Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.04 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
1. Vài nét về tiểu sử và con người Nam Cao...................................................................2
1.1. Tiểu sử..................................................................................................................2
1.2. Con người.............................................................................................................2
2. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao..........................................................................3
3. Sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng 8......................................................6
3.1. Đề tài nông dân, nông thôn trong sáng tác của Nam Cao................................6
3.1.1. Bao quát bức tranh nông thôn qua tác phẩm của Nam Cao.............................6
3.1.2. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ, bần cùng..............................................7
3.1.3. Vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm cao quý hạng người “dưới đáy”.........................9
3.2. Đề tài tiểu tư sản...............................................................................................10
4. Một vài đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao.....................................14
4.1.Nghệ thuật phân tích, miêu tả tâm lí....................................................................14
4.2.Sự hài hào giữa chất triết lí với chất trữ tình........................................................16
5. Kết luận....................................................................................................................... 17

1


1. Vài nét về tiểu sử và con người Nam Cao
1.1. Tiểu sử
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1917 trong một gia đình nông dân
nghèo ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam (cũ),
nay là xã Nhân Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam. Bút danh Nam Cao được ghép từ hai
chữ đầu của tên huyện và tổng.
Trong gia đình nông dân nghèo, đông con, Nam Cao là người duy nhất được học
hành tử tế những tưởng thành chỗ dựa cho mọi người về sau. Nhưng cuộc sống đói nghèo
và bệnh tật đã đeo đuổi Nam Cao từ khi ông còn nhỏ. Năm 1935, sau kì thi Thành chung
bị trượt, Nam cao vào Sài Gòn kiếm sống mang trong mình nhiều ước mơ và dự định lớn
lao. Nhưng bệnh tật vẫn không buông tha Nam Cao, buộc ông phải trở lại quê. Ở Sài Gòn
trở về, Nam Cao tự học lại và thi đỗ Thành chung. Có một thời ông làm giáo khổ trường


tư ở Hà Nội.
Năm 1941, Nhật xâm lược Đông Dương, trường ông phải đóng cửa. Nam Cao thất
nghiệp, chuyển sang viết văn, dạy thuê... Cuối cùng không thể tồn tại được ở chốn đô
thành, Nam Cao đành về quê ăn bám vợ.
Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn như
Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi...
Năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân, sau đó được bầu
làm Chủ tịch xã.
Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến. Ông vừa biên
tập cho báo Cứu quốc Việt Bắc vừa làm cán bộ thông tin tuyên truyền. Năm 1948, ông
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950 tham gia chiến dịch Biên giới.
Tháng 11 – 1951 Nam Cao hi sinh khi đi công tác vào vùng địch hậu.
1.2. Con người
Nói tới Nam Cao, chúng ta nhớ ngay đến một con người có tấm lòng nhân đạo sâu
sắc, có ý thức gắn bó thủy chung với nhân dân, với những người nghèo khổ, trước hết là
những người thân trong gia đình. Về gia đình, ông suốt đời luôn day dứt với cảm nhận
chịu ơn, mắc nợ, mắc tội với những người thân trong gia đình. Đó là bà ngoại ở góa từ
năm 22 tuổi, một đời vất vả nuôi cháu. Đó là người mẹ hiền lành, lam lũ, người vợ chịu
2


thương chịu khó... Hình ảnh những con người ấy nhiều lần trở đi trở lại trong các trang
viết của Nam Cao.
Tình cảm gắn bó với gia đình ở Nam Cao gắn liền cùng tấm lòng ân nghĩa với quê
hương. Lớn lên ở làng quê và nhiều năm về sống ở đó sau bước đường lưu lạc, Nam Cao
hiểu và yêu những người nông dân nghèo khổ. Những con người ấy bề ngoài mộc mạc, có
khi thô lỗ nhưng bên trong lại mang nhiều phẩm chất đáng quý.
Một đặc điểm nổi bật nữa của con người Nam Cao liên quan đến phong cách nghệ
thuật của nhà văn: người trí thức tiểu tư sản này có đời sống tâm hồn không mấy khi bình
lặng, yên ổn. Trong nội tâm Nam Cao thường xuyên diễn ra sự dằn vặt, sự đấu tranh để đè

nén những ham muốn, dục vọng thấp hèn, để vượt mình và vươn tới cuộc sống có ý
nghĩa. Nam Cao là người hay bị hối hận dày vò, luôn luôn có những dằn vặt nội tâm, dám
thành thực và dũng cảm phơi bày mình trên trang giấy. Điều này khiến ông viết nhật kí.
Nhật kí Nam Cao thiên về hướng nội - tự soi xét, tự kiểm điểm dưới ánh sáng của lương
tri, của cái thiện. Cuộc đấu tranh nội tâm phản ánh đậm nét vào phần lớn tác phẩm Nam
Cao viết về đề tài trí thức tiểu tư sản. Các nhân vật trí thức tiểu tư sản của Nam Cao ít khi
có cuộc sống bình thản, khuôn mặt dường như lúc nào cũng cau có, đăm chiêu, day dứt và
hối hận.
2. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
Nam Cao (1915 – 1951) không chỉ là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng
nhân đạo phong phú và sâu sắc, mà còn là nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ và
nhất quán. Quan điểm này tuy không được phát biểu trực tiếp dưới dạng chính luận,
nhưng đã thể hiện rải rác trong các sáng tác của ông.
2.1. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn luôn suy nghĩ về “Sống” và
“Viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu nặng của thứ nghệ thuật lãng mạn thoát li thi vị
hóa hiện thực, ông đã sáng tác những bài thơ, truyện tình tâm lí, dễ dãi. Nhưng vốn là một
nghệ sĩ chân chính, giàu tính thương yêu quần chúng lao khổ, Nam Cao đã sớm nhận ra
thứ văn chương thơm tho đó xa lạ với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nghèo
khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực
chân chính: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh
trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than”. Theo
3


Nam Cao, người cầm bút chân chính không được “trốn tránh” sự thực mà “cứ đứng trong
lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời…”
2.2. Tác phẩm văn học có giá trị không chỉ phản ánh sự thực đời sống mà còn phải
có giá trị nhân đạo sâu sắc: “Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau
đớn, vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho
người gần người hơn…” (Đời thừa).

2.3. Nam Cao coi lao động nghệ thuật là một hoạt đông nghiêm túc, công phu. Đòi
hỏi người cầm bút phải có lương tâm, Nam Cao lên án gay gắt sự cẩu thả trong nghề văn
“Sự cẩu thả bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn
chương thì thật là đê tiện” (Đời thừa).
2.4. Chủ trương văn học phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng
đau khổ của quần chúng, Nam Cao cũng không tán thành loại sáng tác “tả chân”,
hời hợt “Chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”. Ông chủ chương nghệ thuật là một lĩnh
vực hoạt động đòi hỏi khám phá, đào sâu, tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Qua nhân vật
Hộ trong “Đời thừa”, Nam Cao đã khẳng định “Văn chương không cần đến những người
thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho: Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những cái gì chưa có…”
Sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến, Nam Cao say sưa trong mọi công
tác, không nề hà lớn nhỏ với ý nghĩ dứt khoát đặt lợi ích cách mạng, dân tộc lên trên hết.
Kháng chiến bùng nổ, nhà văn “muốn vứt tất cả đi để cầm lấy súng” như một người công
dân yêu nước thật sự. Nam Cao nhủ “sống đã rồi hãy viết” và hăng hái lao mình vào
phục vụ kháng chiến (Phân tích thêm quan điểm nghệ thuật của Nam Cao qua truyện ngắn
Đôi mắt). Trước sau nhà văn vẫn trung thành với một ý nghĩ “góp sức vào việc không
nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”. Đó là một thái
độ đúng đắn, đẹp đẽ nhất của người nghệ sĩ chân chính lúc đó.
* Những quan điểm nghệ thuật
- Lên án văn chương lãng mạn thoát li, thi vị hóa hiện thực, chống lại quan điểm
nghệ thuật vị nghệ thuật, tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thực bộ mặt của đời
sống xã hội.
+ Bộ mặt tàn bạo, thối nát của bọn thống trị (Chí Phèo).
4


+ Đời sống khổ cực lầm than của những người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa,
tuyệt vọng (Chí Phèo, Lão Hạc…).
+ Những tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản nghèo (Trăng sang, Đời

thừa…).
- Tác phẩm của Nam Cao chứa chan tinh thần nhân đạo
+ Các tác phẩm của Nam Cao lên án đanh thép những thủ đoạn bóc lột, những hành vi tội
ác của giai cấp thống trị, những thành kiến tồi tệ của xã hội.
+ Nam Cao bênh vực, khẳng định nhân phẩm của những người lao động ngay cả khi họ
có hình hài xấu xí hoặc bị hủy hoại cả nhân tính lẫn thân hình (Chí Phèo).
+ Ông ca ngợi những tình cảm cao thượng, đẹp đẽ đầy tính vị tha của con người (Trăng
sáng, Đời thừa).
- Nam Cao luôn tìm tòi, khám phá, sang tạo những sản phẩm tinh thần độc đáo cả
về nội dung lẫn cách biểu hiện. Ông đã tìm được những vấn đề mới mẻ ở ngay những đề
tài vốn quen thuộc.
+ Ở đề tài nông dân, mặc dù sau Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, nhưng Nam Cao vẫn
đặt ra một vấn đề hoàn toàn mới. Đó là vấn đề lưu manh hóa một bộ phận nông dân trước
Cách mạng.
+ Ở đề tài trí thức tiểu tư sản, Nam Cao đặc biệt chú ý đến những tấn bi kịch tinh thần
của họ.
- Tác phẩm của Nam Cao là những sản phẩm mẫu mực của một quá trình lao động
rất nghiêm túc, công phu. Các tác phẩm của ông như Lão Hạc, Chí Phèo, Đời thừa, Sống
mòn, Đôi mắt mãi mãi là những viên ngọc quý trong kho tàng văn học nước nhà.
* Đánh giá chung:
Giữa những xu hướng văn chương thoát li thi vị hóa đời sống hiện thực và chạy
theo những thị hiếu tầm thường của một số ít độc giả trước đây, quan điểm nghệ thuật của
Nam Cao vừa đúng đắn, vừa tiến bộ, vừa có ý nghĩa chiến đấu rõ rệt.
Với quan điểm nghệ thuật tiến bộ, đầy tính chất nhân văn và tài năng của mình,
Nam Cao đã có một ảnh hưởng và những cống hiến lớn lao cho nền văn học Việt Nam
hiện đại, xứng đáng được tôn vinh là một hiện tượng văn học không thể thay thế được.

5



3. Sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng 8
Nam Cao được xem là đại diện xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực phê
phán ở chặng đường phát triển cuối cùng. Từ các trang viết của ông, bộ mặt xã hội thực
dân nửa phong kiến vào những năm cuối của chế độ thuộc địa hiện lên thật sinh động với
nhiều hình tượng nhân vật gây ấn tượng sâu sắc. Trước cách mạng tháng 8 sáng tác của
Nam Cao xoay quanh hai chủ đề chính: về xã hội nông thôn, người nông dân và về tầng
lớp tri thức tiểu tư sản.
Người trí thức nghèo: Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí
thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà
văn nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống
và nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh
thần cao quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết
mòn", phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt,
phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát
một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.
Người nông dân nghèo: Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn
Việt Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê
thảm; càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn
nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề
bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm
và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của
người nông dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945.
3.1. Đề tài nông dân, nông thôn trong sáng tác của Nam Cao
3.1.1. Bao quát bức tranh nông thôn qua tác phẩm của Nam Cao
Với đề tài nông dân, nông thôn, Nam cao là người đến muộn. Khi đó đã có nhiều
tác phẩm thành công, đã có những cây bút lừng lững. Một mặt Nam Cao được kế thừa,
được học hỏi thành tựu của những người đi trước. Song mặt khác làm sao có thu hoạch
mới trên mảnh đất đã từng có nhiều người cày xới là thử thách đặt ra đồi với ông. Nam
Cao không muốn dẫm lên bước chân người trước, ông có ý thức “phải khơi nguồn chưa
6



ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Bằng cái nhìn hiện thực sắc sảo, bằng tài nghệ
thuật độc đáo, nhà văn đã vượt lên tình huống thử thách này.
Bức tranh nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao khá đặc biệt. Ở đây không phải
không có những cảnh thơ mộng, đẹp đẽ: dòng sông trong mát, những vườn chuối vườn
trầu trên vùng bãi đất, những đêm trăng, gió thổi rười rượi… nhưng các cảnh ấy không
nhiều. Bao trùm lên toàn bộ thôn quê trong tác phẩm của Nam Cao là không khí xơ xác,
hoang vắng và nghèo đói đến rợn người. Ở nhiều tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô
Tất Tố cuộc sống nông thôn khá náo động, om sòm. Các nhà văn hay tả những âm thanh
hoặc dồn dập đe dọa, dữ dằn hoặc kê than thảm thiết. Trái lại ngòi bút của Nam Cao,
đường làng, ngõ xóm vắng vẻ. Mọi sinh hoạt thu gọn trong các mái nhà. Nông thôn hoang
vắng, im ắng đến mức có buổi trưa người ta nghe tiếng vặn mình của thớ gỗ trên sàn nhà.
Nếu có sự ồn ào thì cũng chỉ diễn ra trong chốc lát đó là sự ồn ào của những tiếng rạch
mặt ăn vạ, đâm chém và la làng. Chính trên nền cảnh tĩnh lặng này càng nổi lên tiếng chửi
tức tối của Chí Phèo hay giọng hờ con của những người đàn bà góa. Nhân vật nông dân
của Nam Cao rất ít nói to, chỉ thì thầm tâm sự với nhau mà thường toàn những chuyện
buồn (Bố con Dần trong Một Đám Cưới, Lang Rận và mụ Lợi trong Lang Rận). Nam Cao
hay diễn tả độc thoại nội tâm. Nhiều nhân vật nông dân của ông thường ngồi ngẫm nghĩ
về thân phận mình (Từ Ngày Mẹ Chết, Điếu Văn…)
Bức tranh nông thôn trong sáng tác của Nam Cao phản ánh đúng bộ mặt của nông
thôn Việt Nam những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa: bị bòn rút, vơ vét hết cho
chiến tranh, đang đi tới nạn đói khủng khiếp những năm 1945. Đây là đoạn văn trong
truyện ngắn Quái Dị: “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu
vườn rộng nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như
những cây rau diếp ngồng, dĩ chỉ đến cây khoai, cây ráy cũng không lên được. Người xấu
xí rách rưới. Còn số trẻ con bụng ỏng mắt toét ngoài đường sẵn lắm”
3.1.2. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ, bần cùng
Trên bối cảnh nông thôn tiêu điều, xơ xác, ngòi bút Nam Cao đã diễn tả thấm thía
tình trạng nghèo túng, số phận bi thảm của người nông dân. Phần lớn nhân vật nông dân

của ông là con người ở bậc thang xã hội cuối cùng, cuộc đời không thể nào khổ hơn được
nữa. Họ bị hoàn cảnh xã hội vùi dập, bị chà đạp về cả thể xác lẫn nhân phẩm. Các gia
7


đình nông dân trong tác phẩm Nam Cao ít khi được trọn vẹn mà mang những nỗi đau mất
mát, li tán (vợ góa, con côi, gà trống nuôi con...). Có nhiều nhân vật nông dân của Nam
Cao phải bỏ làng đi tha hương cầu thực. Họ cũng đâu gặp được may mắn, rồi cũng bỏ
thân nơi đất khách quê người.
Trong văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm miêu tả thấm thía tình cảnh của nạn
đói. Thời bấy giờ cùng với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... Nam Cao đã đóng góp
những trang văn diễn tả sâu sắc tình cảnh nạn đói - một sự thực ám ảnh, đeo đẳng thường
xuyên người dân lao động ở một nước nô lệ, nghèo nàn, lạc hậu, lại đang bị vơ vét bóc lột
đến cùng kiệt. Vì đói, bệnh tật mà anh Đĩ Chuột tìm cách tự tử để giải thoát, đỡ gánh nặng
cho vợ con (Nghèo). Vì đói mà mà bà cái Tí chết tức tưởi bởi được một bữa ăn quá no
(Một bữa no). Thân phận của cái Dần (Một đám cưới) cũng bị đẩy xuống tột cùng, thể
hiện rõ nhất qua cái đám cưới cũng vì đói nghèo. Sinh ra trong cảnh nghèo khó, từ bé Dần
đã phải đi ở cho nhà địa chủ. Mẹ mất, mới 15 tuổi Dần đã phải quán xuyến công việc nhà
giúp bố. “Nhưng ông trời hình như không muốn bố con Dần ngóc đầu lên. Cuộc sống
ngày một khó khăn thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô khoai cũng khó chuốc được mà ăn”.
Đến nước này, bố Dần nhận lời gả Dần cho một nhà cũng nghèo ở xóm bên, thu xếp gửi
hai đứa con nhỏ để lên rừng kiếm ăn. Từ đây một đám cưới chạy đói đã diễn ra. Đám cưới
Dần đã mang màu sắc của đám tang, đã báo hiệu sự li tán. Cái nghèo, cái đói cứ bám riết
lấy nhiều nhân vật nông dân của Nam Cao như một định mệnh. Ngòi bút của Nam Cao
không hay bao quát hiện thực nông thôn trên bình diện rộng, cũng ít khi đi vào những
cảnh đời cụ thể, gần gũi, khai thác cái hằng ngày. Nhưng những chuyện cụ thể ấy lại
mang được bản chất cuộc sống, lại mang tính khái quát sâu sắc. Một xã hội nông thôn kiệt
quệ, ngột ngạt và bức bối được Nam Cao thể hiện qua cái chết thảm thương của người
nông dân.
Đi vào số phận người nông dân dưới đáy cùng xã hội ở thời kì ngột ngạt, đen tối,

nhiều tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh sinh động quá trình bần cùng hóa của họ. Đặc
biệt quá trình bần cùng hóa này thường được Nam Cao gắn liền với sự đe dọa lưu manh
hóa. Hoàn cảnh xã hội đảo điên có sức tàn phá khốc liệt. Con người bị đẩy vào bước
đường cùng, bị chà đạp cả thể xác lân nhân phẩm. Điều làm Nam Cao đau khổ và khai
thác nhiều nhất ở các nhân vật nông thôn là nhân phẩm bị xúc phạm: tâm hồn thui chột,
8


tính cách méo mó, ngay đến bộ mặt cũng không còn nguyên vẹn. Nam Cao ít khi miêu tả
bộ mặt nhân vật nhưng thường là những bộ mặt xấu xí, gớm ghiếc, biến dạng (Lang Rận,
Thị Nở, Chí Phèo...). Bản thân bộ mặt đó đã có ý nghĩa tố cáo. Chẳng phải ngẫu nhiên mà
Chí Phèo dõng dạc đòi quyền lương thiện đồng thời cũng đòi lại bộ mặt của mình trước
kia, Truyện ngắn Chí Phèo đã kết tinh những thành công của Nam Cao trên đề tài nông
thôn, nông dân và là một kiệt tác văn xuôi trước Cách mạng. Hiện tượng Chí Phèo vô
cùng độc đáo nhưng không phải là ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua số phận bi thảm của
Chí Phèo, tác phẩm này đã khái quát một cách sâu sắc quy luật hủy hoại con người ghê
gớm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí vào con đường tội lỗi? Ai đã
biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại? Nam Cao đã tố cáo mãnh liệt bản chất của
xã hội cũ. Phải chăng câu chuyện tha hóa của Chí Phèo có ý nghĩ nhắc nhở cảnh tỉnh cho
người đọc ở nhiều thời. Sức phê phán, ý nghĩ điển hình lớn lao của của hình tượng Chí
Phèo ở chỗ đó.
3.1.3. Vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm cao quý hạng người “dưới đáy”
Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong bài viết về Nam Cao ở báo Văn nghệ số ra ngày
18 tháng 7 năm 1987 có nhận xét: “Cả cuộc đời cầm bút của Nam Cao cứ đau đáu nhìn
vào nhân cách. Cái sự săn đuổi chính mình và các nhân vật của mình đầy róng riết cũng
chính là sự săn đuổi cái nhân cách của con người ta nói chung”.
Mọi vấn đề xã hội, mọi số phận con người đều được Nam Cao gắn với câu chuyện
nhân cách trong tình cảm xót thương, trân trọng và sự đòi hỏi cao ở con người. Tính nhất
quán và tầm lớn lao của tư tưởng nghệ thuật Nam Cao chính ở chỗ đó. Miêu tả người
nông dân, Nam Cao không chỉ nhằm vạch ra tình cảnh bần cùng hóa, nghèo đói thê thảm

ở phương diện vật chất mà chú ý đến vấn đề nhân phẩm bị chà đạp, tinh thần bị hủy hoại.
Câu chuyện cái đói được Nam Cao nhìn thành câu chuyện của nhân cách. Vấn đề cái ăn
đôi lắm khi được ông diễn tả thấm thía là miếng nhục. Một bữa no là câu chuyện về cái
chết cay đắng, nhục nhã của một bà lão đem nhân phẩm để đổi lấy miếng ăn. Tư cách là
câu chuyện về anh cu Lộ vì hoàn cảnh xô đẩy, vì tham lam mà mất đi tư cách. Nhân vật
ông bố trong Trẻ con không được ăn thịt chó là kẻ tham ăn đến khô cằn cả tâm hồn, đáng
khinh bỉ về nhân cách,...

9


Soi ngắm nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ, Nam Cao đã xót xa
chỉ ra rằng hoàn cảnh nghiệt ngã lắm khi biến họ thành những kẻ thô lỗ cục cằn, độc ác,
làm tâm hồn cằn cỗi, u mê. Song điều đáng nói là trong khi miêu tả một cách “tàn nhẫn”
những nét tiêu cực của người nông dân, về căn bản, ông vẫn đứng vững trên lập trường
nhân đạo, vẫn mang tấm lòng yêu thương thắm thiết, nâng niu, trân trọng. Trước Cách
mạng, ít có nhà văn thấu hiểu và diễn tả tinh tế, cảm động nỗi đau khổ, dày vò về tinh
thần cũng như vẻ đẹp tâm hồn của những con người khốn khổ, tội nghiệp như Nam Cao.
Các truyện Trẻ con không được ăn thịt chó, Từ ngày mẹ chết, Trẻ con không biết đói... có
những chi tiết thật thấm thía khi thể hiện lòng thương yêu, đức hi sinh cao quý của những
người mẹ nghèo. Cuộc đời Dì Hảo là câu chuyện về đức tính hi sinh, nhẫn nhục, vừa tội
nghiệp vừa thật đáng khâm phục. Truyện ngắn Một đám cưới như bài ca thiết tha về, cảm
động về tình cảm gia đình, tình cảm bố con ở những người nghèo khổ nhưng bao giờ
cũng biết nghĩ về nhau, sống cho nhau. Trong các nhân vật của Nam Cao, lão Hạc là hình
tượng cao quý hiếm thấy. Bên trong cái thân hình bé nhỏ, gương mặt nhăn nheo, bên
trong vẻ lẩm cẩm là lòng nhân hậu bao la, một ý thức làm người, tự trọng đáng kính
trọng.
Miêu tả hạng người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, Nam Cao vẫn thể
hiện cái nhìn ưu ái, xót thương, trân trọng. Điểm sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của
Nam Cao là biết phát hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của của người nông dân ngay

trong khi họ bọc rạch nát bộ mặt người, bị giết chết cả tâm hồn. Chính điều ấy đã làm nên
giá tri kiệt tác Chí Phèo. Chí Phèo cũng như nhiều nhân vật của Nam Cao, thường được
đặt trong tình thế cheo leo đặc biệt, đứng trước bờ vực thẳm. Họ có chao đảo, ngả
nghiêng, thậm chí có kẻ đã sa ngã, đã trượt dài trên con đường lưu manh hóa, nhưng cuối
cùng họ đã đứng vững trên mảnh đất con người, lại trở về với nhân cách con người. Nếu
có chết họ cũng chết trên tư thế làm người. Điều ấy chứng tỏ bản lĩnh của ngòi bút Nam
Cao và niềm tin sâu sắc của nhà văn về nhân phẩm con người.
3.2. Đề tài tiểu tư sản
Viết về tầng lớp tiểu tư sản,Nam Cao không chỉ miêu tả sinh động tình cảm bấp
bênh đói cơm rách áo mà chủ yếu đi sâu khám phá bi kịch tinh thần xót xa, đau đớn của

10


họ. Hơn ai hết ông thấu hiểu những quằn qoại trong nội tâm, tư tưởng của con người tiểu
tư sản, diễn tả chân thực đồng thời cố gắng lí giải nguyên nhân của những nỗi bi kịch ấy.
Nhiều truyện ngắn của Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống nghèo túng tủi
cực vừa bi vừa hài của người tiểu tư sản trong xã hội thời ấy. Đó là những học sinh con
nhà nghèo, những công chức hạng bét, những“giáo khổ trường tư”, những văn nghệ sĩ
kiết xác bất đắc chí… “phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết” (Quên điều độ).
Những nỗi lo cơm áo hàng ngày giày vò tâm trí họ, tạo ở họ cái tư thế xo ro thảm hại.
Chàng thanh niên thất nghiệp trong truyện xem bói đã trải qua những ngày ăn cháo loãng
cầm hơi, những buổi tối vợ chồng cắn rứt nhau, những lần vác đơn để khúm núm xin
việc hết sở này sang sở khác… Anh ta không ít lần bị những ông chủ cửa hàng sừng sộ
đuổi khỏi cửa như đuổi một kẻ ăn mày. Nhà văn Hộ trong Đời thừa cứ oằn vai xuống bởi
trăm khoản chi tiêu của một gia đình nheo nhóc, luôn rối tinh cả lên trước các món nợ
chồng chất. Nhân vật Điền trong Nước mắt khóc một cách uất ức, tủi hờn khi cảm thấy
mình khổ quá, “khổ như một con chó vậy!”. Cuộc đời người tiểu tư sản không có chút lạc
thú, không mấy tiếng cười vui. Nhân vật chính trong truyện ngắn Cười cố gắng nặn ra cái
cười để “giải uất”, “an thần”, giữ gìn sức khỏe! Tiếng cười bất đắc dĩ ấy còn buồn tủi

hơn cả tiếng khóc.
Một số truyện ngắn của Nam Cao đã miêu tả với thái độ mỉa mai, kết cục thảm hại
của sự thèm khát hưởng lạc, thèm khát sống giàu sang ở con người tiểu tư sản (Quên điều
độ, Nhìn người ta sung sướng, Giăng sáng, Truyện tình…). Anh chàng Lưu trong Truyện
tình đã bỏ cả nghỉ hè, bỏ cả người mẹ ở quê đang trông đợi từng ngày để chạy theo những
lời hẹn rất vu vơ của một cô Kha lẳng lơ và ích kỷ. Kha biết cách để phỉnh phù lừa dối
Lưu và cô ta biết Lưu đang rất say mê mình. Còn Trần học sinh này cứ tụ lừa dối mình
theo cái lôgic đầy ngụy biện của những kẻ si tình. Anh ta ở lại để chăm sóc những con sáo
yêu của Kha cho cô ta yên tâm đi nghỉ mát ở Sầm Sơn. Kết cục Lưu đã phải trả giá đắt
cho những ảo tưởng của mình, đã rời vào tình thế bi kịch: em chết mà không đươc gặp
anh, Kha thì thơ trào đi cho anh ta xem bức ảnh cô ta chụp chung (chỉ mặc quần áo tắm)
với nhân tình ngoài bãi biển. Bài học với anh chàng Lưu thật thấm thía bởi vì những cô
gái như Kha không bao giờ thật lòng, không bao giờ đem hạnh phúc đến cho anh. Chàng
tiểu tư sản Hài trong quên điều độ cũng ngậm ngùi chua xót, cũng bị hụt hẫng bởi ảo
11


tưởng, nhược điểm của chính mình. Anh ta đang sống một cách yên ổn trong sự đều độ thì
bỗng một hôm gặp lại Thư một người bạn cũ nay đã trở nên hết sức giàu có. Và bữa nhậu
sang trọng, một buổi đi xem hát ở xóm cô đầu cùng Thư, cái vẻ ngoài hết sức hào phóng
của kẻ có tiền đã khiến Hài có lúc muốn đánh mất mình. Anh ta đã buông thả theo bạn,
tập theo những cử chỉ ngạo mạn của kẻ có tiền. Nhưng rồi sau vào lần tiếp xúc, người bạn
bỏ rơi anh ta cũng đột ngột, nhanh chóng như lúc gặp mặt. Hài lại bị đẩy về cái cuộc sống
xót ro, tội nghiệp cú với một chút xót xa, hối hận trong lòng.
Qua đó ông chỉ ra các thói hư tật xấu của con người tiểu tư sản, khẳng định một sự
thực: người tiểu tư sản không thể được sung sướng, có niềm vui thực sự khi chạy theo
bọn có tiền, ích kỉ, khi phản bội lại tầng lớp mình. Qua hụt hẫng dằn vặt, các nhân vật tiểu
tư sản của Nam Cao ít nhiều đã nhìn nhận ra chỗ đứng của giai cấp mình. Thứ (Sống mòn)
nhận ra rằng: “Những hạng người như y phải nhận chân lấy giá trị của mình. Họ có
quyền được tự kiêu. Bởi vì cái giai cấp của y, cái giai cấp cần lao chỉ hơn người ở cái

chỗ được tự hào rằng mình hoàn tòan sống bằng sức lao động của mình và được quyền
khinh tất cả những cái gì không phải là mồ hôi nước mắt”. Đi vào phản ánh những mâu
thuẫn này, sáng tác của Nam Cao có ý nghĩa cảnh tỉnh. Ý nghĩa cảnh tỉnh ấy thật sâu sắc,
nhẹ nhàng mà thấm thía nhờ sự kết hớp màu sắc bi với hài. Qua nụ cười chua xót ma các
nhân vật nhận ra ảo tưởng sai lầm của mình.
Nhưng đó là kết cục thảm hại của những ảo tưởng, ước mong không chính đáng.
Vậy khi người trí thức tiểu tư sản có khát vọng tốt đẹp thì sao? Trả lời câu hỏi này mới
thực sự thấm thía giá trị hiện thực lớn lao, ý nghĩa nhân đạo sâu sắc trong các sáng tác về
đề tại tiểu tư sản của Nam Cao. Phần lớn các nhân vật trí thức tiểu tư sản của ông là con
người có tài năng, có nhân cách, ấp ủ những hoài bão, dự định lớn lao (nhất là về sáng tạo
nghệ thuật). Nhưng rồi cứ bị cuộc sống áo cơm ghì sát đất, không sao cất cánh tâm hồn
lên nổi. Đó quả là những kẻ “tài cao, phận thấp, chí khí uất”, cứ khổ sở về chuyện miếng
cơm manh áo, vì tình trạng “sống mòn” trong cảng “đời thừa”. Ngòi bút Nam Cao đã
diễn tả thấm thía nỗi đau âm thầm mà dai dẳng, nhiều khi giằng xé đến chảy máu cõi lòng
người trí thức tiểu tư sản. Đọc những sáng tác trước cách mạng của ông bên cạnh những
Chí Phèo, lão Hạc, chúng ta khó có thể quên những khuôn mặt gầy guộc đăm chiêu đến
khổ não của những Điền, những Hộ, những Thứ… ở các mức độ khác nhau, hầu hết các
12


nhân vật này đều mang dáng dấp của chính Nam Cao. Hộ (Đời thừa) là một nhà văn có
tài và tâm huyết với nghề nghiệp. Đối với anh nghề văn thấy sự là môt nghề cao đẹp trong
đời có tác dụng phụng sự nhân loại, cổ vũ cho những điều cao quý lý tưởng nghệ thuật
của Hộ thấm đậm tinh thần nhân đạo, gắn liền với sự khai phá, tìm tòi "những nguồn
chưa ai khơi" trong hiện thực đời sống và trong lòng người. Trong niềm say mê trong
trẻo, mãnh liệt, Hộ ôm ấp, dự định thật lớn lao, khao khát viết ra "một tác phẩm nó sẽ làm
mờ vết các tác phẩm khác cùng ra một thời"... Vậy nhưng tất cả những mong muốn, suy
tưởng để rất chân chính đẹp đã của Hộ đều tan biến đi như bong bóng xà phòng khi phải
chạm đến cái thực tế hàng ngày nghiệt ngã. Bi kịch bắt đầu nảy sinh khi Hộ ghép cuộc
đời Từ vào cuộc đời mình, khi có cả gia đình phải chăm lo. Làm sao Hộ có thể thực hiện

nổi cái mộng văn chương khi đem tình thương ra câu mang Từ, khi phải gánh trên đôi vai
vốn gầy guộc, phải lo cả một gia đình túng thiếu, nheo nhóc. "Còn gì đau đớn hơn cho
một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình mà kết cục chẳng
làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?". Từ mâu thuẫn giữa mong muốn bên
trong với cái thực tế bên ngoài đã trở thành quen thuộc, phổ biến này, thành công nổi bật
của Đời thừa chính là ở chỗ đi sâu diễn tả sự giằng xé giữa hai con người trong một con
người. Trong Hộ đồng thời tồn tại con người gánh vác trách nhiệm gia đình và con người
theo đuổi những hoài bão đẹp khi sáng tạo nghệ thuật. Hai con người ấy không chấp nhận
nhau mà cũng không thể loại trừ nhau. Nếu để làm một nghệ sĩ chân chính, phụng sự lý
tưởng nghệ thuật thì Hộ phải bỏ mặc, thậm chí tàn nhẫn với vợ con. Chỉ thế mới có thời
gian, tâm sức mà đọc mà nghiền ngẫm. Nếu lo lắng cho trách nhiệm gánh vác gia đình,
nếu nhằm kiếm tiền để sinh sống thì Hộ phải hi sinh cái hoài bão, lý tưởng kia, phải viết
vội, viết ẩu những tác phẩm tầm thường, nhạt nhẽo mà chính mình tự cảm thấy xấu hổ.
Nỗi đau xót chính ở chỗ Hộ không thể thanh thản mà lựa chọn lấy một trong hai con
đường: hi sinh vì nghệ thuật để làm một người chồng, người cha tốt hoặc vì cái đẹp của
nghệ thuật mà hi sinh phần con người thường ngày, con người trách nhiệm. Đã từng cưu
mang Từ bằng tình thương, Hộ không thể vi phạm cái tiêu chuẩn sống nhân đạo "kẻ mạnh
chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình". Đã từng tự sỉ vả, "nghiến răng, vò nát
sách bà mắng mình như một kẻ khốn nạn” khi toàn viết những cái vô vị, nhạt nhẽo, Hộ
cũng chẳng thể nguội lanh cái mộng văn chương chân chính kia. Tự chửi rồi vẫn phải
13


viết. Viết ra rồi lại tự xử vả, dằn vặt. Cứ thế, Hộ mãi luẩn quẩn trong cái vòng bế tắc,
trong nỗi đau tinh thần u uất không thể nào thoát nổi. Chính điều này đã tạo nên tính dai
dẳng, chua xót của tấn bi kịch, tạo nên chứng u uất triền miên ở Hộ. Cũng như nhiều tác
phẩm khác của Nam Cao, Đờ thừa diễn tả thấm thía nỗi đau của những con người muốn
sống cuộc sống có ý nghĩa, khát khao sáng tạo, muốn cống hiến cho cuộc đời nhưng lại
phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Những tác phẩm này cất lên lời tố cáo cái
thực tế xã hội nghiệt ngã bóp chết tài năng, ước mơ cao đẹp của con người. Lời đòi hỏi

cho quyền sống, quyền sáng tạo chân chính của người tri thức.
Diễn tả bi kịch chết mòn về mặt tinh thần của người trí thức tiểu tư sản trong xã
hội cũ, cuốn tiểu thuyết mang tính chất tự truyện Sống mòn có thể xem là bản tổng kết
khá xuất sắc của Nam Cao. Tác phẩm này được viết vào khoảng 1943 - 1944. Nếu như
cuộc sống của người nông dân trong tác phẩm của ông được mô tả như đêm đen dày đặc
thì với người trí thức tiểu tư sản, cuộc sống ở đây là một màu xám lờ mờ, ớn lạnh đến
khủng khiếp. Thứ nhân vật mang hình bóng của Nam Cao khao khát một cuộc sống hữu
ích. Anh mong muốn được sống cho ra người, được phát huy tận độ những khả năng trong
mình, “mỗi người chết đi phải để lại chút gì cho nhân loại”. Thế nhưng xã hội xấu xa,
cuộc sống tù túng khiến người tri thức có nhân cách ấy ngày càng bế tắc, chán chường.
Chính Thứ cũng không tránh nổi những điều mà trước đây anh cho là nhỏ nhen ti tiện.
Sống mòn đã diễn tả thành công một nhịp sống đơn điệu, buồn tẻ trong một môi trường ứ
đọng, trì trệ. Ở đó người trí thức chống đỡ mệt mỏi với hoàn cảnh và cứ cảm thấy cuộc
sống: “mốc lên, rỉ ra, mục ra không lối thoát”.
4. Một vài đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao
4.1.Nghệ thuật phân tích, miêu tả tâm lí
Khi khắc họa tính cách nhân vật, Nam Cao ít miêu tả ngoại hình mà thường chú ý
tập trung soi rọi đời sống bên trong. Đó là sở trường và tài năng của Nam Cao. Viết về
những người nông dân nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ.
Viết về tầng lớp trí thức tiểu tư sản, ngòi bút Nam Cao thật sắc sảo khi phát hiện ra những
bi kịch tinh thần, nỗi day dứt quằn quại khi đang ở cảnh “sống mòn”, chịu kiếp “đời
thừa”. Trong truyện Nam Cao luôn luôn có những nhận xét tinh tế về tâm lí con người.
Đặc điểm ngoại hình nhân vật qua ngòi bút Nam Cao thường trở thành những nét thể hiện
14


tâm lí, tính cách. Nam Cao ít khi tả cảnh mà có tả trước hết cũng để soi sáng nội tâm nhân
vật. Bởi thế cảnh thiên nhiên trong tác phẩm Nam Cao thường được nhìn qua tâm trạng
nhân vật và mang đậm nỗi niềm con người. Với anh văn sĩ đầu óc đầm đìa thơ văn lãng
mạn thì trăng là “liềm vàng”, “đĩa bạc”, là “cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn đời

mơn man” (Giăng sáng). Với Chí Phèo đang “bứt rứt… ngứa ngáy” thịt da sau bữa rượu
say, trăng lại “nhễ nhại”, “rời rợi như là ướt nước… trên những tàu lá chuối ưỡn cong
cong thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình” (Chí Phèo).
Không chỉ đối với nhân vật trí thức tiểu tư sản là những người hay suy nghĩ mà
đối với nhân vật nông dân cũng thế. Có trạng thái dồn nén lại trong câm lặng ở dì Hảo. Có
trạng thái âm thầm, nhẫn nại chịu đựng hay băn khoăn tâm sự ở lão Hạc. Có trạng thái tức
tối vô thức hay điên cuồng phá phách ở Chí Phèo… Điều đáng chú ý là tâm lí nhân vật
của Nam Cao rất ít khi ngưng đọng. Sở trường của ông càng được phát huy khi đi sâu vào
các diễn biến tâm lí phức tạp, vào trạng thái dở khóc dở cười đầy tính bi hài kịch. Nếu
Nguyễn Công Hoan chỉ miêu tả được từng khoảnh khắc tâm lí, nếu Thạch Lam là nhà văn
của những trạng thái cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh thì Nam Cao là nhà văn của
quá trình tâm lí. Đi vào miêu tả, phản ánh tâm lí nhiều khi tỉ mỉ để từ đó Nam Cao mở ra
bóng dáng thân phận con người, bộ mặt xã hội chứ không theo hướng nhấm nháp mớ tâm
tư cá nhân vụn vặt như một số cây bút khác. Qua những quá trình tâm lí và những tương
quan tâm lí giữa các nhân vật trong tác phẩm Nam Cao, bộ mặt xã hội với những quan hệ
thực tế của nó được thể hiện chân thực, sinh động. Không ít khi diễn biến tâm lí của nhân
vật Nam Cao có bước ngoặt đột ngột nhưng xét ra vẫn tự nhiên, hợp lí, đúng với logic nội
tại của tính cách và hoàn cảnh hiện thực.
Nắm vững tâm lí con người và tập trung thể hiện quá trình tâm lí, xây dựng tính
cách, Nam Cao rất chủ động, linh hoạt trong cách kết cấu tác phẩm, cách kể chuyện.
Nhiều tác phẩm của Nam Cao bề ngoài có vẻ phóng túng nhưng kết cấu bên trong lại rất
linh hoạt, chặt chẽ. Ông thường đi theo diễn biến tâm lí, theo dòng suy tưởng của nhân vật
mà dựng truyện chứ nhiều khi không theo trình tự thời gian (Chí Phèo, Một đám cưới, Từ
ngày mẹ chết, Đời thừa…). Cách dẫn truyện của Nam Cao rất sinh động, có duyên. Lời kể
chuyện của tác giả thường xen lẫn độc thoại nội tâm của nhân vật, điểm nhìn trần thuật
được chuyển dịch linh hoạt. Nhìn chung, Nam Cao ít trần thuật một cách khách quan mà
15


“trao” quyền trần thuật, giải bày cho nhân vật. Nhờ dẫn dắt, miêu tả theo quan điểm nhân

vật nên nhiều tác phảm của Nam Cao đã kết hợp tự nhiên giữa đối thoại với độc thoại nội
tâm, giữa khai triển cốt truyện với khắc họa tính cách.

16


4.2. Sự hài hào giữa chất triết lí với chất trữ tình
Nam Cao là nhà văn thích triết lí. Đọc tác phẩm của ông thường gặp nhiều suy
nghĩ, triết lí thú vị. Có khi tác giả đứng ra triết lí. Có khi nhân vật triết lí. Có khi bản thân
câu chuyện toát lên ý vị triết lí. Những nội dung triết lí này khá phong phú: về hạnh phúc
ở đời, về cách nhìn nhận, đối xử với con người, về sứ mệnh của nghệ thuật, văn chương
chân chính… Bằng sự quan sát , suy nghĩ sắc sảo, Nam Cao phát hiện những cái hang
ngày tưởng rất đỗi bình thường bao ý nghĩa bất ngờ, bao vấn đè có giá trị nhân văn to lớn.
Hầu hết các tác phẩm của Nam Cao viết về những sự việc hết sức bình thường, quen
thuộc trong đời sống hang ngày, “những chuyện không muốn viết” nhưng chủ đề lại có
tầm vóc không nhỏ một chút nào. Không phải là những lí lẽ khô khan, cao đạo mà triết lí
của Nam Cao được suy ngầm, đúc rút qua những điều bình thường của cuộc sống hàng
ngày. Từ một bữa cơm, ông nghĩ đến tình trạng bất công trong xã hội. Từ chuyện mua
nhà, ông nghĩ đến “hạnh phúc chỉ là cái chăn quá hẹp” người này được kín thì người kia
bị hở…Vì thế, nếu chỉ dừng lại ở nội dung xã hội trực tiếp thì không thể hiểu hết các tác
phẩm của Nam Cao. Từ nội dung xã hội trực tiếp ấy, gắn liền với những triết lí, Nam Cao
muốn đề cập đến các vấn đề có ý nghĩa nhân sinh to lớn. Điều này khiến nhiều nhà nghiên
cứu hay so sánh Nam Cao với nhà văn vĩ đại Sê khốp.
Trong tác phẩm của Nam Cao tính triết lí hòa quyện cùng tính trữ tình. Những triết
lí của ông thấm đẫm cảm xúc từ những cái thường ngày. Nhà văn này “cố ý đóng cũi sắt
tình cảm” của mình để giữ cho đôi mắt, khối óc được sáng suốt, tỉnh táo chứ không hề
lạnh lùng, khách quan chủ nghĩa. Vừa hiện thực đến nghiêm ngặt, Nam Cao lại vừa trữ
tình thắm thiết. Nếu như nhiều đoạn triết lí làm cho tác phẩm Nam Cao có chiều sâu thì
những đoạn trữ tình lại làm cho tác phẩm của ông đầy vẻ thiết tha xúc động long người.
Có những lúc Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm, trực tiếp đứng ra kể chuyện và phát biểu

những cảm xúc của mình (Dì Hảo, Điếu văn…). Có lúc tâm hồn Nam Cao bỗng vút lên
những tiếng kêu thương cảm động: “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên long nhắm mắt…” (Lão
Hạc), “Dì Hảo ơi! Tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ đi lấy chồng. Đó là một buổi chiều có
sương bay…” (Dì Hảo). Ngay cả khi tác giả miêu tả khách quan, âm hưởng trữ tình vẫn
lan tỏa từ cảnh vật, từ giọng văn. Nhiều hình ảnh so sánh cảu Nam Cao cũng chứa đựng
biết bao cảm xúc: hai đứa bé đói” ẻo lả như một cái lá úa và buồn như một tiếng thở dài”
17


(Điếu văn); một đám cưới “lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm
lẳng lặng díu dắt nhau đi tìm chỗ ngủ” (Một đám cưới). Gấp lại những trang sách của
Nam Cao, người đọc cứ phải day dứt không nguôi về thân phận tủi nhục của con người
trong cái xã hội đầy rẫy những bất công, tàn bạo lúc bấy giờ.
5. Kết luận
Nam Cao xuất hiện trong văn học sử như là người đại diện tiêu biểu nhất của trào
lưu hiện thực phê phán trong thời kì phát triển cuối cùng, với những chố yếu và chỗ
mạnh.
Bức tranh xã hội mà Nam Cao dựng lên tuy không thật lớn lao đồ sộ nhưng rất
mực chân thực và sâu sắc. Tác phẩm nam Cao còn thiếu tính chiến đấu trực tiếp, còn thiếu
vẻ đẹp của những “chân dung lạc quan” nhưng bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Nam Cao
qua những câu chuyện bình thường đã vạch ra cái sự thật cay đắng về cuộc sống cực khổ,
đau xót của những con người bị dồn đẩy đến bức đường cùng, bị tàn phá cả về thể xác lân
tâm hồn, đã đặt ra một cách khẩn thiết vấn đề quyền sống và sự phát triển của con người
trong một xã hội vô cùng ngột ngạt. Những đóng góp độc đáo của Nam Cao ở cả hai
mảng về đề tài nông thôn, nông dân và về tầng lớp tiểu tư sản đã khẳng định vị trí vững
chắc của ông trong lịch sử văn học dân tộc. