Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Đảng lãnh đạo xã hội hoá y tế từ năm 1993 đến năm 2015 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.75 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

ĐÀO VĂN PHƯƠNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÃ HỘI HÓA Y TẾ
TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2005
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 03 15

DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Ngô Đăng Tri

Giới thiệu 1 :

Giới thiệu 2 :

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ cấp cơ sở
họp tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
vào hồi:.......giờ.......phút, ngày.......tháng.......năm 2018


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin Thư viện - Đại học Quốc gia Hà Nội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đào Văn Phương (2014), “Xã hội hóa y tế ở nước ta sau gần 30
năm nhìn lại”, Tạp chí lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (5), tr.50-53.
2. Đào Văn Phương (2015), “Đảng lãnh đạo thực hiện xã hội hoá y
tế thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Giáo dục Lý luận (235), tr.56-58.
3. Đào Văn Phương (2018), “Xã hội hóa y tế ở Việt Nam (1993 2015), những kết quả đạt được và giải pháp thúc đẩy”, Tạp chí Lịch sử
Đảng (1), tr.70-73.

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là vấn đề luôn được Đảng Cộng sản
Việt Nam coi trọng trong suốt quá trình phát triển của đất nước. Kể từ khi
tiến hành đường lối đổi mới, cùng với việc đề ra các chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân,
phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, thì lĩnh vực y tế cũng được Đảng quan tâm đặc biệt.
Tuy nhiên, do điều kiện điểm xuất phát quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của đất nước thấp, kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều hậu quả
nặng nề do chiến tranh để lại đã tác động xấu đến sức khỏe nhân dân. Mặt

trái của cơ chế thị trường tạo nên sức ép lớn đối với ngành y tế. Sự phân hoá
giàu nghèo, các tệ nạn xã hội xuất hiện ngày một nhiều và mang tính đa
dạng, phức tạp, gây khó khăn cho việc thực hiện công bằng trong chăm sóc
sức khoẻ. Bên cạnh đó, dân số Việt Nam gia tăng nhanh chóng dẫn đến
những đòi hỏi khách quan về chăm sóc y tế. Sự phát triển của khoa học
công nghệ trong lĩnh vực y học, cơ cấu bệnh tật có nhiều thay đổi dẫn đến
chi phí khám, chữa bệnh ngày càng cao trong khi đất nước chưa ra khỏi
khủng hoảng. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực y tế thấp, khu vực y
tế nhà nước ngày càng tỏ rõ những bất cập trong việc đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh của nhân dân cả về số lượng, lẫn chất lượng. Điều đó đặt
ngành y tế nước nhà đứng trước những thử thách lớn, đòi hỏi phải có một
giải pháp tổng thể nhằm tháo gỡ những khó khăn, xây nền y tế Việt Nam đủ
sức phục vụ sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để giải quyết những khó khăn, thử thách mà nền y tế nước nhà đang
phải đối mặt, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoạch định chủ trương huy động
sự tham gia và đóng góp của các thành phần kinh tế, ngành nghề, cá nhân, tổ
chức xã hội vào công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Hay nói cách khác, đó là xã hội hóa nền y tế.
Chủ trương xã hội hóa y tế lần đầu tiên được đề ra trong Nghị quyết số
04-NQ/HNTW về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ
4


sức khỏe nhân dân ngày 14/01/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Với quan điểm “Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng
và mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền, các
đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng
cốt”, thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" [120, tr.522],

Nghị quyết số 04-NQ/HNTW đã đặt nền móng để Đảng tiếp tục bổ sung,
phát triển chủ trương xã hội hóa y tế trong thời gian tiếp theo nhằm xây dựng
nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng - hiệu quả - phát triển.
Sự nghiệp phát triển hệ thống y tế nói chung, sự nghiệp xã hội hoá y tế
nói riêng luôn dành được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản
lý. Vì thế, từ năm 1993 đến nay, đề tài xã hội hoá y tế đã được đề cập ở rất
nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn tương đối nhỏ lẻ, rời rạc.
Trong các nghiên cứu này, nhiều nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở những
phương thức cụ thể của xã hội hoá y tế, chưa có đề tài nào nghiên cứu về sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xã hội hoá y tế từ khi có chủ trương đến nay.
Với lý do đó, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo xã hội hoá y tế từ
năm 1993 đến năm 2015” làm đề tài luận án Tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề xã hội hóa y tế và sự tổ chức thực hiện từ năm 1993 đến năm 2015;
qua đó nêu lên nhận xét, đánh giá và rút ra những kinh nghiệm góp phần đẩy
mạnh thực hiện xã hội hóa y tế trong thời kỳ mới ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tập, hệ thống hóa nguồn tài liệu, làm rõ tình hình nghiên cứu liên
quan đến đề tài.
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về xã hội hóa y tế ở Việt Nam, các
quan điểm, chủ trương thực hiện xã hội hóa y tế và quá trình chỉ đạo thực
hiện các chủ trương đó của Đảng trong thời kỳ 1993 - 2015.
- Đưa ra một số nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế và đúc rút
những kinh nghiệm lịch sử từ thực tiễn trong quá trình thực hiện chủ trương,
chính sách xã hội hóa y tế của Đảng từ năm 1993 đến năm 2015 để phục vụ
hiện tại.
5



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
đối với công tác xã hội hóa y tế từ năm 1993 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Trong phạm vi khoa học, luận án tập trung nghiên cứu
những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác xã hội hóa y tế từ
năm 1993 đến năm 2015.
Về không gian: Hoạt động lãnh đạo xã hội hoá y tế ở Việt Nam của
Đảng.
Về thời gian: Sự lãnh đạo xã hội hoá y tế của Đảng từ năm 1993 đến năm
2015.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về y tế là cơ sở lý luận và
phương pháp luận để giải quyết đề tài luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử, phương pháp
logíc. Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, đối
chiếu, thống kê, so sánh...Các phương pháp được sử dụng kết hợp ở các
chương để xử lý các sự kiện, con số nhằm làm rõ quá trình lãnh đạo xã hội
hóa y tế của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử ; những ưu điểm, hạn chế, yếu
kém cần khắc phục, nguyên nhân hạn chế, luận giải rút ra những kinh nghiệm
lịch sử có giá trị lý luận và thực tiễn trong quá trình Đảng lãnh đạo xã hội hóa
y tế từ năm 1993 đến năm 2015.
4.2. Nguồn tư liệu

