Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

xác định thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại hai xã ea bar và cuôr k nia huyện buôn đôn tỉnh đăk lăk năm 2010 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 66 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB (Asian Development Bank): Ngân hàng phát triển Châu Á
BP: Biện pháp
CMT: Cắt móng tay
CS: Cộng sự
CTNCKH: Công trình nghiên cứu khoa học
HVS: Hợp vệ sinh
KAP (Knowledge Attitude Practice): Kiến thức, thái độ, thực hành
KST: Ký sinh trùng
KST-CT: Ký sinh trùng-Côn trùng
n: Mẫu nghiên cứu
NC: Nghiên cứu
P (Probability): Xác suất
PC: phòng chống; PCSR: Phòng chống sốt rét
SL: Số lượng
TB: Trung bình
TL: Tỷ lệ
Tp: Thành phố
TQĐ: Truyền qua đất
TTGD: Truyền thông giáo dục
WHO (World Health Organization): Tổ chức Y tế thế giới
(+): Dương tính;
(%): Phần trăm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1.
Bảng 3.1.
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.


Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6.
Bảng 3.7.
Bảng 3.8.
Bảng 3.9.
Bảng 3.10.
Bảng 3.11.

Một số thông tin về 2 xã nghiên cứu.
Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ nhiễm giun TQĐ theo nhóm tuổi của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất theo giới của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất theo dân tộc của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ đơn nhiễm, đa nhiễm giun TQĐ của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ học sinh biết tên về các loại giun TQĐ.
Hiểu biết của học sinh về đường lây truyền của bệnh giun TQĐ.
Hiểu biết của học sinh về tác hại của bệnh giun TQĐ.
Hiểu biết của học sinh về phòng chống bệnh giun TQĐ.
Tỷ lệ các loại hố xí được sử dụng tại gia đình của học sinh.
Tỷ lệ uống thuốc tẩy giun trong vòng 6 tháng trước khi

17
27
28
29
31
32
33
34

35
35
36
37

Bảng 3.12.

điều tra.
Thực hành vệ sinh cá nhân phòng chống giun TQĐ của

37

học sinh.

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1.

Bản đồ hành chính tỉnh Đăk Lăk.

18


Hình 2.2.

Bản đồ hành chính huyện Buôn Đôn.

19

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang
Biểu đồ 3.1.
Biểu đồ 3.2.
Biểu đồ 3.3.
Biểu đồ 3.4.

Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ nhiễm giun TQĐ theo giới của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ nhiễm giun TQĐ theo dân tộc của học sinh 2 xã.
Tỷ lệ đơn nhiễm, đa nhiễm giun TQĐ của học sinh 2 xã.

21
30
31
32


ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh giun truyền qua đất là do trứng có ấu trùng của các loài giun
(giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ, giun lươn) cần có thời gian tồn tại và phát
triển trong môi trường đất khi có nhiệt độ, ẩm độ và oxy thích hợp thì mới trở
thành mầm bệnh gây nhiễm cho người. Các bệnh giun truyền qua đất phổ biến
là giun đũa (Ascaris lumbricoides), giun tóc (Trichuris trichiura)và giun
móc/mỏ (Ancylostoma duodenale/Necator americanus) lưu hành ở khắp nơi


trên thế giới; đặc biệt là các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó có Việt
Nam [17], [22].
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính có khoảng 1,4 tỷ người nhiễm
giun đũa, 1 tỷ người nhiễm giun tóc và 1,2 tỷ người nhiễm giun móc/mỏ, gây

nhiều tác hại về lâm sàng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người nhất là
trẻ em, làm suy dinh dưỡng, giảm khả năng phát triển về thể chất và trí tuệ
cũng như khả năng học tập, thậm chí còn là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp
dẫn đến tử vong [16], [22].
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới có điều kiện tự nhiên, tập quán sinh
hoạt và canh tác cũng như điều kiện vệ sinh môi trường rất thuận lợi cho bệnh
giun sán tồn tại và phát triển quanh năm. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ
nước ta có khoảng 50-60 triệu người nhiễm giun sán, trong đó các bệnh giun
truyền qua đất có tỷ lệ nhiễm cao ở trẻ em; ước tính trên toàn quốc số người
nhiễm giun đũa khoảng 60 triệu người, giun tóc 40 triệu và giun móc 20 triệu;
nhiều vùng số người bị nhiễm cùng lúc 2-3 loài giun lên tới 60-70% làm tổn
hại nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như sức lao động của nhân dân [2].
Huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk dân số 61.308 người gồm 7 xã và 90
thôn bản; có 16 trường tiểu học, trong đó xã Ea Bar và Cuôr K Nia trẻ em đang
độ tuổi đi học dễ nhiễm bệnh giun sán do tình trạng vệ sinh môi trường còn
nhiều bất cập, rác thải sinh hoạt chưa được thu gom đúng cách, người dân có
thói quen ăn rau sống, uống nước lã, đi chân đất. Bệnh giun truyền qua đất tác
hại đến mọi lứa tuổi, nhưng quan trọng nhất vẫn là trẻ em ở các trường tiểu học
vì ở lứa tuổi này các em thường bị suy dinh dưỡng do đang qua thời kỳ phát
triển mạnh về thể chất và trí tuệ [8].
Tuy nhiên hiện nay bệnh giun sán vẫn được coi là "căn bệnh bị lãng
quên" do triệu chứng bệnh diễn biến âm thầm, dễ bị che lấp bởi nhiều bệnh
cấp tính khác nên không được quan tâm đúng mức và chưa có quy mô phòng


chống. Hoạt động phòng chống bệnh giun sán chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ của
Tổ chức Y tế thế giới thông qua mô hình tẩy giun cho học sinh ở các trường
tiểu học, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) thông qua chương trình phòng
chống bệnh truyền nhiễm. Xuất phát từ yêu cầu thực tế với mong muốn góp
phần làm giảm tỷ lệ nhiễm, giảm cường độ nhiễm và giảm tác hại các bệnh

giun truyền qua đất ở trẻ em, đề tài nghiên cứu: “Xác định thực trạng nhiễm
giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại hai xã Ea Bar và Cuôr K Nia
huyện Buôn Đôn tỉnh Đăk Lăk năm 2010-2011” được tiến hành với 2 mục tiêu
như sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất của học sinh tiểu học tại
điểm nghiên cứu.
2. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành của học sinh tiểu học về phòng
chống nhiễm giun truyền qua đất tại điểm nghiên cứu.


