cả vũ trụ.
Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là
Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”
Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách

mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết
thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ
chàng”. Chính tâm lý mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong
tiếng kêu thương thấu trời:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên
“Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong


truyện của Thanh Tâm Tải Nhân là một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật
tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã
đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và
con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn
nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong
công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn
Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn.
Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể
nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn “trao
duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu
đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa
chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói
như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu
ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn
hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo?
Phân tích trao duyên – bài 3
Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn.
Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một
người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp
đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều

của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn vù đắp
cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy
Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi
trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.
Duyên là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ
có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se
tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy
mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại
không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng
đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho
nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên
của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở.


Với hai câu thơ đầu ta thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình
thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng
cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế
nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp
tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” là những từ
để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn.
Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép
buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ.
Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn
gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy
Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng
Kim.
Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là

những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở.
Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa
đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang
chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân
có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều
mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim
Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa
nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không
muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng


chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ
hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân cho được.
Thúy Kiều vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột
già. Điều đó càng làm cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối
được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi
thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi
xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho

thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không
yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ
lúc nào. Kiều mong vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay
chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Nếu được như thế thì ngay cả khi những
sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới
bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của
em gái cho mình.
Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến
nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại
thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình
yêu ấy mới bắt đầu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng
nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những
niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi


sinh chữ tình. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành
duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng
với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của ba người. Dẫu đã trao
cho Thúy Vân những kỉ vật ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của
chung. Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại
chia ra thành mấy câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc
đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc
cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng

cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào
mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ
trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng
mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ
vật tình yêu ấy.
Kiều đau đớn như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim
và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng
sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái
chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy
thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau
nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Cơn gió kia thể hiện sự
vương vấn cõi trần này của nàng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát
thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong
kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói
cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi
trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì
họ mới dám nghĩ đến. kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con


dường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ
lúc nào.

Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ
tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì
thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ
mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc.
Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao duyên.

Hướng dẫn ôn tập bài “Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ”
( Trích ” chinh phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm )
KIẾN THỨC CHUNG
Hoàn cảnh sáng tác
+Vào đầu thời Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra chống lại
triều đình Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra
liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm
hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở
khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa
chồng.
+Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào
khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời
đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện,
trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn
cả.
Giá trị của tác phẩm
Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc
biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con
người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.
III>Đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”
Đoạn trích có thể chia làm 2 đoạn nhỏ:
– Đoạn 1 : Từ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước… đến Dây uyên kinh đứt, phím
loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời

gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.
– Đoạn 2: Từ “Lòng này gửi gió đông có tiện… mưa phun” Nỗi nhớ thương người
chồng ở phương xa; cảnh vật khiến lòng nàng thêm sầu thảm.


Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ miêu tả những cung bậc và sắc thái
khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ đang khao khát được sống
trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Bài văn mẫu Phân tích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người Chinh Phụ
Người chinh phụ tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công
danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng
sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cô
đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh
phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực.
Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy
hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao
đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy
nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác
giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ
là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.
Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của
người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn đang tràn ngập
tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.
Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ
loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân
người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông
rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà
chẳng thấy.
Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ắng, chỉ có
ngọn đèn đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của
mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô
giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên
tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận:
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh
ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã
miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.


Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm
giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong
phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thờigianluôndeo
đẳng, ám ảnh nàng.Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng
hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất
phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng.

Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!
Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả
không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô
đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và
dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu
cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng
đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì
nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng
chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình.
Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ
chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt,
phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô
đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu
nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở
tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong
hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên
khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ
thương theo cơn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý

nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa,
đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống
trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ
trẻ, con thơ:


Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ
vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu,
thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ
hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân
trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời
trung đại:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay
đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn
đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời
thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó
càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Qua thể thơ song thất lục bát,cách dung từ,hình ảnh ước lệ,tác giả đã thể hiện một
cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của
người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phục lứa
đôi.Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thong sâu sắc của tác giả
với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ.Cất lên tiếng kêu nhân
đạo,phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
2. Phân tích từ ngữ hình ảnh trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”

* Khái quát:
– Trước ND và Truyện Kiều, một trong những đỉnh cao của VHVN thế kỉ XVIII là
tác phẩm Chinh phụ ngâm do Đặng Trần Côn, diễn Nôm Đoàn Thị Điểm (?)- bài ca
dài, lời than thở của người vợ trẻ (chinh phụ) có chồng đi chinh chiến ở xa (chinh
phu), khao khát cuộc sống lứa đôi trong hòa bình yên ổn của người phụ nữ.
– Đoạn trích:
+ Tâm trạng cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ khi chinh phu xa nhà ra trận; sự
đồng cảm sâu sắc của tác giả và dịch giả đối với khát vọng hạnh phúc lứa đôi của
người phụ nữ.
+ Qua tâm trạng nhân vật  nhấn mạnh giá trị nhân đạo, đề cao quyền sống, sự trân
trọng, khát vọng hạnh phúc lứa đôi của con người trong khúc ngâm.
* Nghệ thuật diễn tả tâm trạng của người chinh phụ.
– Nỗi cô đơn, buồn nhớ, lẻ bóng, khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
+ Những động tác của người chinh phụ: một mình ở nhà, lẻ loi người hiên, đi đi lại
lại, quanh quẩn, buông rèm rồi lại cuốn rèm nhiều lần,…cử chỉ, hành động lặp đi
lặp lại ko mục đích, vô nghĩa biểu lộ tâm trạng cô đơn, lẻ loi – tâm trạng bồn chồn,
ko yên, mong đợi tin mà chẳng thấy – Nỗi buồn, sự lo lắng nhân lên khát khao
đồng cảm.


×