- Nguồn tài liệu đặc biệt quan trọng là các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam về y tế và liên quan đến xã hội hóa y tế.
- Nguồn tài liệu quan trọng tiếp theo trong quá trình nghiên cứu là các
Nghị định, Quyết định, Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư...của Quốc hội, Chính
phủ, Bộ Y tế về xã hội hóa hoạt động y tế. Các báo cáo tổng kết hàng năm
của Bộ Y tế về công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
6


- Công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đề
cập hoặc liên quan đến đề tài được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí. Kết
quả nghiên cứu, tổng hợp của các đề tài khoa học có liên quan đã được xã hội
hóa.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Về khoa học
- Khái quát, hệ thống hóa chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xã hội hóa y tế qua hai giai đoạn 1993 - 2005; 2006 - 2015.
- Phục dựng lại một cách khách quan thực tiễn công tác xã hội hóa y tế
dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm 1993 - 2015
với ưu điểm, hạn chế, rút ra những kinh nghiệm lịch sử.
5.2. Về thực tiễn
- Luận án cung cấp hệ thống tư liệu lịch sử liên quan đến đề tài Đảng
lãnh đạo xã hội hóa y tế, góp phần làm phong phú hệ thống tư liệu về xã hội
hóa y tế ở Việt Nam.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, góp phần bổ sung căn cứ lý luận và thực tiễn cho công cuộc đẩy mạnh xã
hội hóa y tế trong giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận án có kết cấu 4 chương.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xã hội hóa y tế từ năm
1993 đến năm 2005
Chương 3: Đảng lãnh đạo đẩy mạnh xã hội hóa y tế từ năm 2006 đến năm
2015
Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xã hội hóa y tế nói chung
* Các công trình của các tác giả nước ngoài:
Khi nghiên cứu về xã hội hóa y tế, các tác giả chủ yếu nghiên cứu về
một mặt, một phương thức nào đó của xã hội hóa y tế. Cụ thể:
Về phương thức phát triển hệ thống y tế tư nhân, tác giả S.Bennett cho
rằng ở các nước đang phát triển do ngân sách nhà nước hạn chế, mức đóng
góp và nhu cầu sử dụng các dịch vụ y tế của nhân dân tăng, y tế nhà nước
không đáp ứng đủ nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, vì vậy phải phát
triển hệ thống y tế tư nhân.
Tác giả Alexander S.Preker và April Harding đã phân tích chi tiết những
căn cứ khoa học để lý giải sự có mặt của nhà nước trong nhiều lĩnh vực của y
tế, đồng thời cũng chỉ ra những hợp lý của khu vực y tế tư nhân trong các hoạt
động khám, chữa bệnh, cung cấp dịch vụ phụ trợ hay các hoạt động chăm sóc
sức khỏe gián tiếp.
Về phương thức thu một phần viện phí, theo tác giả Fei, Zhouhui và
Yuanli Liu, hiện nay, bệnh viện Nhà nước của Trung Quốc nhận kinh phí từ

ba nguồn chính là từ ngân sách Nhà nước, thu một phần viện phí và lợi
nhuận bán thuốc. Kinh phí hoạt động của các bệnh viện Trung Quốc chủ yếu
dựa vào các nguồn bệnh viện tự tạo như vốn vay, lợi nhuận trong hoạt động
(có được từ viện phí) và vốn góp từ nhân viên.
Tác giả Shanlian Hu chỉ ra rằng phương thức thu một phần viện phí tác
động mạnh tới tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Viện phí thực sự tạo
ra gánh nặng tài chính cho người dân Trung Quốc, đặc biệt là người nghèo,
hạn chế khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ, là
trầm trọng thêm sự chênh lệch về bệnh tật và đói nghèo giữa các nhóm thu
nhập dân cư. Đồng thời viện phí còn tác động mạnh tới tiêu chí hiệu quả của
hệ thống y tế Trung Quốc.
* Các công trình của các tác giả trong nước:
Tác giả Nguyễn Minh Phương cho rằng “Xã hội hóa y tế là quá trình
huy động sự tham gia dưới các hình thức khác nhau của các chủ thể và cộng
đồng xã hội, đồng thời tăng cường cai trò của Nhà nước đối với y tế nhằm
8


nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ và mở rộng đối tượng thụ hưởng
và bảo đảm công bằng xã hội trong đóng góp và thụ hưởng các dịch vụ y tế”.
Tác giả Cao Thị Hà cho rằng “Từ góc độ khoa học kinh tế - chính trị,
xã hội hóa y tế là quá trình liên kết các dịch vụ y tế của nhiều chủ thể, thuộc
nhiều thành phần khác nhau thành một chương trình có tính xã hội. Đáp ứng
nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe đối với mọi tầng lớp nhân dân”.
Tác giả Đặng Thị Lệ Xuân cho rằng dưới góc độ đánh giá chính sách
đang thực hiện ở Việt Nam thì “Xã hội hóa y tế là hoạt động có sự tham gia
bằng các hoạt động và sự đóng góp theo khả năng của mọi thành phần kinh
tế, mọi ngành nghề, cá nhân và tổ chức xã hội vào công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân nhằm đạt kết quả cao nhất, công bằng và hiệu quả”. Sự đóng
góp ở đây là đóng góp sức lực và tài chính, còn sự tham gia là tham gia cung

ứng đầu vào và đầu ra.
Tác giả Đào Văn Dũng cho rằng công tác xã hội hóa y tế là sự phối hợp
liên ngành trong đó ngành y tế giữ vai trò chủ đạo; là sự tham gia của các
đoàn thể quần chúng; sự tham gia và đóng góp nguồn lực của nhân dân dưới
sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp.
Tác giả Cao Thu Hằng với công trình Chính sách xã hội hóa giáo dục
và y tế ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trên cơ sở
phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện
chính sách xã hội hóa giáo dục và y tế, các tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục và y tế
ở Việt Nam hiện nay. Trong lĩnh vực y tế, đó là đẩy nhanh tiến độ thực hiện
lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân, phát triển hệ thống y tế tư nhân…Các giải
pháp có sự thống nhất và tác động lẫn nhau, không thể thực hiện thành công
nếu các giải pháp tách rời riêng rẽ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ là
cơ sở cho việc thực hiện thành công chính sách xã hội hóa y tế ở Việt Nam
hiện nay.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã
hội hóa y tế
Tác giả Nguyễn Minh Phương với công trình Nhận thức về xã hội hóa
giáo dục, y tế ở nước ta hiện nay khẳng định: chủ trương xã hội hoá y tế của
Đảng được thể hiện trong Nghị quyết 04-NQ/HN-TW của Ban chấp hành
Trung ương khoá VII năm 1993. Đảng ta coi “sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ
là trách nhiệm của cộng đồng” với phương châm “nhà nước và nhân dân
9