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử nghiên cứu các bệnh giun truyền qua đất
Trên thế giới các bệnh giun truyền qua đất có lịch sử xuất hiện rất sớm,
y học cổ đã ghi nhận bệnh giun đũa, giun tóc và tác hại gây thiếu máu của
giun móc/mỏ. Nhiều năm tiếp theo có các nghiên cứu về chu kỳ giun đũa, giun
tóc, giun móc/mỏ trên cơ thể người: Grassi (1887), Looss (1898-1911), Stewart
(1916); nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm giun đường ruột ở nhiều vùng địa lý khác nhau:
Bowman, Garrison (1917), Chester, Dershimer (1918); nghiên cứu về phân bố và
bệnh học của giun móc/mỏ: Fukusluma (1952), Gerritsen (1954), Komiya-Suzuki
(1956), Roche và Lecyriss (1966) [17], [22].
1.1.1. Giun đũa
Giun đũa được EdWard Tyson (Anh Quốc) lần đầu tiên chính thức mô
tả vào năm 1683, với hình dạng giống như giun ở đất và được đặt tên là
"Lumbricus teres". Sau đó các nhà khoa học đã đặt với nhiều tên khác nhau
như Ascaris Lumbricoides (Linnaeus, 1758), Lumbricoides vulgaris (Merat,
1821)… đến năm 1915 Uỷ ban Quốc tế gồm 66 thành viên của các nước đã
chính thức xác nhận tên giun đũa trên danh mục động vật học là Ascaris
lumbricoides [12], [17].
1.1.2. Giun tóc

Giun tóc được mô tả lần đầu tiên bởi Linnaeus vào năm 1771, tiếp theo chu
kỳ của giun tóc được Grassi xác định năm 1887 và được Fulleborn hoàn chỉnh
vào năm 1923. Tình hình nhiễm giun tóc trên thế giới được Corn tổng hợp năm
1938 và được đánh giá là loại giun phổ biến.
Giun tóc có nhiều tên gọi khác nhau như Ascaris trichiura (Linnaeus
1771),

Trichocephalus

hominis,

Trichocephalus

Suis

(Schrank

1788),

Trichophalus apri (Ginelin 1790), Trichophalus dispa (Rodolphi 1802),


Masligodes hominis (Zeder 1803), Trichocephalus crenatus (Rudolphi 1809),
Trichiuris trichiura (Stiles 1901); trong đó Trichiuris trichiura được các chuyên
gia Châu Mỹ thống nhất là tên gọi chính thức vào năm 1941 [18].
1.1.3. Giun móc/mỏ
Bệnh giun móc đã được mô tả từ lâu trong các tài liệu cổ và đến thế kỷ 17
được nhiều tác giả mô tả đầy đủ hơn như Jakok de Bondt (1629), Pison và
Magraff (1648). Năm 1843, Dubini đã phát hiện thấy giun móc ở tử thi một bệnh
nhân ở Milan đặt tên là Ancylostoma duodenale. Tiếp sau đó, một số tác giả khác

như Prunez (1847), Bilharz (1852), Criesinger (1854) cũng phát hiện tương tự và
mô tả thêm; tuy nhiên, tên gọi Ancylostoma duodenale được các nhà khoa học
thống nhất trong danh mục động vật học vào năm 1915 [17].
Năm 1898, Loss đã xác định được cơ chế nhiễm bệnh qua da của giun móc,
đến năm 1902 Stiles C.W đã tìm thấy Necator americanus và đặt tên là giun mỏ
cũng ký sinh ở tá tràng nhưng phổ biến hơn Ancylostoma duodenale ở một số nơi
[18].
Ở Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã có những điều tra đầu tiên ở
người qua các công trình nghiên cứu của Mathis, Léger, Salamon, Nerew và
Maurriquand… đặc biệt là công trình của Mathis, Léger (1911) đã điều tra cơ bản,
toàn diện về các loại giun truyền qua đất. Từ năm 1954 đến nay đã có hàng ngàn
công trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực về các bệnh giun như nghiên cứu điều
tra cơ bản, nghiên cứu về hình thể, đặc điểm sinh học, phân bố dịch tễ, bệnh học
và biện pháp phòng chống [17], [18].
1.2. Dịch tễ học bệnh giun truyền qua đất
1.2.1. Dịch tễ học của bệnh giun đũa (Ascaris lumbricoides)
Bệnh giun đũa gặp ở khắp nơi trên thế giới do số lượng lớn trứng giun
đũa được thải ra ngoài theo phân và có sức đề kháng cao với ngoại cảnh. Ở
vùng ôn đới, bệnh thường gặp ở trẻ em và những người có nghề nghiệp tiếp


xúc với đất; ở vùng nhiệt đới, nhất là Viễn Đông tỷ lệ nhiễm chiếm 70-90%
do có nhiệt độ và độ ẩm thuận lợi cho sự phát triển của trứng, người dân thiếu
ý thức vệ sinh cá nhân và tập quán sử dụng phân người trong nông nghiệp. Ở
Việt Nam, tỷ lệ nhiễm ở miền Bắc 70-85% và miền Nam 18-35%, tỷ lệ nhiễm
ở nông thôn cao hơn thành thị [10], [12], [18].
Theo các nghiên cứu nuôi giun tại phòng thí nghiệm, mỗi ngày một con
giun đũa cái có thể đẻ tới 23-24 vạn trứng. Trứng giun đũa không có khả năng
phát triển trong cơ thể người mà chỉ phát triển ở ngoại cảnh với điều kiện
nhiệt độ, độ ẩm và oxy thích hợp [10], [22].

