A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn
cầu, nó tồn tại ở mọi quốc gia, mọi Châu lục và không trừ một ngoại lệ nào.
Bước sang thế kỷ XXI nhưng một phần tư thế giới vẫn đang sống trong sự
cùng cực của nghèo khổ không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản
của con người. Hàng triệu người khác có nguy cơ tái nghèo cao.
Đói nghèo không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được
hưởng những thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây ra những
hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội. Đói nghèo còn ảnh hưởng đến nhiều
đối tượng khác nhau kể cả đối với người già và trẻ em, làm gia tăng bệnh tật,
trẻ em không có được cơ hội đến trường, từ đó nảy sinh ra những tệ nạn xã
hội, không được tiếp xúc với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ...
Đặc biệt, càng khó khăn hơn khi họ là những người phụ nữ nghèo đơn
thân làm chủ gia đình họ không chỉ là nạn nhân của đói nghèo mà họ còn
gánh vác trọng trách nuôi sống cả gia đình, thiếu thốn tình cảm, mặc cảm, tự
ti, ít giao tiếp xã hội và sống khép mình, chịu sự kỳ thị của cộng đồng… Bởi
vậy, hạn chế tình trạng nghèo đói là nhiệm vụ của các cấp các ngành nói riêng
và toàn thể cộng đồng nói chung. Trong đó, NVCTXH được coi là những
người có trọng trách nặng trong giúp đỡ họ tự vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống bằng những kiến thức và kỹ năng chuyên môn đặc thù.
Tại huyện Thăng Bình qua năm năm thực hiện chương trình xóa đói giảm
nghèo, tỉ lệ hộ nghèo năm 2015 đã giảm xuống còn 3316 hộ chiếm 8,80% ,
Công tác giảm nghèo trong thời gian qua đã có những thay đổi, đời sống của
người dân được nâng cao.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn là một huyện nghèo, đặc biệt tỉ lệ phụ nữ
nghèo đơn thân vẫn chiếm tỷ lệ cao. Theo danh sách thống kê hộ nghèo của
huyện Thăng Bình thì tỉ lệ hộ nghèo do phụ nữ đơn thân làm chủ hộ chiếm
45%. Trong đó xã Bình Hải là một trong những xã có nhiều phụ nữ nghèo đơn
1
thân vì đây là một xã ven biển, phần lớn người đàn ông làm nghề biển (nghề
có nhiều mối nguy hiểm). Và trong cơn bão Chan Chu năm 2006, nhiều hộ
gia đình đã mất đi người chồng, người cha, những đứa con trai,...
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ
nghèo đơn thân tại xã Bình Hải, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm vận dụng những kiến thức đã học đặc biệt là những
kỹ năng và phương pháp CTXHCN vào đối tượng phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con nhỏ nhằm tìm hiểu những vấn đề cũng như nhu cầu của họ để từ đó
cùng thân chủ xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm giải quyết vấn đề, hỗ trợ, định
hướng và kết nối họ với các nguồn lực để giúp thân chủ vươn lên trong cuộc
sống.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn
thân.
- Khách thể nghiên cứu: Phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ, trường hợp cụ
thể là chị: Nguyễn Thị Lài, phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ tại thôn Hiệp
Hưng, xã Bình Hải, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: nghiên cứu được tiến hành tại xã Bình Hải, huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam.
Thời gian: nghiên cứu được thực hiện từ ngày 26/01/2015 đến ngày
05/04/2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn
Nghiên cứu có sử dụng những thông tin từ những nguồn tài liệu có sẵn
dựa trên nguồn số liệu của cuộc khảo sát xác định hộ nghèo theo chuẩn mới
(Danh sách hộ nghèo năm 2015 xã Bình Hải), các báo cáo kinh tế chính trị
2
của xã Bình Hải năm 2014, báo cáo của LHPN xã Bình Hải, các tài liệu về
phụ nữ nghèo đơn thân, …để làm tư liệu trong quá trình hoàn thành đề tài.
5.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu thân chủ nhằm mục
đích tìm hiểu sâu hơn về vấn đề, nhu cầu của thân chủ, thăm dò, phát hiện tìm
hiểu những chính sách và biện pháp mà chính quyền đã triển khai trong hỗ trợ
phụ nữ nghèo tại địa phương.
Bên cạnh đó, thu thập những thông tin về những thực trạng, nguyên nhân
nghèo hiện tại, nhận thức của họ về cách thức vươn lên thoát nghèo, những
khó khăn của họ trong quá trình giảm nghèo, những nguyện vọng và mong
muốn của họ…
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Dưới góc độ tiếp cận của lý thuyết xã hội học, lý thuyết công tác xã hội,
đặc biệt là CTXHCN cùng với việc sử dụng các kỹ năng và các phương pháp
thu thập và phân tích thông tin, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung
cấp thêm nguồn lý luận phong phú cho việc ứng dụng các lý thuyết và các
phương pháp này trong thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu này được tiến hành với mục đích ứng dụng tiến trình
CTXHCN với phụ nữ nghèo dựa trên khảo sát chính nhu cầu của họ. Việc ứng
dụng tốt tiến trình này sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cho thân chủ bởi
thông qua đó họ có cơ hội bày tỏ, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống,
những tâm tư nguyện vọng cũng như những đường hướng để vươn lên
XĐGN, ổn định cuộc sống.
Nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho địa phương nghiên cứu để vận dụng thực hiện
công tác giảm nghèo cho phụ nữ. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng giúp ích
cho các tổ chức hoạt động vì cộng đồng trong việc định hướng can thiệp giảm
3
nghèo cho các nhóm yếu thế trong xã hội đặc biệt là nhóm phụ nữ nghèo đơn
thân.
7. Bố cục của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn
thân.
Chương 2: Tiến trình công tác xã hội các nhân đối với phụ nữ nghèo đơn
thân tại xã Bình Hải, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN
1.1.Công tác xã hội cá nhân
1.1.1.Khái niệm
-Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ cá nhân con người
thông qua mối quan hệ một-một. Nó được nhân viên xá hội ở các cơ sở xã hội
sử dụng để giúp những người có vấn đề về chức năng xã hội và thực hiện
chức năng xã hội. (theo Grace Mathew)
- Công tác xã hội cá nhân là một tiến trình được các cơ quan lo về an sinh
con người sử dụng để giúp các cá nhân đối phó hữu hiệu hơn với các vấn đề
thuộc về chức năng xã hội của họ. (theo HELEN HARRIS PERLMAN)
1.1.2. Đặc điểm
1.1.1.1.Đối tượng (thân chủ và nhân viên xã hội)
Trong công tác xã hội cá nhân, đối tượng( hay còn là thân chủ) là một
trong những thành phần quan trọng nhất để tiến hành hoạt động này. Ở đây,
thân chủ được hiểu là cá nhân có vấn đề khó khăn cần được sự giúp đỡ của
các nhân viên công tác xã hội. Họ thường đến với mong muốn tạo ra sự thay
đổi về tình huống hoặc đáp ứng những nhu cầu cần thiết của họ. Đây cũng
chính là nguyên tắc cốt yếu trong công tác xã hội cá nhân khi giải quyết vấn
đề của người nhân viên xã hội.