cùng làm”, đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ, trong đó, y tế nhà
nước là chủ đạo.
Tác giả Phạm Mạnh Hùng với công trình Thành tựu chăm lo phát triển
nguồn lực con người cho rằng Đảng ta nêu rõ quan điểm xã hội hoá y tế như

sau: “Xã hội hoá các hoạt động chăm sóc sức khoẻ gắn với tăng cường đầu tư
của Nhà nước; thực hiện tốt việc trợ giúp chăm sóc và nâng cao sức khoẻ.
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân, mỗi
gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y
tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật. Khuyến khích các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khoẻ”.
1.2. Những kết quả có thể kế thừa và những vấn đề luận án tập
trung giải quyết.
1.2.1. Những kết quả có thể kế thừa
Tổng quan những cuốn sách, bài báo, luận án, các công trình nghiên
cứu về xã hội hóa y tế trên thế giới và ở Việt Nam có thể khẳng định:
Một là, những ấn phẩm của các học giả trên thế giới và Việt Nam
nghiên cứu về xã hội hóa y tế đã đưa ra nhiều phân tích để làm rõ nội hàm
khái niệm xã hội hóa y tế từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Những phân tích
này giúp nghiên cứu sinh có cách nhìn khách quan, đa chiều về xã hội hóa y
tế cũng như tầm quan trọng của việc thực hiện xã hội hóa y tế qua lăng kính
của các học giả.
Hai là, những công trình nghiên cứu có liên quan đến xã hội hóa y tế
ở Việt Nam đã tập trung phân tích thực trạng xã hội hóa y tế của nước ta từ
khi bắt đầu có chủ trương xã hội hóa y tế đến nay thông qua các phương
thức xã hội hóa y tế: thu một phần viện phí, phương thức liên doanh liên kết
và cung ứng dịch vụ theo yêu cầu, phương thức bảo hiểm y tế, phương thức
y tế tư nhân...
Ba là, các công trình nghiên cứu về vấn đề đổi mới cung ứng dịch vụ y
tế, về vai trò của Nhà nước và trách nhiệm của xã hội trong việc cung ứng
dịch vụ y tế đã làm rõ vai trò của Nhà nước với tư cách là đầu tàu đứng ra tổ
chức cung ứng các dịch vụ y tế nhằm xây dựng nền y tế theo hướng công
bằng - hiệu quả, bên cạnh đó các công trình cũng đã khẳng định trách nhiệm
chăm sóc sức khỏe nhân dân không chỉ là của Nhà nước mà còn là trách

nhiệm của cộng đồng xã hội trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kết quả
10


của các công trình này là cơ sở để tác giả nghiên cứu quá trình Đảng đề ra
chủ trương xã hội hóa y tế.
Bốn là, các công trình nghiên cứu về xã hội hóa y tế ở Việt Nam đã
khái quát một vài thành tựu đạt được trong việc thực hiện xã hội hóa y tế thời
gian qua góp phần từng bước làm thay đổi bộ mặt nền y tế nước nhà. Từ đó,
các tác giả đã nêu ra những đề xuất các giải pháp khắc phục những yếu tố còn
hạn chế của xã hội hóa y tế, định hướng mục tiêu phát triển đáp ứng yêu cầu
tình hình mới. Qua cách tiếp cận của các tác giả giúp nghiên cứu sinh có
nhận thức đúng về hoạt động xã hội hóa y tế trên từng phương thức cụ thể kể
từ khi chủ trương này được đề ra.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Kế thừa những thành tựu của các nghiên cứu đi trước, trên cơ sở khai
thác nguồn tư liệu mới, luận án tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ hoàn cảnh lịch sử việc đề ra chủ trương xã
hội hóa y tế của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay sau khi tiến hành đường lối
đổi mới toàn diện đất nước.
Thứ hai, hệ thống hóa chủ trương lãnh đạo xã hội hóa y tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2015.
Thứ ba, làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo thực
hiện xã hội hóa y tế từ năm 1993 đến năm 2015.
Thứ tư, nhận xét những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, rút ra một số
kinh nghiệm chủ yếu từ thực tiễn quá trình lãnh đạo thực hiện xã hội hóa y tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2015 để từ đó có thể đề
ra phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả
của sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong những
năm tiếp theo.

Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÃ HỘI HÓA Y TẾ
TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2005
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng về xã hội hóa y tế
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Về mặt quốc tế, đến cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,
tình hình thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống kinh
tế - chính trị của các quốc gia dân tộc.
11


Cuộc cách mạng khoa học ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống
kinh tế xã hội, nhất là trong sản xuất.
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm
1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ
Xu thế toàn cầu hóa ngày càng tác động sâu sắc đến đời sống các quốc
gia dân tộc.
2.1.2. Chủ trương của Đảng
Đại hội VII của Đảng năm 1991, trong “Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” đã nêu lên tư tưởng: “khai thác mọi tiềm
năng của toàn xã hội tham gia phát triển đất nước”. Năm 1993, Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề xuất chủ trương: “Sự
nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là
trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền, các đoàn thể nhân dân và
các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”. “Huy động lực
lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, đồng
thời xây dựng bộ máy chuyên trách đủ mạnh cho công tác dân số và kế hoạch
hóa gia đình”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định: “Tiếp tục thực hiện các chương
trình mục tiêu về y tế quốc gia...Khuyến khích các thành phần kinh tế tham

gia phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của xã hội....Đổi mới cơ chế, chính sách viện phí; mở rộng y tế
tự nguyện, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Có chính sách hỗ trợ cho người
nghèo được khám, chữa bệnh”.
2.2. Sự chỉ đạo của Đảng
2.2.1. Về phương thức phát triển hệ thống y tế tư nhân
Hệ thống y tế tư nhân ra đời sau khi Đảng đề xuất chủ trương xã hội
hóa y tế. Ngày 30/9/1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh về hành nghề y, dược tư nhân. Trong đó quy định cụ thể về tiêu chuẩn,
điều kiện, hình thức tổ chức hành nghề y, dược tư nhân tại Việt Nam. Đây là
cơ sở pháp lý cao nhất cho việc hoạt động của hệ thống y tế tư nhân và công
tác quản lý nhà nước đối với khu vực này.
Đến giữa thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, sau hơn một thập kỷ ra
đời, hệ thống y tế tư nhân đã có bước phát triển nhanh chóng về quy mô
cũng như chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng
phong phú và đa dạng của nhân dân. Theo Báo cáo hoạt động bệnh viện tư
12


nhân năm 2009 của Bộ Y tế, đến năm 2003, số lượng cơ sở hành nghề y tư
nhân ở Việt Nam là gần 30.000 cơ sở.
2.2.2. Về phương thức phát triển hệ thống bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, nó mang tính nhân
văn sâu sắc. Chính sách BHYT là nhằm chia sẻ của cả cộng đồng với mỗi
thành viên trong xã hội khi họ không may bị ốm đau, bệnh tật, kể cả trong
những trường hợp hiểm nghèo. BHYT góp phần thực hiện công bằng xã hội,
nâng cao chất lượng, hiệu quả trong CSSK. BHYT giúp người dân được tiếp
cận với các dịch vụ CSSK có chất lượng tốt, dựa trên nhu cầu CSSK, có chính
sách trợ giúp người nghèo được KCB khi ốm đau. Bên cạnh đó, thực hiện
BHYT giúp thúc đẩy sự phát triển cơ chế quản lý trong hoạt động CSSK.

Cho đến những năm giữa thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, thực hiện
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng, các cơ quan Nhà nước đã đề ra một loạt
các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển BHYT trong cả nước. Nhờ vậy,
chính sách BHYT đã có nhiều đổi mới, thể hiện rõ nét sự công bằng xã hội
trong lĩnh vực y tế.
2.2.3. Về phương thức thu một phần viện phí, thực hiện liên doanh
liên kết và cung ứng dịch vụ theo nhu cầu ở các cơ sở y tế công lập
* Về phương thức thu một phần viện phí
Viện phí là hình thức chi trả trực tiếp các chi phí khám chữa bệnh tại
thời điểm người bệnh sử dụng dịch vụ y tế hay nói cách khác là khoản phí mà
người bệnh phải trả từ tiền túi của mình khi sử dụng dịch vụ y tế. Phí phải trả
có thể là chi phí khám bệnh, chi phí sử dụng thuốc, vật tư y tế hay các dịch
vụ liên quan đến chẩn đoán và điều trị bệnh. Viện phí thường áp dụng đối với
các dịch vụ khám chữa bệnh vì người dân thường chấp nhận chi trả cho việc
sử dụng thuốc hay các biện pháp chẩn đoán, điều trị trực tiếp đối với họ hơn
là đối với các dịch vụ có tính dự phòng, giáo dục sức khỏe.
Nguồn thu từ viện phí (và BHYT) ngày càng tăng đã hỗ trợ một phần
quan trọng đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của các bệnh viện ở tất cả
các tuyến và hỗ trợ một phần đời sống nhân viên bệnh viện.
* Về phương thức liên doanh liên kết và cung ứng dịch vụ theo nhu cầu
ở các cơ sở y tế công lập
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, khi mà sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước mới bắt đầu được một thời gian ngắn. Nền y tế đối mặt với
nhiều thử thách, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị số 04NQ/HNTW về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức
13


khoẻ nhân dân. Trên cơ sở phân tích tình hình, chỉ ra những bất cập, yếu kém
và sự xuống cấp của công tác CSSK nhân dân, Ban Chấp hành Trung ương đã
đề ra giải pháp là “Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng

làm”, đa dạng hóa các hình thức tổ chức CSSK trong đó y tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo”. Tiếp đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 2010 của Ban Chấp hành Trung ương báo cáo tại Đại hội lần thứ IX của Đảng
cũng đã khẳng định: “Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển
các cơ sở khám, chữa bệnh, CSSK, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội”.
Mặc dù phương thức LDLK và KCB the yêu cầu mới được chính thức
ra đời vào giữa những năm 2000, tuy nhiên thực tế cho thấy các hoạt động
liên doanh, liên kết và KCB theo yêu cầu tại các bệnh viện công đã mang lại
kết quả bước đầu tích cực, đáp ứng nhu cầu cấp thiết về đổi mới trang bị kỹ
thuật y tế, đặc biệt những trang thiết bị kỹ thuật cao, phục vụ kịp thời nhu cầu
KCB của nhân dân trong hoàn cảnh kinh phí Nhà nước chưa cung cấp đủ để
mua sắm các trang thiết bị này.
2.2.4. Về phương thức vận động sự tham gia của cộng đồng, các tổ
chức xã hội và các tổ chức quốc tế thực hiện xã hội hóa y tế
Chủ trương đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ trong đời sống
xã hội và chủ trương hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới của Đảng đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc vận động sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã
hội và các tổ chức quốc tế phát huy vai trò của mình, góp phần thực hiện chủ
trương đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực y tế.
Việc vận động sự đầu tư quốc tế cho y tế trong hơn mười năm đầu tiến
hành xã hội hóa y tế cũng đã đạt được một số kết quả khả quan. Cùng với chủ
trương hội nhập quốc tế, đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho
phát triển đất nước của Đảng, lĩnh vực y tế cũng đã bước đầu thu hút được sự
đầu tư quốc tế. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2005, có 970 dự án
đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký là 6839,8 triệu USD được cấp phép ở
Việt Nam, trong đó lĩnh vực y tế - giáo dục - văn hóa có 24 dự án với 90,7
triệu USD được cấp phép.
Tiểu kết chương 2:
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nền y tế Việt Nam
đứng trước những thách thức rất lớn, các thách thức ấy làm cho ngành y tế
rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng vào cuối những năm 80, đầu những năm

90 của thế kỷ XX. Chính vì vậy, năm 1993, Nghị quyết số 04/NQ-HNTW của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra chủ trương “xã hội hóa y
14


tế” và chỉ rõ “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và
mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và chính quyền, các đoàn
thể nhân dân và các tổ chức xã hội”. Phương châm xã hội hóa y tế là “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”; hình thức tổ chức chăm sóc sức khỏe là đa
dạng, trong đó, y tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; “tận dụng mọi tiềm năng
sẵn có trong nước và mở rộng hợp tác quốc tế”.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, các cơ quan Nhà nước đã đề ra
một loạt các chính sách, giải pháp nhằm thực hiện chủ trương XHH y tế. Sau
hơn một thập kỷ thực hiện chủ trương này (từ năm 1993 đến năm 2005), nền
y tế nước nhà đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các phương thức cơ bản của XHH
y tế bước đầu được hình thành và phát triển. Phương thức y tế tư nhân có sự
phát triển nhanh chóng cả về số lượng cũng như chất lượng đáp ứng nhu cầu
KCB ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân khi mà tình hình kinh tế
- xã hội đất nước đạt được những thành tựu quan trọng trong những năm đầu
của thời kỳ đổi mới. Phương thức BHYT ra đời, phát triển đã trở thành một
trong những biện pháp chính để thực hiện công bằng xã hội trong trong lĩnh
vực CSSK nhân dân. Chính sách thu một phần viện phí, thực hiện LDLK và
KCB theo yêu cầu ra đời cũng đã giải quyết được bài toán khó về kinh phí
hoạt động của các bệnh viện công lập trong điều kiện ngân sách Nhà nước
gặp nhiều khó khăn, hạn hẹp khi phải chi cho nhiều chương trình quốc gia
khác. Bên cạnh đó, công tác vận động sự tham gia đông đảo của cộng đồng,
các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế vào xã hội hóa y tế cũng đã đạt được
những kết quả bước đầu quan trọng, tạo điều kiện để đẩy mạnh chủ trương
XHH y tế của Đảng trong thời gian tiếp theo.
Chương 3

ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HÓA Y TẾ
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015
3.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng về xã hội hóa y tế từ
năm 2006 đến năm 2015
3.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Bước vào giữa những năm 2000, tình hình thế giới và Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc. Thiên niên kỷ mới đã trôi qua được một nửa thập kỷ,
thế giới chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ, quá
trình toàn cầu hóa khởi nguồn từ thập niên tám mươi của thế kỷ trước ngày
càng tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới.
15


Ở trong nước, sau hai mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đị hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời
sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội
ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững.
3.1.2. Chủ trương của Đảng
* Chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X:
Về chủ trương XHH y tế, bản phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của Đại hội X đã chỉ rõ:
Trước hết, là huy động sự tham gia của cộng đồng xã hội đầu tư cho y tế,
kể cả đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, Đảng chủ trương: “Khuyến khích
phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu, kể cả đầu tư nước
ngoài. Bố trí mạng lưới bệnh viện theo địa bàn dân cư tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân khám, chữa bệnh không lệ thuộc vào địa giới hành chính nơi
cư trú. Mở rộng các hình thức dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà, bảo vệ gia

đình, chăm sóc người già cô đơn, người tàn tật”. Chủ trương này tiếp tục tạo
cơ sở cho hệ thống y tế ngoài công lập phát triển mạnh mẽ, góp phần phục vụ
nhu cầu KCB ngày càng đa dạng của các tầng lớp nhân dân.
Đối với phương thức thu một phần viện phíĐảng chủ trương: “Sửa đổi
chế độ viện phí theo nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí khám, chữa bệnh và
chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người bệnh. Nhà
nước trợ giúp một phần hoặc toàn bộ viện phí cho người nghèo và các đối
tượng chính sách chủ yếu thông qua bảo hiểm y tế; thực hiện tốt việc khám,
chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi”
* Chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 - 2020, Đại hội
Đảng lần thứ XI chủ trương “Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất
lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân”. Nội dung cụ thể của định
hướng chiến lược về y tế từ năm 2011 đến năm 2020:
Tập trung phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khỏe và nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư đồng thời đẩy mạnh xã
hội hóa để phát triển nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập; hoàn
16


chỉnh mô hình tổ chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Nâng cao năng lực
của trạm y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh
viện tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Xây dựng thêm một số bệnh viện
chuyên khoa có trình độ cao tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số
vùng. Xây dựng một số cơ sở khám, chữa bệnh có tầm cỡ khu vực. Khuyến
khích các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế thành lập các cơ sở y tế
chuyên khoa có chất lượng cao. Khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện,
đặc biệt là bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Đổi mới cơ chế hoạt
động, nhất là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng tự chủ,
công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh

viện, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế
3.2. Sự chỉ đạo của Đảng
3.2.1. Về phương thức phát triển hệ thống y tế y tế tư nhân
Có thể nói giai đoạn này là giai đoạn mà ở nước ta hệ thống y tế tư
nhân có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng cũng như chất lượng, góp phần
quan trọng vào nhu cầu KCB của nhân dân. Tiếp tục các chủ trương được đề
ra từ những Đại hội trước đó, Đại hội X của Đảng chỉ đạo: “Chú trọng phát
triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các
dịch vụ y tế ngoài công lập”.
Cho đến giữa thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, các cơ sở y tế tư nhân
đã có bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự gia tăng nhanh chóng về số
lượng của các bệnh viện tư nhân. Nếu như năm 2010, cả nước mới chỉ có hơn
100 bệnh viện tư nhân thì đến hết năm 2014 đã có 170 bệnh viện, trong đó có
6 bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài với 9501 giường bệnh chiếm 11% tổng
số các bệnh viện và 4% số giường bệnh, đạt 1 giường bệnh tư nhân/1vạn dân.
3.2.2. Về phương thức phát triển hệ thống bảo hiểm y tế
Đến năm 2015, lĩnh vực BHYT đã đạt được nhiều kết quả, đáp ứng về
cơ bản các yêu cầu đề ra. Cùng với việc mở rộng độ bao phủ dân số có
BHYT, quyền lợi của người có thẻ BHYT cũng được tăng lên.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vấn đề BHYT cũng gặp
những khó khăn nhất định. Từ năm 2008 đến năm 2010, tỷ lệ hộ gia đình chi
cho y tế vượt 40% khả năng chi trả và tỷ lệ hộ bị nghèo hóa do phải chi cho
dịch vụ y tế có giảm rõ rệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2010 đến 2012, gánh
nặng tài chính không giảm nữa.
17


3.2.3. Về phương thức thu một phần viện phí, thực hiện liên doanh
liên kết và cung ứng dịch vụ theo nhu cầu ở các cơ sở y tế công lập
* Về phương thức thu một phần viện phí

Tiếp tục thực hiện chủ trương về thu một phần viện phí để giảm gánh
nặng cho ngân sách nhà nước được đề ra từ các kỳ Đại hội trước đó, Đại hội
lần thứ X của Đảng (năm 2006) chủ trương: “Sửa đổi chế độ viện phí theo
nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí khám, chữa bệnh và chia sẻ hợp lý trách
nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người bệnh. Nhà nước trợ giúp một
phần hoặc toàn bộ viện phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách chủ
yếu thông qua bảo hiểm y tế”.
Việc thu một phần viện phí đã góp phần đẩy mạnh thực hiện chủ trương
xã hội hoá trong y tế, huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân và
giảm bớt sự bao cấp tràn lan trong khám chữa bệnh.
* Về phương thức thực hiện liên doanh liên kết và cung ứng dịch vụ
theo nhu cầu ở các cơ sở y tế công lập
Ngay sau Đại hội X của Đảng, ngày 25/4/2006, Chính phủ ban hành
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ đã cho phép
các bệnh viện cung cấp dịch vụ bệnh viện theo yêu cầu và cũng được phép
huy động vốn, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước để đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động
chuyên môn, sản xuất và cung ứng dịch vụ.
Tuy nhiên, việc cung cấp các dịch vụ này lại đang sử dụng tài sản của
nhà nước là chủ yếu: từ cơ sở hạ tầng như đất đai, nhà cửa.. đến các trang
thiết bị. Đi theo mô hình này là cả một khối tài sản khổng lồ cũng được
chuyển hóa và phương thức hoạt động cũng thay đổi. Những tài sản này là
của công, được đầu tư từ ngân sách nhà nước hay chính là có nguồn gốc từ
túi người dân đã đóng thuế cho nhà nước. Phương thức này sử dụng nguồn
lực công, có đầu tư thêm một chút rồi lại thu lại tiền của chính những người
đã đóng góp lần trước. Sự nhập nhằng tài sản công - tư này đã làm thất thoát
một phần không nhỏ nguồn thu, tài sản của nhà nước.
3.2.4. Về vận động sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã hội và

các tổ chức quốc tế thực hiện xã hội hóa y tế
Nhằm vận động sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã hội...vào sự
nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, Đại hội đại biểu
18


toàn quốc lần thứ X (năm 2006) của Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh phong trào
toàn xã hội, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được
sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về trí tuệ và đạo
đức, giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng...Khuyến khích phát triển các
cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu, kể cả đầu tư nước ngoài...Kết hợp
chặt chẽ các ngành y tế, thể dục thể thao, giáo dục, lực lượng vũ trang, các
đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao
năng lực thể chất và tầm vóc con người Việt Nam, đặc biệt là thiếu niên và
thanh niên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức xã hội, cộng đồng và các tổ chức quốc tế đã phát huy vai trò của
mình góp phần tích cực thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế của Đảng từ
năm 2006 đến năm 2015.
Tiểu kết chương 3:
Thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế của Đảng, trong 12 năm (từ năm
1993 đến năm 2005) nền y tế Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu
quan trọng, tuy nhiên vẫn bộc lộ những hạn chế và bất cập. Đứng trước nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng tăng, trong khi khả năng
đáp ứng của Nhà nước có hạn, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế là
một yêu cầu khách quan. Giai đoạn từ 2006 đến 2015, các kỳ Đại hội lần
thứ X và XI của Đảng đã chủ trương tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa nền y tế
nước nhà.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, các cơ quan Nhà nước tiếp tục đề
ra một loạt chính sách, giải pháp để đẩy mạnh xã hội hóa nền y tế từ năm

2006 đến năm 2015. Trải qua hơn một thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI thực
hiện chủ trương trên, các phương thức của xã hội hóa y tế tiếp tục có những
bước phát triển mới. Phương thức y tế tư nhân tiếp tục có sự phát triển mạnh
mẽ về số lượng cũng như chất lượng góp phần đáng kể phục vụ nhu cầu KCB
của nhân dân; phương thức bảo hiểm y tế, phương thức thu một phần viện
phí, thực hiện liên doanh liên kết và khám chữa bệnh theo nhu cầu, phương
thức vận động sự tham gia của cộng đồng xã hội, các tổ chức quốc tế vào xã
hội hóa y tế đã có bước phát triển mới so với thời kỳ 1993-2005 góp phần
tích cực vào mục tiêu xây dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công
bằng, hiệu quả và phát triển.
19


Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét chung
4.1.1. Về ưu điểm
Một là, Đảng đã nhận thức ngày càng đúng đắn yêu cầu khách quan
phải tiến hành xã hội hóa nền y tế nước nhà
Ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới đất nước, khi mà nền
kinh tế - xã hội đang trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, Đảng vẫn luôn
chú trọng đến các chính sách xã hội. Đối với lĩnh vực y tế, Đảng đã khẳng
định: Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội.
Hai là, Đảng đã từng bước xây dựng được những chủ trương, chính
sách tương đối toàn diện về xã hội hoá y tế theo định hướng công bằng, hiệu
quả và phát triển
Khi mặt trái của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tác
động mạnh đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực y tế,
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh “Nâng cao tính công bằng và
hiệu quả trong tiếp cận sử dụng các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ

nhân dân”.
Ba là, Đảng đã kịp thời xác định các nguồn lực chủ yếu để thực hiện xã
hội hóa y tế
Về nguồn nhân lực cho XHH y tế. Trong công tác chăm sóc sức khỏe,
vấn đề nhân lực đóng vai trò quan trọng vì phục vụ trực tiếp cho con người,
liên quan mật thiết đến sinh mạng con người. D vậy, ngay từ ngày đầu thực
hiện chủ trương XHH y tế, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ tư, khóa VII (năm 1993) đã xác định: “Đào tạo đội ngũ cán bộ y đức và
tinh thần phục vụ, truyền thống “thầy thuốc như mẹ hiền”, bồi dưỡng kiến
thức và kỹ năng phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Về nguồn tài chính cơ bản và cơ chế tài chính cho quá trình thực hiện
chủ trương xã hội hoá y tế. Khi còn thực hiện bao cấp triệt để, chúng ta ít chú
ý tới các khía cạnh thuộc về kinh tế y tế nói chung, và tài chính y tế nói riêng.
Khi nhà nước không còn thực hiện bao cấp triệt để cho y tế thì vấn đề cơ chế
tài chính cho y tế trở thành một trong những vấn đề quan trọng khi hoạch
định chiến lược y tế nhằm mục đích xây dựng nền y tế công bằng, hiệu quả.
Bốn là, thành tựu thực tiễn trong lãnh đạo xã hội hóa y tế của Đảng
Về phương thức phát triển y tế ngoài công lập
20


Sau hơn 20 năm phát triển, mạng lưới cơ sở y tế ngoài công lập đã có
bước phát triển nhanh chóng.
Về phương thức thực hiện liên doanh, liên kết; dịch vụ y tế theo yêu cầu
và thu một phần viền phí:
Kết quả thực hiện liên doanh, liên kết và dịch vụ y tế theo yêu cầu của
các cơ sở y tế công lập: hiện nay việc huy động nguồn lực để đầu tư và phát
triển các cơ sở y tế công lập được thực hiện dưới hình thức liên doanh, liên
kết để đầu tư trang thiết bị y tế và phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh
theo yêu cầu.

Kết quả thu một phần viện phí của các cơ sở y tế công lập:hiện nay, các
bệnh viện công đang thực hiện thu một phần viện phí theo quy định của
Chính phủ từ năm 1994 và thông tư liên bộ, liên tịch năm 1996 và năm 2006.
Về kết quả của phương thức bảo hiểm y tế
Kết quả mà phương thức bảo hiểm đã tạo ra là sự thay đổi về cơ chế,
chính sách tài chính theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng
và phân phối nguồn lực.
Kết quả sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng trong lĩnh vực
y tế:
Kết quả sự tham gia các tổ chức quốc tế, đầu tư từ nước ngoài trong
lĩnh vực y tế. Qua hơn 20 năm thực hiện chủ trương xã hội hóa của Đảng, các
tổ chức quốc tế đã có nhiều dự án đầu tư cũng như những giúp đỡ đối với nền
y tế Việt Nam, điều này giúp:
Tăng cường củng cố mạng lưới cơ sở cấp cơ sở...
Nâng cao chất lượng một số cơ sở khám, chữa bệnh và phát triển các
trung tâm y tế chuyên sâu...
Đào tạo cán bộ ngành y tế...
4.1.2. Về hạn chế
Một là, công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho các tầng lớp nhân
dân, hệ thống cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội nghề nghiệp và các địa phương về chủ trương xã hội hoá y tế còn bị coi
nhẹ. Vì thế, một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, trong các cơ quan Nhà
nước và cộng đồng coi xã hội hoá y tế chỉ là một giải pháp tình thế nhằm huy
động xã hội đóng góp thêm về tài chính khi ngân sách của nhà nước còn eo
hẹp, không thấy chủ trương xã hội hoá là một chủ trương lâu dài, tất yếu để
huy động toàn xã hội tham gia cùng với nhà nước vào sự nghiệp bảo vệ chăm
sóc sức khoẻ nhân dân.
21



Ha là, công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện chủ trương xã
hội hoá y tế nhiều hạn chế
Trước hết, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động kiểm tra, giám sát
trong Đảng với kiểm tra, kiểm soát trong các cơ quan Nhà nước.
Thứ hai, chưa coi trọng sơ kết, tổng kết việc thực hiện chủ trương xã hội
hoá y tế của chính quyền các cấp.
Ba là, trong thực tiễn chỉ đạo xã hội hóa y tế còn nhiều bất cập, yếu kém
Phương thức thực hiện liên doanh, liên kết công và tư còn nhiều hạn
chế: về trang thiết bị y tế còn thiếu các quy định, cơ chế kiểm tra đối với loại
“hàng hóa đặc biệt” này.
Về các cơ sở y tế ngoài công lập. Mặc dù sự tồn tại của y tế tư nhân là
một tất yếu trong giai đoạn hiện nay nhằm phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh
ngày càng đa dạng của nhân dân. Tuy nhiên, phương thức này cũng có những
nhược điểm:
Về viện phí, khác với bảo hiểm y tế, viện phí không mang tính chất chia
sẻ cộng đồng, tự ai người nấy lo món tiền đó trả cho bệnh viện. Nếu không đủ
thì đành chịu thiệt thòi.
Việc triển khai bảo hiểm y tế cũng còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế chưa đầy đủ, tính tuân thủ pháp luật chưa cao
Nguyên nhân của hạn chế
Một là, công tác quán triệt, tuyên truyền về xã hội hoá ở các bộ, ngành,
địa phương chưa thường xuyên và sâu rộng.
Nhận thức về tính tất yếu của xã hội hoá y tế trong điều kiện nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các tầng lớp nhân
dân, cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, thiếu thống nhất trong quan niệm,
bản chất, nội dung, mục tiêu, giải pháp đẩy mạnh xã hội hoá y tế ở nước ta
hiện nay.
Hai là, sự chỉ đạo của cấp lãnh đạo, thủ trưởng các đơn vị về xã hội hoá
y tế chưa quyết liệt. Công tác hướng dẫn kiểm tra, giám sát chưa sâu sát,
thường xuyên. Công tác thanh tra, kiểm tra còn có biểu hiện tiêu cực, bao che

cho các hành vi tiêu cực vì mục tiêu lợi nhuận.
Ba là, sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan với chủ trương xã hội
hoá y tế chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ, còn có quan niệm xã hội hoá y tế là
việc riêng của ngành y tế. Do đó chưa thực sự tạo ra được sức mạnh tổng hợp
của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như cơ quan nhà nước nhằm thực hiện có
hiệu quả chủ trương lớn này của Đảng và Nhà nước
22


Bốn là, việc thu hút nguồn đầu tư từ xã hội cho y tế gặp nhiều khó khăn
do cơ chế, chính sách về vấn đề huy động vốn ngoài ngân sách chưa được
quy định cụ thể, rõ ràng.
4.2. Kinh nghiệm
4.2.1. Hoạch định chủ trương xã hội hóa y tế dựa trên cơ sở kiên trì
thực hiện đường lối y tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với
đổi mới quan điểm về chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới
của Đảng
Quan điểm về chăm sóc sức khoẻ của Đảng không phải là khẩu hiệu mà
là điều kiện tiên quyết để hình thành một chủ trương, chính sách về y tế.
Đảng đã ba lần đề ra quan điểm về sức khoẻ:
4.2.2. Trong chỉ đạo thực hiện xã hội hóa y tế cần phát huy tiềm năng
trí tuệ và vật chất của nhân dân, huy động toàn xã hội tham gia sự nghiệp
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
Phát động những phong trào và những cuộc vận động chăm sóc sức
khoẻ.
Phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp trong hoạt động chăm sóc sức khoẻ.
Tạo môi trường thuận lợi để các thành phần y tế ngoài công lập xuất
hiện và trở thành một bộ phận của ngành y tế gồm y tế tư nhân, y tế hợp tác,
y tế tư bản, y tế tư bản nhà nước…

4.2.3. Thường xuyên chỉ đạo nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước đối với công tác xã hội hóa y tế
Trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay, đối với y tế nói
chung, xã hội hoá y tế nói riêng, Đảng phải coi sự chi phối của thị trường đối
với các dịch vụ y tế là một tất yếu, đồng thời phải thường xuyên nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý và tổ chức cung ứng dịch vụ y tế của Nhà nước là
nhiệm vụ lãnh đạo quan trọng xã hội hoá y tế.
4.2.4. Thực hiện xã hội hoá y tế gắn chặt với đổi mới tổ chức và quản
lý y tế
Trước hết, xã hội hóa y tế phải gắn với đổi mới y tế cơ sở và hoàn thiện
mạng lưới y tế. Hệ thống tổ chức y tế Việt Nam
Hai là, cần coi trọng đổi mới công tác quản lý y tế. Quản lý y tế là quản
lý chuyên ngành, đòi hỏi phải có sự hiểu biết khoa học quản lý nói chung và
những kiến thức đặc thù về quản lý y tế.
23


4.2.5. Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về xã hội hóa y tế
Mặc dù chủ trương xã hội hóa y tế của Đảng đã được thực hiện hơn hai
thập kỷ, tuy nhiên trong thực tiễn chỉ đạo hoạt động này vẫn còn nhiều bất
cập ở một số phương thức. Do đó, việc thường xuyên tiến hành tổng kết công
tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với xã hội hóa y tế sẽ giúp đúc rút được nhiều kinh
nghiệm quý báu cũng như nhìn nhận, đánh giá đúng về những hạn chế, bất
cập của xã hội hóa y tế, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những
ưu điểm cũng như khắc phục những bất cập của chủ trương này. Bên cạnh đó,
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xã hội hóa y tế, cũng cần phải tiếp thu kinh
nghiệm của các nước trên thế giới để phục vụ công tác xã hội hóa y tế ở trong
nước được tốt hơn.
Tiểu kết chương 4:
Chủ trương xã hội hoá y tế của Đảng là một giải pháp chung kịp thời

nhằm khắc phục những thử thách đối với nền y tế trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Khi đất nước thực hiện mô hình nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã định hướng phát triển hệ thống y tế nói
chung, xã hội hoá y tế nói riêng theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển.
Nhờ chủ trương đúng và sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, sau hơn hai mươi
năm thực hiện xã hội hoá y tế, về cơ bản nền y tế nước nhà đã đạt được những
kết quả quan trọng. Các phương thức thực hiện xã hội hoá y tế như hệ thống y
tế ngoài công lập; liên doanh, liên kết, phát triển các dịch vụ theo yêu cầu của
cơ sở y tế công lập; thu một phần viện phí, bảo hiểm y tế đã góp phần tích cực
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế có
chất lượng ngày càng cao.
Tuy nhiên,trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xã hội hóa y tế cũng không
thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập như: việc tuyên truyền, giáo dục nhận
thức về xã hội hoá chưa tốt; trong quản lý và tổ chức thực hiện chủ trương xã
hội hoá y tế còn nhiều hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra của Đảng
đối với việc thực hiện xã hội hoá y tế của Nhà nước, các tổ chức xã hội còn
nhiều khuyết điểm. Sau hơn hai mươi năm thực hiện xã hội hóa y tế, có thể
rút ra một số kinh nghiệm phục vụ cho việc đẩy mạnh xã hội hóa y tế giai
đoạn tiếp theo.

24


KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo xã hội hoá y tế từ năm 1993 đến năm
2015”, có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, kinh tế - xã hội Việt
Nam chưa thoát ra khỏi khủng hoảng, đất nước còn phải đối mặt với vô vàn
khó khăn, thử thách. Hoàn cảnh đó cũng đã đặt nền y tế nước nhà đứng trước
nhiều thách thức lớn. Ngân sách đầu tư cho y tế thấp, lĩnh vực y tế nhà nước

không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chăm sóc sức
khỏe của nhân dân. Để giải quyết những khó khăn, thử thách ấy, Đảng đã ban
hành trương “xã hội hoá y tế” nhằm huy động các nguồn lực từ cộng đồng,
các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Quan điểm của Đảng về xã hội hoá
y tế lần đầu được khẳng định trong Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân của
Ban chấp hành Trung ương Khoá VII ngày 14/1/1993 và được bổ sung, phát
triển qua các nhiệm kỳ đại hội kế tiếp của Đảng trong suốt quá trình đổi mới
đất nước. Trải qua hơn hai mươi năm lãnh đạo xã hội hóa y tế, có thể khẳng
định hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng về xã hội hóa y tế là đúng
đắn, phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, qua đó tạo nền tảng quan trọng cho quá trình lãnh đạo đẩy mạnh xã hội
hóa y tế trong giai đoạn tiếp theo.
2. Đồng thời với việc không ngừng hoàn thiện chủ trương, Đảng luôn
chú trọng nâng cao năng lực chỉ đạo hoạt động xã hội hóa y tế kể từ khi chủ
trương này được ban hành. Từ năm 1993 đến năm 2015, Đảng đã chỉ đạo
triển khai toàn diện, đồng bộ chủ trương xã hội hóa y tế trên phạm vi cả nước
bằng những phương thức cụ thể như: phát triển hệ thống y tế tư nhân, phát
triển hệ thống bảo hiểm y tế, chính sách thu một phần viện phí, thực hiện
LDLK, KCB theo nhu cầu ở các cơ sở y tế công lập... Sự phát triển đa dạng
của những phương thức này kể từ khi ra đời đã tạo nền tảng để Đảng lãnh
đạo đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa nền y tế nước nhà trong thời
gian tiếp theo.
3. Trong suốt hơn hai thập kỷ kể từ khi chủ trương xã hội hóa y tế
được ban hành (từ năm 1993 đến năm 2015), sự lãnh đạo của Đảng về xã
hội hóa y tế đã thể hiện rõ một số ưu điểm quan trọng, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn: Một là, Đảng đã nhận thức ngày càng đúng đắn yêu cầu khách
25



×