- Nhiệt độ thuận lợi 24-250C sau 12-15 ngày trứng non phát triển đến
giai đoạn ấu trùng, có khả năng gây nhiễm cho người. Nhiệt độ thấp hoặc cao
làm tỷ lệ trứng hỏng tăng; trứng giun đũa bị huỷ hoại ở nhiệt độ trên 60°C và
có thể tồn tại ở nhiệt độ dưới 0°C, nhiệt độ -12°C có khả năng diệt trứng giun
đũa.
- Ẩm độ từ 80% trở lên là điều kiện tốt nhất cho trứng giun đũa phát
triển.
- Oxy là yếu tố cần thiết cho trứng giun đũa phát triển.
Khi trứng giun đũa bị nằm sâu dưới nước dần dần sẽ bị hỏng, trong hố
xí nước trứng giun sẽ bị hỏng sau 2 tháng. Hoá chất Formol 6%, thuốc tím rửa
rau sống, cresyl rửa sàn nhà cũng không có khả năng diệt trứng giun đũa. Một
số nước đã dùng dung dịch Iod 10% để diệt trứng giun sán trong rau sống, tuy
nhiên thường để lại vị khó chịu, nếu không được rửa lại cẩn thận bằng nước
sạch. Trong thiên nhiên trứng giun đũa thường bị huỷ hoại bởi ánh nắng mặt
trời và điều kiện thời tiết khô hanh [10], [17].
1.2.2. Dịch tễ học bệnh giun tóc (Trichuris trichiura)
Bệnh giun tóc lưu hành khắp nơi trên thế giới, sinh thái gần giống với
giun đũa nên những vùng có giun đũa là có giun tóc. Ở Việt Nam có khí hậu


nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho giun sán phát triển, tỷ lệ nhiễm có khác
nhau tuỳ vùng: miền Bắc cao nhất 52% và miền Nam thấp hơn 3-5%.
Về phương diện dịch tễ, bệnh giun tóc liên hệ mật thiết với độ ẩm của
đất, nơi bóng cây rậm rạp có điều kiện trứng sống để cho phôi thai xuất hiện.
Trong một ngày, một con giun tóc cái có thể đẻ trứng tới 2.000 con, nhiệt độ thích
hợp nhất để trứng giun tóc phát triển ở ngoại cảnh là 25-30°C, trên 50°C
trứng sẽ bị hỏng.
Do có vỏ dày, trứng giun tóc có sức đề kháng cao hơn trứng giun đũa.
Trong điều kiện mặt trời chiếu sáng như nhau, trong khi trứng giun đũa bị
chết 100% thì trứng giun tóc chỉ bị chết 45%. Trứng giun tóc vẫn có khả năng

phát triển trong dung dịch acid chlohydric 10% tới 3 tuần lễ, trong dung dịch
acid nitric 10%, formalin 10% tới 9 ngày. Tuy nhiên cũng như trứng giun đũa,
trứng giun tóc dễ bị hỏng dưới tác động của tia tử ngoại hoặc ánh sáng mặt
trời [10], [12], [17], [18].
1.2.3. Dịch tễ học bệnh giun móc/mỏ (Ancylostoma duodenale/Necator
americanus)
Bệnh giun móc/mỏ phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, xứ lạnh
ít gặp hơn tập trung chủ yếu ở các hầm mỏ. Khí hậu nóng ẩm thuận lợi cho sự
phát triển của ấu trùng và lan truyền bệnh quanh năm, thường vào mùa mưa.
Thiếu vệ sinh cá nhân (đi tiêu bừa bãi) và sử dụng phân tươi bón ruộng làm cho
đất bị nhiễm rất nhiều ấu trùng giun móc; tập quán chân đất, tay tiếp xúc với đất
khi làm việc của những người nông dân và trẻ em tạo điều kiện cho bệnh luôn tái
nhiễm.
Nước ta phân bố địa lý phức tạp nên tỷ lệ nhiễm giun móc thay đổi tùy
vùng; miền Bắc ở vùng đồng bằng, không ngập nước, sử dụng phân người bón
hoa màu, tỷ lệ nhiễm có thể lên đến 40-50%, nhưng ở vùng đồng bằng cấy lúa,
ngập nước hay miền núi tỷ lệ nhiễm chỉ từ 10-20%; miền Nam tỷ lệ nhiễm chung


khoảng 10%, chủ yếu ở các nơi làm rẫy hay vườn cao su. Nghề nghiệp tiếp xúc
với đất hoặc phân dễ nhiễm bệnh như nông dân trồng hoa màu, công nhân khai
thác mỏ, làm gạch ngói, đồn điền cao su; không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm
giữa nam và nữ.
Tỷ lệ nhiễm giun móc chịu ảnh hưởng rõ rệt của những yếu tố địa lý, độ
tuổi và mức độ tiếp xúc với đất. Một con giun móc cái Ancylostoma duodenale
đẻ khoảng 10.000-25.000 trứng mỗi ngày. Một con giun mỏ cái Necator
americanus đẻ khoảng 5.000-10.000 trứng mỗi ngày [18]. Theo Phan Văn
Trọng (1999-2000) tỷ lệ nhiễm chung giun móc/mỏ 60,4%, vùng trồng rau
màu tỷ lệ nhiễm cao hơn vùng trồng cây công nghiệp và vùng trồng lúa nước
[20], [21].

1.3. Tình hình nhiễm giun truyền qua đất
1.3.1. Tình hình nhiễm giun trên thế giới
1.3.1.1. Nhiễm giun đũa
Giun đũa phổ biến và phân bố rộng trên thế giới với mức độ khác nhau,
những nước nhiệt đới tỷ lệ nhiễm cao hơn những nước ôn đới có khí hậu lạnh
khô.
Các nước Châu Âu do điều kiện khí hậu lạnh, khô làm cho sự phát triển
trứng giun đũa ở ngoại cảnh bị hạn chế nhiều. Theo các nghiên cứu ở vùng
ngoại ô Matscơva thì qua mùa lạnh số trứng giun đũa sống sót chỉ còn 1-2%,
phải tới mãi tháng 4 hoặc tháng 5 năm sau mới có điều kiện phát triển thành
trứng có ấu trùng. Ngoài ra các nước Châu Âu có mức sống cao, điều kiện
môi trường sạch, phân được xử lý trong các hố xí tự hoại, không có thói quen
sử dụng phân người làm phân bón do đó bệnh giun đũa hầu như không còn, tỷ
lệ nhiễm dưới 1%. Tuy nhiên trong Thế chiến II (1939-1945), tỷ lệ nhiễm
bệnh giun đũa khá cao; theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới ở Italia tỷ lệ
nhiễm giun đũa trẻ em tới 12-75%, ở nông thôn Hà Lan nhiễm 45%; ở Pháp,


