Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

đường lối của đảng cộng sản việt nam trong từng giai đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.96 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt của cách
mạng Việt Nam. Kể từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành
được những thắng lợi vĩ đại. Cách mạng tháng 8 - 1945 thành công khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước đem lại độc lập tự do và
thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào sự nghiệp đổi mới và từng bước quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường Xã Hội Chủ Nghĩa có quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong
khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu bước
vào thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên một chặng đường dài có bao nhiêu biến cố, sự kiện phức tạp của tình
hình trong nước và quốc tế, đất nước phải đương đầu với đủ loại kẻ thù với bao khó
khăn thử thách có những lúc ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí Minh, con thuyền cách mạng Việt
Nam vẫn cập bến vinh quang. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn một điều
không thể phủ nhận, đó là sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh việc chỉ đạo chiến lược để xây dựng lực lượng cách mạng,chĩa mũi
nhọn đấu tranh vào đế quốc tay sai, giành độc lập, chính quyền cho nhân dân, Đảng
cũng có những chuyển hướng trong chủ trương đường lối và có sự đổi mới tư duy,
biện pháp để phát triển toàn diện mọi lĩnh vực.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta nhận thức một cách hệ thống, cơ bản
ban đầu về quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta. Qua đó có thể hiểu
1



được sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong từng giai đoạn để có thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Những đường lối ,chính sách của Đảng và thành tựu đạt được của kinh tế
Việt Nam sau khi đổi mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Văn kiện các kỳ đại hội Đảng, vấn đề kinh tế- xã hội của Việt Nam trước và
sau đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở phương pháp luận
Lấy Chủ Nghĩa Mác-Lênin và các quan điểm có tính phương pháp luận của
Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản Việt Nam làm cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
b) Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh,
quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa...thích hợp với từng nội dung
phân tích.

2


B. NỘI DUNG
Chương I: Quá trình thành đường lối đổi mới của Đảng
1.Bối cảnh lịch sử
Chủ trương đổi mới xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam được căn cứ dựa
trên lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, trên cơ sở đó áp dụng vào hoàn cảnh và điều
kiện cụ thể của Việt Nam, của hệ thống chủ nghĩa xã hội đã và đang diễn ra lúc này.
Hiện tại, thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta vẫn phải đương
đầu với những trở ngại rất lớn. Không chỉ vậy, nước ta còn mang nặng đặc điểm vốn

có của một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Hậu quả lớn và lâu dài của chiến tranh do các thế lực thù
địch đế quốc và bọn phản động quốc tế gây ra cũng đặt nước ta vào hoàn cảnh bắt
buộc phải đổi mới mới có thể phát triển.
Tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta cũng như ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa
đang gặp nhiều khó khăn do những khiếm khuyết của mô hình xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta chưa phát hiện để khắc phục. những biến động phức tạp xảy ra tại Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng gây ra nhiều bất lợi cho Cách mạng Việt
Nam.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của nước ta vẫn diễn ra nghiêm trọng. Tình
trạng nạn đói, thiếu lương thực, lạm phát cao ở nhiều tỉnh trong những năm 19781989 làm đời sống nhân dân rất khó khăn, các hiện tượng gian lận và tệ nạn xã hội
gia tăng.
Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không sửa chữa được những sai lầm trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trái lại đất nước ngày càng lún sâu vào
khủng hoảng kinh tế, chính trị.
Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi
Campuchia để tiếp tục cô lập Việt Nam. Mỹ vẫn thực hiện chính sách cấm vận về

3


kinh tế đối với nước ta làm cho quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu
với nước ta bị thu hẹp.
Những khó khăn cả trong nước và quốc tế đòi hỏi Đảng ta phải bắt tay vào
công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết là đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng tình hình của nước ta lúc này để có thể đề ra những biện pháp chính
xác, kịp thời, khắc phục khó khăn. Và công cuộc đổi mới phải được thực hiện toàn
diện và sâu sắc cả trong tư tưởng nhân dân và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
khi nước ta đang bước vào thời kỳ quá độ. Vì vậy việc hình thành đường lối đổi mới
của Đảng ta là tất yếu lịch sử.

2. Nhận thức về đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta từ Đại hội
VI đến Đại hội VIII.
Chúng ta đã có những bước cải tiến về nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy
nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp
theo chỉ thị 100 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở
Long An; Nghị quyết TW8 khóa V (1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định
25 và Nghị định 26 - CP của Chính phủ…tuy nhiên đó là tiền đề để đổi mới sau này
tại các kỳ Đại hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến
18-12-1986.Đại hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng
phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới... Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới
mà Hội Nghị Trung ương 6 - khoá VI (3-1989) nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân
chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với
nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có
lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ.
Trong Nghị quyết Trung ương 8B - khoá VI (3-1990) về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Đảng
nhấn mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động
lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình
4


thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và

đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ
thống chính trị. Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các
thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu
nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài
nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ
sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo
vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã nêu rõ
chủ trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất
là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu tư,
cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và
Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là luật sớm
nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29-12-1987 và
có hiệu lực từ 1-1-1988.
Đại hội Đại biểu lần thứ VII của Đảng diễn ra ngày 24 đến
27/6/1999.“Đại hội trí tuệ - đổi mới, dân chủ, kỷ cương - Đoàn kết”. Đại hội VII có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ quyết định những nhiệm vụ chính trị nặng nề
trước mắt, mà cả con đường, bước đi của cách mạng nước ta trong những thập niên
tiếp theo. Đó là quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn.

5



Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.
Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn
về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội đã xác định rõ vai trò “mặt trận
hàng đầu” của nông nghiệp, và trên thực tế đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã
tăng lên. Đại hội đề cập đến lĩnh vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng
yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế
vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa
của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những bước phát triển cao hơn, có chất lượng
hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1991: 5,8% 1995: 9,5%
+ Tương ứng công nghiệp tăng: 1991: 5,3 % 1995: 15,5%
+ Nông nghiệp tăng 1991: 2,2% 1995: 4,8%
+ Xuất khẩu tăng 1991: -13,2% 1995: 34,4%
+ Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 1991: 67% 1995: 12,7%
+ Cơ cấu kinh tế: 1991: 40,5 – 23,8 – 35,7(%)
1995: 27,2 – 28,8 – 44 (%)
+ Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã
hội (20,8 tỷ USD) .
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII diễn ra ngày 28/6 đến
1/7/1996.Đại hội “có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới
trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta”. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội
tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân.
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận
định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản
hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm

khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng
đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều
6


thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn
công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy
nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH, HDH. Đặt ra nội dung cụ thể
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm trước mắt (1996-2000) là “đặc
biệt coi trọng CNH, HDH nông nghiệp nông thôn…”. Kết quả là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996: 9,3% 2000: 6,75%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996: 14,5% 2000: 10,1 %
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996: 4,4% 2000: 4%
+ Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996: 33,2% 2000: 24%
+ Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 (%) , 2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 (%) .
3. Nhận thức về đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta từ Đại hội
lần thứ IX đến Đại hội lần thứ XI.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19 đến ngày
22-4-2011. Đại hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm
2001-2010 với mục tiêu tổng quát: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển;
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao”.
Đại hội IX của Đảng là “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến ngày
25/4/2006. Đại hội X của Đảng là Đại hội “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công

cuộc đổi mới, thực hiện bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và
nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa:
- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
7


Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và
thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế
để rút ngăn thời gian.
- Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất
nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức;
phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động
lực cho CNH, HDH.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và
có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp
hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy nhanh CNH, HDH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12 đến ngày
19/1/2011. Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng,toàn dân ta tiếp

tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc,đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội XI của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc thập kỷ đầu của
thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội
X và trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2010. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội X của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011-2015; tổng
kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, xác định
8


Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020; tổng kết, bổ sung và phát
triển Cương lĩnh năm 1991; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI (nhiệm kỳ 2011-2015). Các văn kiện này không chỉ nhằm đề ra các
biện pháp để giải quyết những nhiệm vụ trước mắt mà còn là sự định hướng lâu dài
cho hành động của Đảng và nhân dân ta.
Đại hội XI của Đảng là sự kiện chính trị - xã hội không những có ý nghĩa
quan trọng đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc
tế sâu sắc. Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn có tính nguyên tắc, sáng tạo trong việc giải
quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đồng thời khẳng định và kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ ChíMinh, phấn đấu đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Những thành tựu và đường lối đổi mới đó là bài học và kinh nghiệm
quý báu góp phần vào kho tàng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội của những
người cộng sản trên thế giới


9


Chương II: Thành quả, thời cơ và hạn chế, thách thức của công cuộc đổi mới
thời kỳ 1986 đến nay
1. Những thành quả đã đạt được và thời cơ của công cuộc đổi mới
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới cùng với
bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp và dân tộc,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, kể
cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu
và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo con đường của
Chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống của nhân
dân, như các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý
luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996, kinh tế
tiếp tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân trong giai đoạn 1986-1990 là 3,9%,
1991-1995 là 8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%), nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại
hóa được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng kể.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân nông dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và củng cố. Nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vị thế nước ta trên thế giới được nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân tin tưởng ở
đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin tưởng ở tương
lai phát triển của đất nước.
Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn, “Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
10



mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
bước đầu hình thành trên những nét cơ bản” (Văn kiện trình Đại hội X trang 11).
Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng đường đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công cụ, giải pháp để
thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về những
mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn trên con đường đổi mới vì
mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Hai mươi năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn. Đó là các bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp; Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới;
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; Đổi mới và hoàn thiện phương thức
lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
a.) Đổi mới hệ thống chính trị trong toàn xã hội:
khởi đầu là đổi mới cơ cấu kinh tế, các chính sách kinh tế và cơ cấu kinh tế, tạo
ra động lực mới, làm cho sản xuất và kinh doanh “ bung ra” với tốc độ chưa từng
thấy dẫn đến những biến đổi rất nhanh và kinh tế xã hội làm thay đổi hẳn bộ mặt
đất nước chỉ trong vòng một thập kỷ (1986-1996)
a.) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:
Một cuộc cải cách lớn trên mặt trận kinh tế. Việc quyết định cải cách cơ chế