1.1.1.2.Vấn đề về thân chủ
Vấn đề được xác định là những tình huống hay hoàn cảnh gây cản trở cho
việc thực hiện chức năng xã hội của đối tượng và bản thân đối tượng không
thể đối phó giải quyết được.
1.1.1.3.Tổ chức/ cơ quan giải quyết các vấn đề
• Phân loại:
- Dựa trên nguồn viện trợ: đó là các cơ quan thuộc chính phủ, ngoài
chính phủ. Tổ chức chính phủ được chính quyền tài trợ và các tổ chức ngoài
5
(phi) chính phủ gây quỹ từ các chiến dích hay từ những sự đỡ đầu tài chính
khác. Một sộ ít là cơ quan bán công vì họ có nhận được một phần tài trợ từ
chính phủ mặc dù tài chính là từ bên ngoài.
- Dựa theo sự chủ quản có thể phân thành: cơ quan chính phủ (được phép
hoạt động từ chính phủ, trên cơ sở luật lệ) và cơ quan tư nhân (được cấp
quyền hạn từ một nhóm công dân có quan tâm hay một cộng đồng hoặc lĩnh
vực tư nhân).
- Cũng có thể phân loại theo chức năng: đó là những cơ quan đa năng với
nhiều bộ phận (Bộ xã hội) nhưng cũng có những cơ quan chỉ có một chức
năng duy nhất (chủ yếu là các tổ chức phi chính phủ).
Các tổ chức xã hội đều có nhiệm vụ, chức nawnhg và cách tiếp cận riêng,
mang những giá trị, tiêu chí riêng có thể phục vụ và đáp ứng cho một hoặc
nhiều nhóm đối tượng khác nhau.
1.1.2.Nguyên tắc cơ bản
1.1.2.1.Nguyên tắc cá nhân hóa
Mỗi thân chủ phải được nhân viên xã hội hiểu và nhìn nhận như một cá
nhân độc lập có cá tính riêng biệt, không giống ai trong cộng đồng của mình.
Đây chính là điều quan trọng nhất trong nguyên tác cá nhân hóa đề nhân viên
xã hội can thiệp trong quá trình giúp đỡ thân chủ.
1.1.2.2.Chấp nhận thân chủ
Chấp nhận thân chủ có nghĩa đòi hỏi nhân viên xã hội phải nhìn nhận thân
chủ như vốn thân chủ đó có với mọi phẩm chất tốt và xấu, điểm mạnh và
điểm yếu,….của thân chủ. Điều đó có nghĩa, thân chủ được chấp nhận là một
con người bình thường cho dù tội lỗi của họ là không thể chấp nhận. Tuy
nhiên, việc chấp nhận không có nghĩa là việc tha thứ thậm chí biện hộ hay
chạy tội cho những hành vi, hành động xã hội của thân chủ mà xã hội không
thể chấp nhận. Có như vậy, thân chủ mới bộc lộ những vấn đề của họ cho
mình.
6
1.1.2.3. Không phê phán
Không phê phán có nghĩa là đòi hỏi nhân viên xã hội trong quá trình làm
việc không được đưa ra bất cứ một sự bình phẩm, kỳ thị hay tỏ vẻ bất bình,
bất hợp tác….về hành vi của thân chủ, cho dù họ trong cuộc sống có thể họ là
hững người tội lỗi. Nói chung, thân chủ của công tác xã hội cá nhân là những
người có khó khăn khi giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Họ có những căng
thẳng dưới dạng này hay dạng khác. Việc chấp nhận, không phê phán của
nhân viên xã hội sẽ giúp thân chủ yên tâm và hoàn toàn sẽ chia những điều
vướng mặc của mình cho nhân viên xã hội.
1.1.2.4. Quyền tự quyết của đối tượng
Quyền tự quyết, cùng sự tự do trong những quyết định của thân chủ là
một trong những quyên tắc căn bản của công tác xã hội cá nhân miễn sao hậu
quả của những quyết định ấy không làm ảnh hưởng, thậm chí gây tổn hại đến
người khác và bản thân họ, điều này có nghĩa, những quyết định này phải ở
trong những chuẩn mực hành vi mà xã hội có thể chấp nhận được và thân chủ
với tư cách là người ra quyết định phải tự chịu trách nhiệm thực hiện và gánh
lấy những hậu quả (nếu xảy ra) từ những quyết định của chính mình. Còn
nhân viên xã hội không được đưa ra những quyết định, lựa chọn hay vạch kế
hoạch giúp thân chủ đưa ra những giải pháp để thân chủ tự quyết định mà
thôi.
1.1.2.5. Sự tham gia của đối tượng trong việc giải quyết vấn đề
Kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc tự quyết là sự tham gia của thân chủ
trong việc giải quyết vấn đề. Thân chủ trở thành đối tuowngjchinhs trong việc
theo đuổi kế hoạch và thực hiện kế hoạch hành động và nhân viên xã hội đóng
vai trò là người tạo cơ hội cho thân chủ tham gia.
1.1.2.6. Sự bí mật của nhân viên xã hội
Sự chia sẽ thông tin của thân chủ với người khác của nhân viên xã hội cho
dù người đó ;à thành viên của gia đình mình hay một đồng nghiệp thân cận….
mà chưa có sự đồng ý của thân chủ thì đó là một điều tối kỵ trong hành nghệ
7
công tác xã hội cá nhân. Điều đó có nghĩa trong tiến trình công tác xã hội cá
nhân, có nhiều điều chỉ nhân viên xã hội mới được thân chủ chia sẽ. Những
thông tin này đòi hỏi nhân viên xã hội phải giữ bí mật. Có như vậy thì mối
quan hệ giữa nhân viên xã hội với thân chủ mới bền chặt và qua đó nhân viên
xã hội mới hiểu, cảm nhận được xúc cảm của thân chủ và nhìn nhận tình thế
của thân chủ như vấn đề của mình.
1.1.2.7. Tự ý thức của nhân viên công tác xã hội
Trong thực hành Công tác xã hội với cá nhân, nhân viên công tác xã hội
phải xây dựng mối quan hệ tin tưởng với thân chủ dựa trên những nguyên tắc
chấp nhận, không phê phán. Luôn đặt mình vào trong vị trí của thân chủ để
cảm nhận về mức độ cảm xúc của thân chủ để có thể nhìn vấn đề của thân chủ
như chính thân chủ. Tuy nhiên nhân viên xã hội cần phải có cái nhìn khách
quan để khỏi mù quáng bởi những cảm xúc quá độ về tình huống.
Sự can dự có kiểm soát sẽ giúp cho nhân viên xã hội duy trì một mức độ
suy xét độ lập nhất định bên cạnh một mức độ cảm xúc thích hợp nhằm giúp
cho thân chủ có cái nhần khách quan về cấn đề của mình và xây dựng kế
hoạch một cách tinh tế.
1.1.3.Tiến trình công tác xã hội cá nhân
Tiến trình CTXH Cá nhân là một chuỗi hoạt động tương tác giữa NVXH
với thân chủ để giải quyết vấn đề. Trong quá trình này, thông qua mối quan hệ
tương giao giữa NVCTXH với thân chủ, NVXH dùng chính các quan điểm,
giá trị, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm và kĩ năng của mình để giúp thân
chủ hiểu rõ vấn đề của mình đồng thời khích lệ họ biểu đạt tâm tư, nhu cầu,
phát huy tiềm năng, tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn đề, cải
thiện điều kiện sống của mình.
Tiến trình CTXHCN là quá trình bao gồm các bước của các hoạt động do
NVXH và thân chủ thực hiện để giải quyết vấn đề. Trong quá trình giúp đỡ từ
nhiều nguồn khác nhau, có những bước kéo dài suốt quá trình như thu thập dữ
liệu, thẩm định và lượng giá. Có thể mô phỏng theo 7 bước sau:
8
Bước 1: Tiếp cận đối tượng.
Tiếp cận ca là bước đầu tiên có thể thân chủ tự tìm đến với nhân viên xã
hội khi họ gặp vấn đề và cần sự giúp đỡ, song trong một chừng mực nào đó
cũng có thể chính nhân viên xã hội lại là người tìm đến với thân chủ trong
phạm vi hoạt động theo chức năng của mình. Ở bước tiếp cận này nếu nhân
viên xã hội tạo được ấn tượng tốt với thân chủ thì những bước sau sẽ thuận
tiện hơn.
Bước 2: Thu thập thông tin
Sau khi tiếp cận với thân chủ nhân viên xã hội phải tiến hành thu thập
thông tin nhằm xá định vấn đề thân chủ đang gặp khó khăn trong việc tìm ra
hướng giải quyết. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình công tác xã hội cá
nhân, nó đóng vai trò quan trọng trong cá quá trình và kết quả của nó là sự
định hướng cho tất cá các bước tiếp theo bởi nếu nhận diện đúng sẽ dẫn tới
chẩn đoán và cách trị liệu đúng.
Bước 3: Chuẩn đoán
Gồm 3 bước: Chuẩn đoán, Phân tích, Thẩm định
- Chuẩn đoán xem xét tính chất của vấn đề và những trục trặc của nó trên
cơ sở các dữ liệu thu nhân được
- Phân tích là chỉ ra nguyên nhân hay nhân tố dẫn đến khó khăn.
- Thẩm định là xem có thể giảm bớt những khó khăn này thông qua
những năng lực nào của thân chủ.
Khi hoàn thành cuộc thẩm định tình huống có vấn đề và cá nhân liên quan
trong đó, nhân viên xã hội làm ngay một kế hoạch trị liệu cho dù đây mới chỉ
là kế hoạch tạm thời.
Để tiến hành chuẩn đoán tốt nhằm xây dựng kế hoạch trị liệu hiệu quả,
nhân viên công tác xã hội có thể sử dụng một số công cụ như: Cây phả hệ;
Biểu đồ sinh thái; Bảng phân tích điểm mạnh và điểm yếu của thân chủ…để
có thể phân tích sâu và đưa ra chuẩn đoán chính xác.
Bước 4: Lên kế hoạch trị liệu
9
Trong giai đoạn này nhân viên xã hội sẽ xác định mục đích trị liệu và mục
tiêu cụ thể để đạt được mục đích. Nhiệm vụ của hoạt động này:
- Xác định nội dung và mục tiêu phải đạt được: phải làm gì, đi đến đâu,
phải đạt được gì, tạo được sự thay đổi gì và đích đến là gì.
- Xác định hoạt này cho ai, nhóm nào và ở đâu
- Xác định cách thức, phương sách để đi đến mục tiêu: làm như thế nào.
- Xác định rõ vai trò người thực hiện: ai là người thục hiện nhân viên xã
hội nhân viên hay thân chủ.
- Xác định thời gian, lịch trình thực hiện bằng khi nào? Bao lâu?
Bước 5: Trị liệu
Là quá trình nhân viên xã hội cùng đối tượng thực thi các hoạt động cụ
thể có thể đi đến mục tiêu đặt ra. Đó là sự giải tỏa hay giải quyết một số vấn
đề trước mắt và điều chỉnh sự khó khăn với sự chấp nhận và tham gia của
thân chủ. Nhiều trường hợp mục tiêu chỉ là giữ cho tình hình không trở nên
xấu hơn thông qua các hỗ trợ về vật chất và tâm lý.
Bước 6: Lượng giá
Là việc xem xét lại toàn bộ những bộ phận trong tiến trình công tác xã hội
cá nhân để thẩm định kết quả. Lượng giá là một hoạt động liên tục, đồng thời
dù cho là một bộ phận của tiến trình của công tác xã hội cá nhân và chỉ tìm
được mục tiêu và biểu hiện đầy đủ sau một khoảng thời gian hoạt động.
Khi các cuộc lượng giá định kì cho thấy có sự tiến bộ hoawch không thay
đổi thì tiếp tục điều trị và người lại là phải thay đổi phương pháp trị liệu.
- Nếu kết quả cho thấy chiều hướng xấu thì xác định mức độ đến đâu từ
đó thay đổi hoặc bổ sung kế hoạch trị liệu.
- Nếu kết quả cho thấy tích cực có sự thay đổi tiến bộ của thân chủ thì
nhân viên xã hội chủ động giảm dần vai trò tạo điều kiện giúp thân chủ tang
tính độc lập trong việc thực hiên kế hoạch trị liệu.
Kết thúc quá trình trị liệu là khi vấn đề của thân chủ đã được giải quyết
hoặc sự hiện diện của nhân viên xã hội không còn cần thiết hoặc không thay
đổi được vấn đề.
10
Bước 7: Kết thúc
Kết thúc là chấm dứt mối quan hệ giữa nhân viên xã hội với thân chủ
thường là khi nhân viên xã hội hoàn thành nhiệm vụ giúp thân chủ giải quyết
vấn đề hoặc là chuyển ca sang một cơ quan hoặc nhân viên xã hội khác giải
quyết và sự hiện điện của nhân viên xã hội là không còn cần thiết.
•
-
Việc kết thúc ca dựa trên:
Nhu cầu và quyền lợi của thân chủ.
Không kéo dài vì ý tưởng chủ quan của thân chủ.
Không kết thúc vì sự duy ý chí của nhân viên xã hội.
Trước khi kết thúc cần nới lỏng quan hệ.
1.2. Phụ nữ nghèo đơn thân
1.2.1. Khái niệm
Phụ nữ nghèo đơn thân là đối tượng trong tình trạng ly thân, ly hôn hoặc
là những bà mẹ tự túc (có con nhưng chưa kết hôn), người nuôi con một
mình, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ
thường bị cản trở trong việc gia nhập thị trường lao động hay tìm kiếm việc
làm vì phải chăm sóc con cái.
( Theo tạp chí “ Tiếp thị và gia đình”)
1.2.2.Đặc điểm
Phụ nữ nghèo đơn thân họ là những người ít có cơ hội tiếp cận với khoa
học, công nghệ, tín dụng và đào tạo…không những thế phụ nữ nghèo đơn thân
còn là những người thường gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống gia đình nhất
là trong việc tự quyết định các công việc trong gia đình một cách đơn độc.
Ngoài xã hội thì họ thường là những người dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt
thòi, họ rất ít có cơ hội thăng tiến bản thân đặc biệt họ thường được trả công lao
động thấp hơn so với nam giới kể cả cùng loại công việc với mức độ và cường
độ làm việc bằng với nam giới. Bên cạnh thiếu hụt về kinh tế, nhiều phụ nữ
nghèo đơn thân hầu như không có cơ hội để nâng cao trình độ bản thân, nên
cũng gặp nhiều khó khăn trong việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái; và hiện nay
thiếu nhà ở ổn định là một trong những thiếu hụt điển hình về nhu cầu cơ bản.
11
1.2.3.Nhu cầu
Phụ nữ nghèo đơn thân họ mong muốn tìm kiếm được một công việc ổn
định. Họ muốn mở rộng mối quan hệ, quan tâm chia sẻ nhưng lại ngại tiếp
xúc. Ngoài xã hội thì họ muốn được tôn trọng, muốn có cơ hội để được thăng
tiến, muốn được mọi người quan tâm đến mình.
1.3. Tổng quan về xã Bình Hải, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý:
+ Xã Bình Hải là một xã vùng đồng bằng ven biển nằm về phía Đông Nam
của huyện Thăng Bình, cách trung tâm hành chính huyện Thăng Bình khoảng
15 km về phía Đông Nam.
+ Phía Đông giáp với biển Đông
+ Phía Tây giáp xã Bình Sa
+ Phía Bắc giáp xã Bình Đào, Bình Minh
+ Phía Nam giáp xã Bình Nam
+ Diện tích tự nhiên: 1.251,24 ha , có 06 thôn gồm:
+ Thôn Phước An 1: 255,2 ha
+ Thôn Phước An 2: 240,7 ha
+ Thôn Hiệp Hưng: 228,19 ha
+ Thôn Đồng Trì: 204,27 ha
+ Thôn An Thuyên: 97,09 ha
+ Thôn Kỳ Trân: 225,79 ha
-Địa hình:
Địa hình nhiều gò đồi, địa hình trũng nhất là 0,5m thuộc thôn Phước An
1, thôn Phước An 2, thường dễ bị ngập úng vào mùa mưa. Dọc theo địa hình
về phía Tây Nam của xã có con sông Trường Giang với lưu lượng nước khá
lớn là tiềm năng phát triển của xã.
-Địa hình đồi gò: Chiếm 27% diện tích tự nhiên, phân bổ phổ biến trên
toàn xã trải dài dọc theo xã từ Bắc xuống Nam. Do hiện tượng xói mòn, rửa
trôi đất xảy ra mạnh làm cho đất bị bạc màu, một số khu thích hợp phát triển
lâm nghiệp.
12
Bảng 1. Hiện trạng sử dụng đất
Hiện trạng năm
Tỷ lệ % so
2012
với đất tự
(ha)
nhiên
Khoản mục
Diện tích tự nhiên
1.251,24
1. Diện tích đất nông nghiệp
759,63
60,71%
a. Đất sản xuất nông nghiệp
282,05
22,54%
- Đất trồng cây hằng năm
264,86
21,16%
+ Đất trồng lúa
213,61
17,07%
+ Đất cây hằng năm khác
51,25
4,09%
- Đất trồng cây lâu năm
17,19
1,37%
b. Đất nuôi trồng thuỷ sản
96,15
7,68%
c. Đất lâm nghiệp
381,43
30,48%
2. Đất phi nông nghiệp
410,61
32,81%
- Đất ở
95,53
7,63%
- Đất chuyên dung
96,12
7,68%
+ Đất cho SX công nghiệp, tiểu 0,06
Ghi chú
0
thủ CN
+ Đất công cộng
95,88
7,66%
+ Đất trụ sở cơ quan
0,18
0,01%
- Đất tôn giáo tín ngưỡng
3,05
0,24%
- Đất nghĩa trang nghĩa địa
70,58
5,64%
- Đất sông suối và mặt nước 145,33
11,61%
chuyên dung
3. Đất chưa sử dụng
81
6,47%
Khí hậu:
Theo tài liệu quan trắc của Đài khí tượng thủy văn Quảng Nam, các yếu
tố khí hậu thời tiết khu vực như sau:
25,80 C
+ Nhiệt độ trung bình hằng năm:
+ Lượng mưa trung bình hằng năm
:
2.015 mm
+ Lượng bốc hơi trung bình hằng năm:
1.160 mm
13
+ Độ ẩm không khí trung bình
:
80 %
+ Các hướng gió chính: Gió mùa đông bắc và gió tây nam, đông nam.
+ Mang đặc điểm chung: Chế độ khí hậu rất thích nghi với nhiều loại
cây trồng, con vật nuôi vùng nhiệt đới; Tuy nhiên lượng mưa lượng nhiệt
phân bổ không đều theo mùa gây trở ngại rất lớn trong việc bố trí sản xuất.
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.3.2.1. Dân số
- Dân số toàn xã tính đến ngày 30/11/2012 là 6.155 nhân khẩu, tổng số 1.708
hộ gia đình (bao gồm cả hộ đăng ký tạm trú trên 6 tháng), mật độ dân số bình
quân 492 người/km2.
- Về số hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và nuôi trồng thủy sản: 1.195 hộ,
chiếm 70% tổng số hộ. Đặc điểm: Các hộ này không còn sản xuất thuần nông
mà kết hợp các ngành nghề khác như: Buôn bán nhỏ, làm công nhân.