Đức, Bồ Đào Nha tỷ lệ nhiễm bệnh giun đũa cũng cao nhưng khi hết chiến
tranh thì bệnh giun đũa giảm nhanh.
Các nước Châu Phi và Châu Mỹ La tinh do vấn đề ô nhiễm môi trường,
khí hậu nóng ẩm và đời sống người dân còn thấp nên tỷ lệ bệnh giun đũa hiện
vẫn còn xấp xỉ 8% (Châu Mỹ La tinh), 12% (Châu Phi).
Các nước Châu Á tỷ lệ nhiễm giun đũa còn cao ở các nước Ấn Độ,
Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, Myanma, có nhiều vùng tỷ lệ nhiễm giun
đũa lên tới 50% dân số [10], [17], [18].
1.3.1.2. Nhiễm giun tóc
Cũng như giun đũa, giun tóc phân bố rộng ở các nước có khí hậu nóng
ẩm, nền nông nghiệp lạc hậu, điều kiện vệ sinh môi trường sống chưa được
cải thiện.

Số người nhiễm giun tóc ở Châu Á khoảng 227 triệu, Châu Phi 28
triệu, Châu Âu 34 triệu, Liên Xô (cũ) 27 triệu, Nam Mỹ 34 triệu. Theo thống
kê của Hiệp hội vì sự phát triển trẻ em (1997), trên thế giới có tới 902 triệu
người nhiễm giun tóc [2], [3].
1.3.1.3. Nhiễm giun móc/mỏ
Bệnh giun móc phổ biến ở các nước vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới,
điều kiện lan truyền phụ thuộc vào nghề nghiệp; xứ lạnh bệnh lưu hành ở các
vùng mỏ than do có nhiệt độ và ẩm độ thích hợp cho mầm bệnh giun móc/mỏ
phát triển, tuy nhiên hiện nay điều kiện lao động của công nhân mỏ than được
cải thiện tốt nên bệnh này đã giảm nhiều. Ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới
bệnh giun móc/mỏ liên quan tới nông dân trồng hoa màu hoặc cây công
nghiệp như dâu tằm, mía, cà phê, thuốc lá... [20]; năm 1998, theo Tổ chức Y
tế thế giới số người nhiễm giun móc/mỏ trên thế giới là 1,2 tỷ người [16].
1.3.2. Tình hình nhiễm giun ở Việt Nam


Việt Nam tỷ lệ nhiễm các loại giun truyền qua đất rất cao; theo Lê Duy
Sáu và CS (1999) tỷ lệ nhiễm giun chung ở một vùng tỉnh Yên Bái 94,29% [14],
theo Cấn Thị Cứu và cộng sự (1975-1980) người dân tộc miền núi có tỷ lệ nhiễm
giun chung là 99,61% [3], theo Lê Khánh Thuận, Nguyễn Văn Chương và CS, tỷ
lệ nhiễm giun chung ở 10 tỉnh ven biển miền Trung-Việt Nam là 44,27-78,76%
[19]. Năm 1998, ước tính trên toàn quốc số người nhiễm giun đũa khoảng 60
triệu người, giun tóc 40 triệu người và giun móc/mỏ là 40 triệu người [8].
1.3.2.1. Nhiễm giun đũa
Giun đũa đứng hàng đầu trong các bệnh giun truyền qua đất ở Việt
Nam; theo số liệu thống kê của Viện Sốt rét-KST-CT Hà Nội (1998) tỷ lệ
nhiễm giun ở miền Bắc: vùng đồng bằng 80-95%, trung du 80-90%, vùng núi
50-70%, ven biển 70%; miền Trung: vùng đồng bằng 70,5%, vùng núi 38,4%,
ven biển 12,5%; đồng bằng miền Nam 45-60%; Tây Nguyên 10-20%.
Nguyên nhân nhiễm bệnh phân bố không đều là do ở miền Bắc 90% nông dân

sử dụng phân tươi để bón lúa và hoa màu [2], [8].
Tỷ lệ nhiễm giun thay đổi theo tuổi và nghề nghiệp, đặc biệt tỷ lệ
nhiễm cao ở trẻ em và nông dân tiếp xúc với phân, đất. Các em nhỏ 4 tháng
tuổi đã tìm thấy trứng giun đũa trong phân; kết quả điều tra học sinh phổ
thông cơ sở nội ngoại thành Hà Nội (1995) Hoàng Tân Dân, Trương Thị Kim
Phượng và CS cho kết quả nhiễm giun đũa 62,47% [4]; theo Cấn Thị Cứu
(1980) điều tra tại cộng đồng tỉnh Quảng Ninh cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa
là 88,39% [3].
Đánh giá độ ô nhiễm thường tiến hành xét nghiệm tìm trứng giun đũa
khuyếch tán ra môi trường đất; kết quả nghiên cứu của Phạm Hoàng Thế,
Nguyễn Nhân Kim (1963) tại Hà Nội thấy trứng giun đũa ở sàn nhà sàn lớp
học, bàn học sinh; ở nông thôn tìm thấy trứng giun đũa ở sân, lối đi, trong nền
nhà, trên bàn, trên ghế với tỷ lệ 3 trứng giun/100g đất, đặc biệt số trứng tăng


lên 19 lần ở khu vực xung quanh hố xí. Vấn đề sử dụng phân người bón hoa
màu và các gia súc (chó, lợn, gà) cũng là nguồn khuyếch tán trứng giun đũa ra
môi trường; mùa lạnh ở nước ta chưa đủ diệt trứng giun đũa do đó ngoại cảnh
cũng là nguồn ủ trứng giun đũa quanh năm [10], [17], [18].
1.3.2.2. Nhiễm giun tóc
Sự phân bố của giun tóc tương tự như giun đũa chủ yếu ở vùng đồng
bằng đông người, sử dụng phân người trong canh tác nông nghiệp; miền Bắc:
vùng đồng bằng 58-89%, trung du 38-41%, vùng núi 29-52%, ven biển 2875%; miền Trung: vùng đồng bằng 27-47%, ven biển 12,7%; miền Nam:
vùng đồng bằng 0,5-1,2%, ven biển 68%, Tây Nguyên 47% [18].
Bệnh giun tóc có ở mọi lứa tuổi, nhưng nhiễm theo lứa tuổi khác với
bệnh giun đũa ở một số điểm: lứa tuổi nhỏ dưới 1 tuổi hầu như không nhiễm
giun tóc, như vậy giun tóc không nhiễm sớm như giun đũa có thể do mầm
bệnh là trứng giun tóc có mật độ khuyếch tán ở ngoại cảnh thấp hơn so với
giun đũa; lứa tuổi 2-3 tuổi vẫn có mức độ nhiễm giun tóc thấp, chứng tỏ giun
tóc thường nhiễm muộn; lứa tuổi trên 3 tuổi, tỷ lệ nhiễm giun tóc tuy tăng dần

theo tuổi nhưng không có hiện tượng tăng vọt và đột biến. Mặt khác, tuổi thọ
của giun tóc kéo dài hơn nhiều so với giun đũa nên giun tóc khó tự hết và
không có hiện tượng giảm nhiễm giun tóc tự nhiên theo tuổi; Smirnov cho
rằng, tuổi thọ giun tóc kéo dài khoảng 6 năm, căn cứ vào đặc điểm tỷ lệ
nhiễm giun tóc còn cao ở những người nhiều tuổi và tái nhiễm không hoàn
toàn dễ dàng, có thể dự đoán tuổi thọ của giun tóc dài hơn thời hạn 6 năm
nhiều. Tỷ lệ nhiễm giun tóc giữa nam và nữ xấp xỉ bằng nhau [8], [16].
Trứng giun tóc giống trứng giun đũa là phân bố ở ngoại cảnh một cách
tương đối tập trung quanh nhà, quanh hố xí hay những chỗ có liên quan mật
thiết đến phân người; nhưng khác ở chỗ trứng giun tóc có hình thể dễ nhận,
các gia súc ít nhiễm giun tóc nên ít có sự lẫn lộn giữa trứng giun tóc của


người và trứng giun tóc của gia súc. Vì vậy, có thể dựa vào sự có mặt của
trứng giun tóc ở ngoại cảnh để đánh giá mức độ ô nhiễm ngoại cảnh chính xác
hơn là dựa vào sự có mặt của trứng giun đũa.
Bộ môn Ký sinh trùng, Trường Đại học Y Hà Nội đã điều tra sự
khuyếch tán của trứng giun tóc ở ngoại cảnh với 16,6% mẫu đất tìm thấy
trứng giun, 6,8-33,5 trứng/100 gam đất, 30% phân ủ có trứng giun chưa bị
phân huỷ và trên 380 ruồi được xét nghiệm thấy có 1 trứng giun [10], [17],
[18].
1.3.2.3. Nhiễm giun móc/mỏ
Tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ ở nước ta thay đổi tuỳ theo miền, vùng địa
lý; miền Bắc: vùng đồng bằng 3-60%, trung du 59-64%, vùng núi 61%, ven
biển 67%; miền Trung: vùng đồng bằng 36%, vùng núi 66%, ven biển 69%;
miền Nam: vùng đồng bằng 52%, ven biển 68%, Tây Nguyên 47%
Nhiễm giun móc/mỏ phụ thuộc vào nghề nghiệp, tuổi, giới; nông dân
các vùng trồng rau màu, cây công nghiệp, công nhân vùng mỏ có tỷ lệ nhiễm
cao; tuổi càng cao tỷ lệ nhiễm càng cao; nữ giới chiếm cao hơn nam giới.
Tính chất thổ nhưỡng của địa phương cũng ảnh hưởng đến phân bố của bệnh

như đất phù sa ven sông, đất màu, đất vùng ven biển có tỷ lệ nhiễm cao.
Kết quả điều tra sự ô nhiễm ấu trùng giun móc/mỏ ở ngoại cảnh miền
Bắc thấy vùng đồng bằng 100-140 ấu trùng/100 gam đất, trung du 8-35 ấu
trùng/100 gam đất, vùng núi 0,2-0,7 ấu trùng/100 gam đất. Mức độ phân bố
bệnh còn phụ thuộc vào tính chất thổ nhưỡng của địa phương, phương thức
canh tác trong nông nghiệp, tình trạng vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân,
tình trạng sử dụng hố xí không hợp vệ sinh và thói quen đại tiện bừa bãi... [8].
Ở nước ta, trong hai loại giun móc và giun mỏ thì giun mỏ Necator
americanus chiếm 95% các trường hợp nhiễm bệnh, giun móc Ancylostoma
duodenale là loài chủ yếu phân bố ở các nước ôn đới [10], [12].


1.3.3. Tình hình nhiễm giun ở Tây Nguyên
Tây Nguyên có tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất khá cao, hàng đầu là
giun móc/mỏ, kế đến là giun đũa, giun tóc tỷ lệ nhiễm thấp hơn khác hẳn với
các vùng khu vực phía Bắc nhiễm cao nhất là giun đũa rồi mới đến giun tóc,
giun móc/mỏ.
Kết quả điều tra cơ bản tình hình nhiễm giun sán của Nguyễn Văn Khá,
Nguyễn Văn Chương, Triệu Nguyên Trung và CS (2002-2004), cho thấy tỉnh
Đăk Lăk xét nghiệm 2.845 mẫu phân, tỷ lệ nhiễm giun chung 46,32%, trong
đó giun đũa 6,80%, giun tóc 0,56%, giun móc 39,76%; tỷ lệ nhiễm giun nhóm
5-9 tuổi 40,91%, trong đó giun đũa 10,37%, giun tóc 1,75%, giun móc
25,79%; tỷ lệ nhiễm giun nhóm 10-14 tuổi 50,99%, trong đó giun đũa 7,15%,
giun tóc 1,74%, giun móc 43,21%; tỷ lệ nhiễm giun chung ở nam giới
50,79%, trong đó giun đũa 7,45%, giun tóc 1,29%, giun móc 43,37%; tỷ lệ
nhiễm giun chung ở nữ giới 49,17%, trong đó giun đũa 7,46%, giun tóc
1,19%, giun móc 41,83% [9].
Trương Quang Ánh, Nguyễn Thị Ngọc Tuyến nghiên cứu tình hình
nhiễm giun truyền qua đất trên 358 em học sinh ở trường tiểu học thuộc tỉnh
Thừa Thiên Huế thấy tỷ lệ nhiễm giun chung là 55,86%, trong đó giun đũa

46,37%, giun tóc 20,39%, giun móc 2,23%; tỷ lệ đơn nhiễm 33,78%, đa
nhiễm 2 loại giun 18,72%, đa nhiễm 3 loại giun 3,36% [1].
1.3.4. Kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) phòng chống giun truyền
qua đất
Kết quả nghiên cứu về đường lây truyền bệnh, tác hại và các biện pháp
phòng chống giun truyền qua đất của các tác giả rất khác nhau tùy theo thời
gian, địa điểm và đối tượng điều tra:
Phan Văn Trọng (1999-2000) đường lây truyền của giun vào cơ thể
người qua đường tiêu hoá 8,8%, qua da 1,5%, không biết 89,1% [29]; 86,7%


người không biết tác hại của nhiễm giun móc/mỏ; 10,6% người cho là gầy
yếu; 2,7% người cho là thiếu máu [21].
Nguyễn Văn Khá và CS (2002-2004) điều tra kiến thức phòng chống
giun sán của các dân tộc tại tỉnh Đăk Lăk có 46,17% người cho tác hại của
bệnh giun sán là đau bụng; 25,83% người cho là ốm yếu; 23,33% người trả
lời không biết ; 47,17% cho là ăn, uống chín, 32,17% rửa tay trước khi ăn,
43,16% không biết; 14,33% có tẩy giun hàng năm, 85,67% không tẩy giun
hàng năm, 48,83% ăn rau sống, uống nước lã, 42,67% không biết; 9,16% nhà
có hố xí và 80,84% nhà không có hố xí [9].
1.4. Tác hại của bệnh giun truyền qua đất
Bệnh giun truyền qua đất làm thiếu máu, thiếu dinh dưỡng, giảm khả
năng lao động và sự tập trung tư tưởng; ở trẻ em gây còi cọc, thiếu máu, chậm
lớn, chậm phát triển trí tuệ; ở phụ nữ có thai làm tăng tỷ lệ tử vong cho bà mẹ
và thai nhi [12].
1.4.1. Tác hại của giun đũa
1.4.1.1. Chiếm thức ăn
Giun đũa ký sinh ở ruột với số lượng lớn nên vấn đề chiếm thức ăn là
tồn tại hàng đầu của bệnh giun đũa; vị trí ký sinh cũng tạo cho giun đũa chiếm
sinh chất quan trọng của người, đặc biệt là đối với trẻ em.

Theo thống kê của Đỗ Dương Thái, Hoàng Tân Dân (1976) thì mật độ
nhiễm giun đũa của người Việt Nam là 7-8 con giun. Tuy nhiên, trong các
trường hợp mổ tắc ruột do giun, số lượng giun có thể lên tới 1.000 con nên
vấn đề chiếm thức ăn của giun đũa là rất quan trọng, đưa đến tình trạng suy
dinh dưỡng đáng kể ở trẻ em.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (1967), mỗi người trung bình
có 26 con giun thì mỗi ngày phải hao tốn 4 g protein, ngoài ra giun đũa còn
gây ra rối loạn thẩm thấu thức ăn qua việc gây tổn thương viêm niêm mạc


ruột và chiếm vitamin, đặc biệt là vitamin A, vitamin D [10], [18].
1.4.1.2. Tắc ruột do giun
Số lượng giun nhiều và do điều kiện pH ruột bị rối loạn, giun đũa còn
có thể gây ra tình trạng tắc ruột, giun phát tán ra ống mật lên gan, chui vào
ống tụy, vào ruột thừa, đôi khi còn gặp thủng ruột viêm phúc mạc do giun
đũa.
Năm 1962 tại Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) đã phải xử lý 115 trường
hợp giun gây tắc ruột, 336 trường hợp giun chui ống mật [10], [17].
1.4.1.3. Hội chứng Loeffler
Hội chứng Loeffler là do ấu trùng giun đũa gây ra khi tồn tại ở phổi
gồm các triệu chứng: ho, sốt, đau ngực dữ dội, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng cao
30-40%; X quang có nhiều nốt thâm nhiễm rải rác hai phổi, các triệu chứng
trên sẽ hết sau 6-7 ngày, khi các ấu trùng rời phổi để lên vùng vòm hầu miệng.
Gần đây người ta đã lưu ý tới các triệu chứng viêm màng não do ấu trùng
giun đũa gây ra [10], [17].
1.4.2. Tác hại của giun tóc
1.4.2.1. Gây dị ứng cho cơ thể
Khi ký sinh, phần đầu của giun tóc cắm sâu vào niêm mạc ruột gây
kích thích cơ quan thụ cảm của ruột và gây phản xạ có hại tới chức năng của
hàng loạt các cơ quan khác do tiết ra các chất ngoại tiết và nội tiết trong quá

trình ký sinh. Vai trò của giun tóc trong việc gây nhiễm trùng thứ phát đã
được nêu bởi nhiều tác giả; các bệnh thương hàn, tả thường phối hợp với giun
tóc trong đa số các trường hợp, bệnh thường tiến triển nặng và gây tử vong; ở
nơi giun tóc ký sinh thường thấy ổ chảy máu, ổ hoại tử niêm mạc, chảy máu,
loét, hoại tử [10], [17].
1.4.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Hầu hết bệnh nhân nhiễm giun tóc biểu hiện lâm sàng không rõ rệt, trừ


những bệnh nhân nhiễm trên 50 con giun tóc trở lên; trong những trường hợp
nhẹ, giun tóc thường chỉ gây đau bụng, buồn nôn, táo bón, khó tiêu, đau lưng,
nhức đầu và chán ăn, tỷ lệ bạch cầu ái toan có tăng nhưng không cao.
Tại nơi ký sinh, số lượng giun tóc ít thì tổn thương niêm mạc ruột
không đáng kể, nếu nhiễm nhiều sẽ gây tổn thương niêm mạc; trường hợp
nhiễm trên 100 giun tóc, niêm mạc đại tràng hình thành những đám loét lớn
phủ bởi màng mủ lẫn máu, phải gạt bỏ màng mủ mới thấy được tổn thương cụ
thể. Trong quá trình ký sinh, giun tóc kích thích các tổn thương ở ruột già gây
hội chứng giống lỵ, bệnh nhân đau bụng vùng đại tràng, đại tiện nhiều lần
trong ngày, có cảm giác mót rặn, phân ít và có nhiều chất nhầy lẫn máu lờ lờ
như máu cá. Tình trạng kích thích niêm mạc và mót rặn kéo dài có thể dẫn tới
trĩ ngoại. Những thương tổn niêm mạc ruột có thể gây nhiễm trùng thứ phát
bởi trực khuẩn thương hàn, vi khuẩn sinh mủ...
Giun tóc có thể vào ruột thừa gây viêm, tuy nhiên qua nhiều trường hợp
mổ tử thi bệnh nhân chết vì các nguyên nhân khác nhau vẫn thấy giun tóc ở
ruột thừa nhưng không thấy hiện tượng ruột thừa bị viêm. Những người có
giun tóc còn có thể bị nổi mẩn dị ứng, số lượng giun tóc nhiễm nhiều có thể
gây thiếu máu nhược sắc, tim có tiếng thổi tâm thu và bệnh nhân bị phù nhẹ;
theo nghiên cứu của Graig, Faust và Hoeppli, giun tóc có thể tiết ra những
men phân giải tổ chức [10], [17].
1.4.3. Tác hại của giun móc/mỏ

1.4.3.1. Giai đoạn ấu trùng xuyên qua da
Khi ấu trùng giun móc/mỏ xuyên qua da có thể gây hiện tượng viêm da
tại nơi xâm nhập với biểu hiện ngứa, xuất hiện nhiều nốt màu đỏ có thể mất
nhanh sau 1-2 ngày, nếu có bội nhiễm vi khuẩn có thể kéo dài 1-2 tuần do tình
trạng lỡ loét da. Hiện tượng viêm da thường do Necator americanus gây ra
hơn là Ancylostoma duodenale, ngứa và viêm da thường rõ rệt hơn trong


trường hợp ấu trùng giun móc động vật như giun móc chó A. Caninum xâm
nhập qua da người [10], [17].
1.4.3.2. Giai đoạn ký sinh tại ruột
Giun móc/mỏ ký sinh ở tá tràng và phần đầu ruột non là vùng giàu
mạch máu, do đó giun rất dễ dàng hút máu của vật chủ; phương thức hút máu
của giun móc/mỏ lại lãng phí nên vật chủ mất máu nhiều và nhanh chóng dẫn
tới tình trạng thiếu máu. Theo bộ môn Ký sinh trùng, khoa Y, Trường Đại học
Stanfor (1995): một giun móc Ancylostoma duodenale hút 0,2-0,34 ml
máu/ngày, một giun mỏ Necator americanus hút 0,03-0,05 ml máu/ngày. Qua
thực nghiệm: Cabresa và Adami thấy số máu của một giun móc hút bằng 5 lần
một giun mỏ trong ngày, với người nhiễm 500 giun móc thì mỗi ngày có thể
mất từ 40-80 ml máu. Thiếu máu do giun móc/mỏ là loại thiếu máu nhược
sắc, protein toàn phần, đặc biệt gama-globulin trong máu giảm nhiều, tỷ lệ
bạch cầu ái toan tăng từ 5-12%.
Ngoài tác hại hút máu, giun móc/mỏ còn tiết ra chất chống đông máu
và chất độc ức chế cơ quan tạo máu sản sinh hồng cầu, gây tăng thêm tình
trạng thiếu máu của cơ thể vật chủ. Trường hợp nhiễm giun móc/mỏ kéo dài
không được điều trị, các triệu chứng thiếu máu ngày càng tăng; bệnh nhân
thường có cảm giác mệt mỏi, đánh trống ngực, ù tai, hoa mắt, chóng mặt, khó
thở...; dấu hiệu thiếu máu biểu hiện da xanh bủng, niêm mạc nhợt, có thể phù
nhẹ toàn thân, mạch nhanh, huyết áp hạ; biểu hiện nặng thường xảy ra ở phụ
nữ nông thôn dẫn đến tình trạng rối loạn kinh nguyệt, đẻ non hoặc vô sinh;

viêm loét hành tá tràng thường gặp ở người bị nhiễm giun mỏ hơn giun móc
như đau vùng thượng vị kèm theo triệu chứng khó tiêu, ăn mất ngon hoặc ỉa
lỏng; nếu được điều trị tốt thì bệnh loét hành tá tràng cũng dần khỏi [10],
[17], [18].
1.5. Phòng chống bệnh giun truyền qua đất


1. 5.1. Chiến lược phòng chống nhiễm giun trên thế giới
Tổ chức Y tế thế giới đã có đường lối rõ ràng trong công tác phòng
chống các bệnh giun truyền qua đất, cụ thể là nhiều chương trình phòng
chống qui mô lớn và “Hiệp hội vì sự phát triển của trẻ em” đã ra đời tập hợp
các nhà tài trợ, các tổ chức, các Viện nghiên cứu để tìm cách nâng cao sức
khỏe và học tập cho trẻ em lứa tuổi đi học ở các nước đang phát triển qua việc
phòng chống các bệnh giun truyền qua đất. Năm 1996, Tổ chức Y tế thế giới
khuyến cáo rằng bất kỳ chương trình nào phòng chống các bệnh giun truyền
qua đất đều phải bắt đầu bằng điều tra cơ bản để có cơ sở vững chắc cho việc
đánh giá hiện trạng và nhu cầu can thiệp ở cộng đồng, đưa ra các số liệu thiết
yếu giúp cho việc xây dựng các chương trình phòng chống ở các tuyến; điều
tra theo dõi đánh giá hiệu quả của chương trình phòng chống.
Theo Tổ chức Y tế thế giới có 3 chiến lược sử dụng hoá trị liệu để điều
trị các loại giun tại cộng đồng là: (i) điều trị toàn dân không phân biệt tuổi,
giới, tình trạng nhiễm hoặc các đặc điểm xã hội khác; (ii) điều trị nhóm đối
tượng được xác định theo tuổi, giới hoặc các đặc điểm xã hội khác mà không
phụ thuộc vào tình trạng nhiễm; (iii) điều trị chọn lọc cho từng cá nhân dựa
trên chẩn đoán đang nhiễm bệnh [10], [16], [22].
1.5.2. Chiến lược phòng chống bệnh giun sán ở Việt Nam
1.5.2.1. Nguyên tắc chung
Có kế hoạch lâu dài và ngắn hạn nối tiếp nhau, tiến hành trên quy mô
rộng lớn, có trọng tâm trọng điểm; xã hội hoá việc phòng chống giun sán,
lồng ghép vào các hoạt động y tế, sức khoẻ và phát triển kinh tế-xã hội; tuyên

truyền giáo dục sức khoẻ làm thay đổi hành vi và sử dụng tổng hợp các biện
pháp có thể.
1.5.2.2. Mục tiêu chính
Giảm tỷ lệ nhiễm, giảm cường độ nhiễm và giảm tác hại.


1.5.2.3. Chiến lược và các giải pháp trong phòng chống giun sán
Chiến lược: phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết vệ sinh môi trường,
huy động cộng đồng tham gia và tuyên truyền giáo dục sức khoẻ nhằm thay
đổi hành vi có hại cũng như ý thức tự phòng chống bệnh giun sán; tăng cường
vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh ăn uống trong gia đình và nơi công cộng;
điều trị cho đối tượng có nguy cơ cao và điều trị mở rộng khi có nhu cầu;
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phác đồ điều trị có hiệu quả, nghiên cứu các
thể bệnh khó và tăng cường trang thiết bị phát hiện sớm những trường hợp
giun sán nội tạng [2].
Các giải pháp chính:
- Phát triển kinh tế-xã hội: xoá đói, giảm nghèo; nâng cao dân trí; xây
dựng nhà ở, khu dân cư hợp vệ sinh, phát triển cơ sở hạ tầng tốt.
- Giải quyết vệ sinh môi trường: xây dựng hố xí hợp vệ sinh, quản lý
phân, không phóng uế bừa bãi, không dùng phân tươi tưới bón cho cây trồng;
xử lý rác thải, nước thải; diệt ruồi, nhặng, gián là trung gian truyền bệnh giun
sán.
- Vệ sinh an toàn thực phẩm: cung cấp nguồn thực phẩm sạch, nước
sạch, kiểm tra thú y các loại thịt; kiểm tra thực phẩm nơi công cộng, nơi giết
mổ gia súc, chợ, hàng ăn, nhà ăn tập thể; diệt ruồi nhặng, gián và gió bụi làm
ô nhiễm thức ăn; đặc biệt chú ý những cơ sở, người chế biến, bảo quản, sản
xuất thực phẩm, lưu thông thực phẩm...
- Truyền thông giáo dục sức khoẻ: nguyên nhân, tác hại của bệnh giun
sán và nguy cơ nhiễm bệnh; cách phòng chống phù hợp với địa phương và
cộng đồng; giáo dục học đường nâng cao ý thức phòng bệnh cho học sinh.

- Phát hiện bệnh: bằng các phương pháp chẩn đoán vùng dịch tễ, chẩn
đoán bệnh nhân, xét nghiệm tìm ký sinh trùng trực tiếp hoặc gián tiếp; ưu tiên
những người có biểu hiện bệnh giun sán và các đối tượng có nguy cơ cao.


- Điều trị: điều trị cá thể người bệnh và điều trị hàng loạt những đối
tượng có nguy cơ nhiễm giun cao, lựa chọn thuốc điều trị có hiệu quả chỉ cần
uống một lần duy nhất hoặc rất ngắn ngày nhưng tác dụng với 2-3 loại giun, ít
tác dụng phụ, giá cả phải chăng và được cộng đồng chấp nhận [2].
CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Hai xã Ea Bar và Cuôr K Nia thuộc huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk
được chọn nghiên cứu có điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và vệ sinh môi
trường tương tự nhau; nghề nghiệp của người dân chủ yếu là trồng lúa, cà
phê, hoa màu hoặc thu hái lâm thổ sản.
Bảng 2.1. Một số thông tin về 2 xã nghiên cứu
Thông tin

Ea Bar

Cuôr K Nia

15.916

7.805

2. Trạm y tế xã

1


1

3. Đài truyền thanh của xã

1

1

4. Số trường tiểu học

4

2

5. Trường tiểu học có hố xí HVS

Không

Không

6. Tổng số hộ

3.006

1.561

7. Số hộ nghèo

1.136


816

1. Dân số


8. Số học sinh tiểu học
8.1. Số học sinh nam
8.2. Số học sinh nữ

462

463

259

260

203

203

GIA LAI

Ea H'leo
Ea Soup

Krông
Buk


Buôn Đôn

Krông
Năng

Cử M'gar
Ea Kar

TP. BMT

Krông Păk

MDRăk

Krông Na
Krông Bông

ĐĂK NÔNG
Lăk

LÂM ĐỒNG

Điểm nghiên cứu
Hình 2.1. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐĂK LĂK

KHÁNH HOÀ


EA SUOP


CƯ M GAR

Krông Na
Ea Huar
Ea Wer
Tân Hòa

CuôrKNia

EaBar

ĐĂK NÔNG

Ea Nuôl
T.P BUÔN MA THUỘT

Điểm nghiên cứu

Hình 2.2. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN BUÔN ĐÔN


×