kinh tế dẫn đến thay đổi phương pháp quản lý kinh tế, thể hiện ở việc Đảng và nhà
11


nước đã lãnh đạo nhân dân xây dựng và mở rộng đồng bộ các yếu tố thị trường, xóa
bỏ bao cấp trong hoát động kính tế, xóa bỏ sử chi huy quan liệu của cơ quan hành
chính đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi đơn vị kinh tế thuộc mọi thành
phần kinh tế đều được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, có quan hệ bình đẳng,
cạnh tranh lành mạnh hợp pháp, hợp tác và lien doanh tự nguyện, thị trường đóng
vai trò hướng dẫn điều tiết các dơn vị kinh tế lựa chọn phương án sản xuất kinh
doanh của họ.
2. Những hạn chế và thách thức còn tồn tại
Công cuộc đổi mới ở nước ta tuy đạt nhiều thành quả nhưng không phải không
có những hạn chế.
Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp,
chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số
chỉ tiêu không đạt kế hoạch.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài
nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển
chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh
vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng
ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các
nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải thiện.
Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất
thoát, lãng phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng
phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số.
Chất lượng nhiều công trình xây dựng cơ bản còn thấp. Quản lý, khai thác, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng,
khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện
pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và

có xu hướng mở rộng. Các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế không đạt kế hoạch Đại hội X đề ra.

12


Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể,
các nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng. Chất lượng xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng
đất đai, tài nguyên khoáng sản còn yếu, gây lãng phí, thất thoát lớn. Quản lý thị
trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài chính, có lúc còn lúng túng, sơ
hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất chính cho một số người;
chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội, môi
trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội. Chất lượng giáo dục và đào
tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn
còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy
chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới
chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất
lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn lúng túng. Xu hướng
thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp,
đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết
chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học,
công nghệ còn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo
và sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, sử dụng chưa hiệu

quả. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, đổi mới chậm.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động
viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với công việc. Đời
sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
13


khăn. Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra. Chất lượng công tác bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp
ứng được yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng
bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được
kiểm soát chặt chẽ.
Văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hoá bị xâm
hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội
phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức,
nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.
Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn chậm, thực
hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị
xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo
đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn nặng nề.
Công tác xã hội hoá chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nhiều nguồn
lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường.
Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội X về nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời. Nhận thức về quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy
đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù

địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong
một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở
có lúc, có nơi còn bị động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Việc gắn kết giữa phát triển
kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các
14


vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ. Công nghiệp quốc phòng, an ninh
chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang.
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự
phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân,
giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa thật đồng bộ.
Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm.
Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ
gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành pháp luật; hoặc
đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc; công tác kiểm tra, đôn đốc
chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực hiện còn cách biệt. Việc tuyên
truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận
động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát
triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ
chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý,
biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan
chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa

đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực
yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội
không nghiêm. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam
giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ,
bị cải sửa còn nhiều.
15


Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi,
phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một
số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng
còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà
bình”.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn
biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều
hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số
nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.
Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ ràng.
Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự
phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi

mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối
với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy quyền,
chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu
tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc,
chính sách cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng
lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận
tụy của cán bộ đối với công việc.
16


Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công
tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh
hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai
trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người
có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.
Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị
còn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện
nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan
tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi
trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết,
thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố
tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được
phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn
ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ
chức đảng không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa quan tâm
đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng

vẫn nặng tính hành chính.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng,
nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên
hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn
nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng.

17


Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những
yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực thù địch; nhưng trực
tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên
nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác
dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều
hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên
quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu
yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
còn bất cập.

18


C. KẾT LUẬN
Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi;

sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh
mẽ hơn trong giai đoạn mới. Tới đây bài tiểu luận của em đã kết thúc chắc chắn
không thiếu được sai sót. Vì vậy em rất mong rằng sẽ nhận được sự góp ý của các
thầy cô.

19


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam
- Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XI
- www.chinhphu.vn.
- Tailieu.vn.com
- wattpad.com
- Mạng internet

20


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2
B. NỘI DUNG...........................................................................................................3
Chương I: Quá trình thành đường lối đổi mới của Đảng.......................................3

1.Bối cảnh lịch sử...................................................................................................3
2. Nhận thức về đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta từ Đại hội VI
đến Đại hội VIII......................................................................................................4
3. Nhận thức về đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta từ Đại hội lần
thứ IX đến Đại hội lần thứ XI.................................................................................7
Chương II: Thành quả, thời cơ và hạn chế, thách thức của công cuộc đổi mới thời
kỳ 1986 đến nay....................................................................................................10
1. Những thành quả đã đạt được và thời cơ của công cuộc đổi mới.....................10
2. Những hạn chế và thách thức còn tồn tại..........................................................12
Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế....................14
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................19
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20

21



×