- Tổng số gia đình trong toàn xã là 1.708 hộ gia đình, số gia đình có phụ nữ
đơn thân làm chủ hộ là 200 hộ ( kể cả gia đình chồng mất).
1.3.2.2. Lao động
-Tổng số người trong độ tuổi lao động là 3.112 LĐ, trong đó số người còn
khả năng lao động là 3.019 người, còn 93 người mất sức lao động do đau ốm,
bệnh tật chiếm 2,99%. Lao động nông, ngư nghiệp 2.945 người chiếm
94,63%, còn lại lao động trong các lĩnh vực thương mại - dịch vụ, TTCN và
ngành nghề khác chiếm 2,38%. Nhìn chung những năm qua mức độ chuyển
dịch cơ cấu lao động còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ
cao. Qua số liệu trên, ta thấy số hộ dân của xã sống bằng nghề nông nghiệp
còn khá cao, diện tích bình quân cho 1 lao động nông nghiệp là 0.13 ha/lao
động.
+ Nhân khẩu nông, ngư nghiệp: 6.007 người, ứng với 1.667 hộ;
+ Nhân khẩu phi nông nghiệp: 148 người, ứng với 41 hộ.
Tổng số hộ 1.708 hộ, 6.155 khẩu, trong đó lao động trong độ tuổi là
3.112 người (Nam: 1.570 người, nữ: 1.542 người)
14
-Là địa phương có số lao động tương đối dồi dào, song do địa bàn của xã sản
xuất nông nghiệp còn nhiều khó khăn, không chủ động nước, tiến độ phát
triển kinh tế của địa phương chậm, đời sống nhân dân còn nghèo nên đa số
lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Vài năm gần đây được Nhà nước đầu tư
xây dựng 02 ao gom nước nhĩ, kênh mương nội đồng, nạo véc và nâng cấp ao
đìa, hàn gắn các đoạn đê ngăn mặn bị hư hỏng, xuống cấp, tập huấn chuyển
giao khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản, đầu tư con, giống có hiệu
quả nên ngành nông nghiệp có nhiều bước phát triển đáng kể, cộng vào đó,
đất đai dồi dào, lao động đảm bảo, nhân dân có truyền thống cần cù lao động,
đặc biệt là có Nghị quyết 26 của BCH Trung ương khóa X về Nông nghiệp Nông dân - Nông thôn, chắc chắn xã nhà sẽ phát triển tốt trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trong thời gian đến.
1.3.2.3.Tiềm năng của địa phương trong phát triển kinh tế xã hội
Địa phương có tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp, đánh bắt
nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi kinh tế hộ gia đình. Với nguồn nhân lực đã qua
đào tạo (Cao đẳng, Đại học) 193 người đã và đang làm việc tại những địa
phương trên mọi miền tổ quốc, với tình yêu quê hương và văn hóa lá rụng về
cội là một tiềm năng lớn của địa phương khi biết khai thác và có cơ chế
khuyến khích tập trung trí tuệ, nhân, lực để những người con về phục vụ quê
hương.
Hạ tầng kinh tế - xã hội địa phương tương đối ổn định, giao thông, thủy
lợi trường học và các dịch vụ công cộng ngày càng phát triển cùng với tinh
thần đoàn kết gắn bó, sẽ chia trong nhân dân luôn được phát huy và giữ vững
là những động lực, nền tảng để phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.
15
CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN VỚI PHỤ
NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN TẠI XÃ BÌNH HẢI - HUYỆN THĂNG
BÌNH TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Mô tả trường hợp
Mỗi khóa học ngành CTXH- trường Đại học sư phạm Quảng Nam chúng
tôi đều có một chuyến đi thực tập cuối khóa nhằm áp dụng những kiến thức
đã học ở trên lớp vào thực tế. Nhóm sinh viên K12 chúng tôi năm nay được
thực tập theo địa điểm tự chọn. Và tôi quyết định thực tập tại địa phương nơi
tôi đang sinh sống- xã Bình Hải huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Vào
những ngày đầu khi đến cơ quan thực tập tôi đã được các Ban ngành, đoàn thể
giới thiệu về trường hợp của chị Nguyễn Thị Lài – một phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con nhỏ luôn chật vật, mặc cảm với cuộc sống hiện tại. Tôi đã gặp
và nghĩ về người phụ nữ ấy, tôi không thể tin chị lại vượt qua những đau khổ,
một mình nuôi con như thế nào? Tôi quyết định sẽ tiếp cận chị Lài không chỉ
vì tôi lo lắng cho chị mà còn bởi khi thấy chị tôi cảm nhận được sự chịu
thương chịu khó, nét buồn sâu thẳm trong chị.
2.2. Lý thuyết tiếp cận
2.2.1 Lý thuyết phân tầng của Karl Marx và Max Weber
Xã hội học hiện đại, kể cả xã hội học hiện đại phương Tây nói chung
đều thừa nhận có hai ông tổ của lý thuyết phân tầng xã hội - đó là Karl Marx
và Max Weber. Bởi lý thuyết của ông tổng hợp lại đã cung cấp cho người ta
những nhận thức rất cơ bản về tiền đề và điều kiện (hay những nhân tố về
16
kinh tế, chính trị, văn hóa) dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp và
tầng lớp khác nhau.
a. Lý thuyết phân tầng xã hội của Karl Marx (1818- 1883)
Karl Marx là nhà triết học và kinh tế học Đức, nhà lý luận của phong
trào công nhân thế giới, nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa cộng sản khoa học.
Theo tập thể các tác giả cuốn Nhập môn xã hội học (Tony Bilton và
cộng sự) - một cuốn sách giáo khoa tốt nhất, tổng hợp nhất và có giá trị nổi
bật, thì “Marx đã cung cấp cho xã hội học và chính trị học hiện đại một trong
những tiếp cận lý thuyết phân tầng bao quát mạnh mẽ nhất. Cũng lúc đó, cách
giải thích về xã hội của ông là một cách giải thích bị tranh luận gay gắt nhất
trong mọi học thuyết xã hội, bởi vì nó không chỉ là lý thuyết xã hội học, mà
cũng là một triết lý về con người và mộ cương lĩnh cho sự thay đổi cách mạng
trong xã hội…Các nhà xã hội học khác nhau đã chấp nhận những quan điểm
khác nhau đó, những người khác thì ở lưng chừng, nhưng điều chắc chắn là
bất cứ lý thuyết phân tầng nào đều vay mượn của Marx cách lý giải về giai
cấp…. Với Marx mối quan hệ giai cấp là chìa khóa mọi mặt của xã
hội”[43,56].
Marx cho rằng, sản xuất của cải vật chất là hoạt động trước tiên của
con người và nó phải đến trước mọi hoạt động khác. Chừng nào mà xã hội có
thể sản xuất nhiều hơn nhu cầu tối thiểu để sinh sống thì giai cấp mới có thể
xuất hiện. Bất cứ xã hội có giai cấp nào đều xây dựng trên mối quan hệ giữa
những người bóc lột - kẻ bị bóc lột.
Lịch sử xã hội “văn minh” theo Marx là lịch sử của những hình thức
khác nhau về sự bóc lột và thống trị giai cấp. Theo ông: “Mọi xã hội đều bao
hàm sự bóc lột giai cấp trên cơ sở những quan hệ sản xuất, chính cái này mà
Marx gọi là phương thức sản xuất. Chìa khóa để tìm hiểu một xã hội nhất
định là khám phá ra trong đó phương thức sản xuất nào chiếm ưu thế. Tiếp đó
chúng ta biết được mô hình cơ bản của những mối quan hệ xã hội và chính trị
17
và có thể đánh ra xung đột và những tiềm năng thay đổi nào đã được gắn bó
với xã hội” [43,57].
Thật ra, Marx không đưa ra một chỉ dẫn riêng về các nhân tố dẫn đến
phân tầng xã hội, nhưng qua tác phẩm tiêu biểu của ông - từ Bản thảo kinh tếtriết học 1844 đến Tuyên ngôn Cộng sản, từ Phê phán khoa học chính trị kinh
tế đến bộ Tư bản đồ sộ, ta có thể thấy trong quan niệm của Marx, sự phân
chia cốt yếu giữa các giai cấp trong một xã hội nhất định đều bắt nguồn từ
quyền sở hữu tài sản đối với các phương tiện sản xuất.
Trong xã hội phong kiến, lãnh chúa có quyền thu lấy toàn bộ tài sản
thặng dư do nông dân sản xuất ra trên mảnh đất thuộc quyền sở hữu của lãnh
chúa. Trong xã hội tư bản, nhà tư bản có quyền chỉ huy lao động và chiếm
hữu phần thặng dư do công nhân tạo ra. Theo Marx, nhà tư sản có quyền đó
“Không phải nhờ những phẩm chất cá nhân hay những phẩm chất con người
của hắn, mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản [14, 89].
Như vậy, nêu bật nhân tố hàng đầu của phân tầng xã hội là quyền sở
hữu tài sản Marx (và cả F. Engel) còn lưu ý đến yếu tố phân công lao động xã
hội mà bản thân nhân tố này lại có mối quan hệ tác động qua lại với lực lượng
sản xuất xã hội và do đó với quyền sở hữu tài sản.
Điều đó giải thích tại sao trong khi phân tích hai giai cấp chủ yếu
trong xã hội là tư sản vô sản vào thời đại của mình, ông không hề bỏ qua các
giai tầng xã hội khác như: giai cấp nông dân, giai cấp địa chủ, những người
sản xuất nhỏ, tầng lớp tăng lữ, tầng lớp tri thức xuất thân từ các giai cấp khác
nhau; tầng lớp công nhân “quý tộc”, tầng lớp vô sản “lưu manh” trong bản
thân giai cấp công nhân…[43, 108].
b. Lý thuyết phân tầng xã hội của Marx Weber (1864- 1992)
Marx Weber là kinh tế học, nhà sử học đặc biệt ông còn được tôn vinh
là một nhà xã hội học bách khoa toàn thư.
18
Marx Weber cũng là một người Đức nhưng thuộc thế hệ hậu sinh của
Marx, ông đã đưa ra lý thuyết phân tầng của mình, trong đó vừa có điểm “vay
mượn” của Marx vừa có những điểm phát triển thêm.
Ý kiến của Weber khác với Marx theo nhiều cách. Ông bác bỏ mục
đích và chính sách của các nhà xã hội chủ nghĩa Đức vì coi chủ nghĩa cộng
sản là một Utopia không thể đạt tới. Bao quát hơn, ông bác bỏ ý kiến cho rằng
các nhà xã hội học có thể khái quát hóa các cấu trúc xã hội bằng cách sử dụng
sự phân tích các phương thức sản xuất. Với Weber, mỗi xã hội về mặt lịch sử,
đều độc nhất và phức tạp.
Mặc dù không tán thành mục tiêu chính trị của Marx, hơn nữa ông
còn phê phán, bác bỏ quan niệm của Marx cho rằng những quan hệ kinh tế
luôn luôn là yếu tố giải thích cấu trúc xã hội và động lực đầu tiên của sự thay
đổi xã hội. Ông tin rằng những tư tưởng tôn giáo có một ảnh hưởng độc về
mặt lịch sử và rằng lĩnh vực chính trị thường là lực lượng kiểm soát cốt yếu
trong những thay đổi xã hội song khi bàn đến cơ cấu xã hội dưới chủ nghĩa tư
bản, Weber cũng phải thừa nhận rằng chính những quan hệ kinh tế đã tạo nên
cơ sở của sự bất bình đẳng, tức là tạo tiền đề và điều kiện cho sự phân chia xã
hội thành các giai cấp khác nhau. Chỉ có điều “Weber nhấn mạnh tầm quan
trọng của thị trường như là cơ sở kinh tế cho giai cấp hơn là tài sản. Với ông
nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản là khả năng thị
trường - đấy là những kỹ năng mà người làm thuê mang ra thị trường lao
động. Những khác biệt trong phần thưởng giữa các nghề nghiệp kết quả từ kỹ
năng hiếm hoi mà nhóm nghề nghiệp cần giữ. Nếu kỹ năng được quá cầu thì
tiền thưởng sẽ cao” [43, 65]. Và người có điều kiện để thuê những kỹ năng ấy
không ai khác ngoài những người nắm giữ, sở hữu tài sản trong tay.
Weber còn đưa ra khái niệm “cơ may đời sống”, thuật ngữ này dùng
để chỉ tất cả các phần thưởng và lợi thế nào do khả năng thị trường đem đến.
Những cơ may đời sống bao gồm thu nhập, bảo hiểm, phụ cấp,… Bởi vậy,
19
chúng ta có thể phân biệt những nhóm có khả năng thị trường tương tự và
những nhóm này có thể gọi là giai cấp.
Như vậy, chúng ta có thể thấy chúng ta có thể thấy rằng Weber đồng ý
với Marx là những nét kinh tế cốt yếu của chủ nghĩa tư bản là quyền sở hữu
các phương tiện sản xuất và những thị trường cho hàng hóa và lao động. Sự
khác biệt cốt yếu là Marx nhấn mạnh yếu tố kinh tế còn Weber nhấn mạnh
yếu tố phi kinh tế.
Nếu có những điểm mới trong lý thuyết phân tầng của Weber thì những
điểm đó được thể hiện chủ yếu trong tiểu luận “Giai cấp, địa vị và đảng”. Ở tác
phẩm này, Weber cho rằng sự bất bình đẳng trong xã hội có thể không dựa trên
cơ sở những mối quan hệ kinh tế, nhưng lại dựa trên uy tín hay quyền lực chính
trực được huy động thông qua một đảng. Ngoài ra, theo Weber, trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường, giai cấp lao động có thể phân chia thành từng tầng
lớp: có kỹ năng, bán kỹ năng và không có kỹ năng, mà các kỹ năng này thực
chất là trình độ học vấn và tay nghề - lại đưa đến sự khác biệt về cơ may đời
sống thể hiện ở mức thu nhập, phụ cấp, tiền thưởng…
Tuy nhiên, khi đánh giá học thuyết của Weber thì có một số vấn đề
trong sự giải thích của ông: không thể có tiêu chuẩn để phân chia lực lượng –
lao động thành giai cấp và phân tầng. Nói một cách khác, sự phân tích của
Weber về khả năng thị trường sẽ đặt mỗi cá nhân vào một giai cấp riêng rẽ.
Một cách quan trọng hơn, những tiếp cận của Weber có xu hướng tập trung
vào công việc, coi nhẹ của cải như một yếu tố cốt yếu trong cấu trúc giai cấp.
Từ các lý thuyết phân tầng của Marx và Weber, xã hội học hiện đại đã
rút ra ba nhân tố cơ bản dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp và
tầng lớp là: Sở hữu tài sản; trí tuệ; quyền lực.
Như vậy, cả Marx và Weber đều coi xã hội phương Tây là xã hội tư
bản và cả hai đều thống nhất là những nét phân biệt cốt yếu của điều đó là sự
sở hữu tư nhân về các tài sản sản xuất và một thị trường lao động. Chính vì lẽ
đó mà tập thể tác giả cuốn nhập môn xã hội học đã đưa ra kết luận rằng những
20
tư tưởng của Marx và Weber có thể phối hợp một phần để tạo nên mô hình ba
giai cấp chính trong xã hội tư bản hiện đại. Tầng lớp trên ít ỏi gồm những ai
nắm được tư liệu sản xuất. Giai cấp này trùng với giai cấp tư sản của Marx.
Tuy nhiên, những người không sở hữu các tài sản sản xuất không thể được mô
tả tất thảy như là vô sản. Người nghèo theo lý thuyết phân tầng không chỉ bị rơi
xuống tầng đáy của thang bậc phân tầng xã hội mà gần như ở ngoài lề của hệ
thống thứ bậc đó. Lớp nghèo bị coi là giai cấp dưới trong hệ thống phân tầng,
có địa vị xã hội thấp kém, không có quyền lực, uy tín, không sở hữu của cải và
ở bên lề thị trường lao động.
Trong phạm vi nghiên cứu này sẽ vận dụng lý thuyết phân tầng của K.
Marx và M.Weber về quyền sở hữu tài sản, phân công lao động, khả năng thị
trường lao động, cơ may đời sống, uy tín xã hội… để phân tích và thấy rõ
những đặc trưng của người nghèo từ đó đưa ra các giải pháp tích cực để xây
dụng mô hình giảm nghèo hiệu quả, nhanh chóng rút ngắn ranh giới của sự
giàu - nghèo trong xã hội, hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội bởi mỗi
người trong xã hội đều có những vai trò, những vị thế nhất định.
2.2.2 Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Abraham Maslow (1908 - 1970) là nhà tâm lý học người Mỹ. Ông
được thế giới biết đến như là người tiên phong cho trường phái tâm lý học
nhân văn (Humanistic psychology) - một trường phái nhấn mạnh những giá
trị, sự tự do, sáng tạo, khuynh hướng tự chủ, những kinh nghiệm của con
người - bởi hệ thống lý thuyết về thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của
con người.
Ông cho rằng, con người cần được đáp ứng những nhu cầu cơ bản để
tồn tại và phát triển đó là nhu cầu thể chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu tình cảm
xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được hoàn thiện. Các nhu cầu này
được sắp xếp theo thứ tự thang bậc từ nhu cầu cơ bản nhất, có vị trí nền tảng
nhất đến nhu cầu cao hơn. Vì vậy, lý thuyết nhu cầu còn được gọi là bậc thang
nhu cầu. Trong cách tiếp cận của ông con người thường có xu hướng thỏa
21
mãn trước tiên những nhu cầu quan trọng nhất ở vị trí bậc thang đầu tiên rồi
sau đó mới hướng tới thỏa mãn những nhu cầu cao hơn.
Có thể mô hình hóa bậc thang nhu cầu của A. Maslow như sau:
nn
Nhu cầu
hoàn thiện
Nhu
cầucầu
Nhu
được
tôn
trọng
được tôn
trọng
Nhu
cầucầu
xãxã
hộihội
Nhu
Nhu
cầu
anan
toàn
Nhu
cầu
toàn
Nhu
cầucầu
vậtvật
chất
Nhu
chất
Nhu cầu thể chất sinh lý:
Đó là nhu cầu về thức ăn, nước uống, không khí, tình dục… Ông cho
rằng đây là những nhu cầu cơ bản nhất để con người có thể tồn tại và duy trì
sự sống của bản thân vì vậy nó là một nhu cầu cần được đáp ứng trước tiên.
Nhu cầu về an toàn:
Con người cần có một môi trường sống an toàn, đảm bảo về an ninh
để tính mạng của họ được đảm bảo. Họ có nhu cầu tránh sự nguy hiểm, đe
dọa từ môi trường không ổn định và đầy nỗi sợ hãi.
Nhu cầu tình cảm xã hội:
22
Đây là nhu cầu thuộc về nhóm xã hội của con người, là sự mong muốn
nhận được sự quan tâm của các thành viên trong nhóm xã hội. Con người cần
có gia đình, cần tới trường để học tập và vui chơi trong nhóm bạn bè cùng
lớp, cần được tham gia vào nhiều nhóm trong xã hội. Trong các nhóm xã hội
thì gia đình là nhóm xã hội đặc thù, cơ bản nhất của con người.
Nhu cầu được tôn trọng
Khi con người bắt đầu thỏa mãn nhu cầu được chấp nhận là thành
viên trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng và muốn được người khác tôn
trọng, họ cần được bình đẳng, được lắng nghe và không bị coi thường, dù họ
là ai, trẻ em hay người tàn tật, người giàu hay người nghèo.
Nhu cầu hoàn thiện
Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp của ông.
Đó là nhu cầu được đến trường, được nghiên cứu, lao động sáng tạo…để phát
triển một cách toàn diện.
Dựa trên thang nhu cầu của Maslow, NVCTXH áp dụng vào đề tài
nhằm xác định, đánh giá những nhu cầu thực tế của thân chủ, để xem họ đang
ở bậc thang nhu cầu nào từ đó có biện pháp can thiệp phù hợp, kịp thời, mang
lại hiệu quả cao.
2.3. Tiến trình công tác xã hội các nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã
Bình Hải – huyện Thăng Bình – tỉnh Quảng Nam
2.3.1. Tiếp cận đối tượng
Tiếp xúc với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nhỏ có hoàn cảnh khó khăn
là một vấn đề không hề đơn giản bởi họ luôn có những mặc cảm, tự ti, sống
khép mình, ít giao tiếp với mọi người xung quanh,…Vì vậy, ngay từ đầu
NVCTXH cần phải thật linh hoạt, chân thành để tạo sự tin tưởng với thân chủ.
Được sự giới thiệu của Ban Văn hóa- xã hội xã Bình Hải và Hội Phụ nữ
xã Bình Hải, NVCTXH đã tìm đến gặp gỡ trao đổi với cán bộ phụ nữ thôn
Hiệp Hưng, xã Bình Hải.
23
Mục tiêu của buổi làm việc là nhằm thiết lập mối quan hệ với cán bộ cơ
sở qua đó tìm hiểu một số thông tin về tình hình phụ nữ nghèo đói trên địa
bàn thôn thông qua việc trao đổi trực tiếp với cán bộ phụ nữ xã, thôn và hồ sơ
hộ nghèo lưu trữ tại nhà văn hóa thôn.
Sau khi có được danh sách và một số thông tin về những hộ nghèo do phụ
nữ làm chủ hộ, NVCTXH đặc biệt quan tâm đến chị Nguyễn Thị Lài bởi chị
không chỉ thiếu thốn về vật chất mà thiếu hụt về tình cảm, hơn nữa chị lại
mặc cảm với mọi người xung quanh và mang nỗi lo âu khi đứa con trai duy
nhất của chị lại bị tật nguyền bẩm sinh.
2.3.2. Thu thập thông tin
Từ hồ sơ hộ nghèo tôi thu thập được một số thông tin về thân chủ như
sau:
Tên
Giới tính
Sinh năm
Mối quan hệ
Biến cố
Nguyễn Thị Lài
Hà Văn Hậu
Nữ
5/11/1980
Chủ hộ gia đình(mẹ).
Năm 2006 chồng qua đời.
Nam
15/7/2007
Con.
Sinh ra đã bị tật nguyền, chưa
Năm 2007 chào đón đứa con được gặp mặt bố.
trai ra đời.
Vào ngày 29/ 1/ 2015 NVCTXH đã chủ động tìm đến nhà đối tượng. Sau
đây là mô phỏng buổi gặp gỡ đầu tiên giữa NVCTXH và đối tượng nhằm thiết
lập mối quan hệ thân thiện và cởi mở, lắng nghe và chia sẻ, đồng cảm với
thân chủ.
“ Gia cảnh tôi thì nghèo, con cái thì bị tật nguyền, giờ có làm gì đi nữa thì
cũng nghèo. Tôi cũng chẳng muốn mọi người soi mói về mình”.
“ Chị đừng ngại. Em thực sự đánh giá rất cao nghị lực của chị, có gì buồn
chị cứ tâm sự với em, việc giữ bí mật cho thân chủ là một trong những
nguyên tắc quan trọng của NVCTXH, những gì chị chia sẻ với em, em sẽ giữ
bí mật và không nói cho ai, nếu thực sự cần nói em sẽ xin ý kiến của chị”.
Trong buổi gặp gỡ và trao đổi, làm việc với thân chủ, NVCTXH đã giới
thiệu về bản thân, trình xuất giấy giới thiệu, trình bày với thân chủ về mục
24
đích, nguyên tắc của NVCTXH,…nhằm xây dựng niềm tin với thân chủ, giúp
thân chủ hiểu hơn về CTXH đồng thời giúp thân chủ cởi mở hơn trong việc
giao tiếp và làm việc với NVCTXH. Qua buổi tiếp xúc, trò chuyện đầu tiên
này, NVCTXH cũng nhận thấy thân chủ có phần bi quan trong cuộc sống nên
đã sử dụng kỹ năng khích lệ, đồng cảm nhằm giúp cho thân chủ bớt bi quan
trong cuộc sống và tự ti trong giao tiếp.
Trong buổi trò chuyện này, NVCTXH cũng tranh thủ thu thập một số
thông tin để xác định vấn đề ban đầu thông qua thân chủ.
“ Chị sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuần nông, nghèo bố mẹ mất
sớm. Năm 2005 chị lấy chồng, hai vợ chồng như hai mảnh ghép cuộc đời đều
là những đứa trẻ mồ côi cha mẹ lớn lên trong sự yêu thương của họ hàng.
Chồng chị làm nghề đi câu mực ở biển khơi khoảng 3 tháng mới về nhà một
lần. Năm 2006 khi đang làm việc trên biển thì cơn bão Chan Chu đã đổ bộ
vào biển Đông cướp đi sinh mạng người chồng của chị . Trong khi đó chị
đang mang thai đứa con được 2 tháng. Rồi cũng tới ngày sinh Hậu chỉ có một
mình chị, nhìn đứa con tật nguyền ra đời chị thấy tủi thân. Nhiều lúc chị chỉ
muốn ôm con chết theo chồng cho bớt khổ”.
Sau những buổi vãng gia, thăm và trò chuyện với thân chủ NVCTXH
nhận thấy thân chủ và gia đình đã dành cho mình sự tin cậy và quý mến nhất
định, NVCTXH đã tiến hành thu thập thông tin.
Công việc thu thập thông tin được tiến hành trong suốt quá trình can
thiệp. NVCTXH đã thông qua một số nguồn có thể tiếp cận như thân chủ,
hàng xóm, những người thân, Hội phụ nữ thôn Hiệp Hưng để thu thập thông
tin. Để thu thập được những thông tin cần thiết NVCTXH đã sử dụng nhiều
kỹ năng như: kỹ năng lắng nghe, kỹ năng quan sát, kỹ năng khuyến khích làm
rõ ý, kỹ năng phỏng vấn sâu,… để khai thác và thu thập vấn đề của đối tượng.
2.3.3. Xác định vấn đề
Như vậy bằng kỹ năng thấu cảm, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng cung cấp
thông tin,kỹ năng quan sát,….đồng thời qua quá trình tiếp xúc và trò chuyện
ban đầu NVCTXH nhận thấy thân chủ đang gặp phải một số vấn đề như sau:
25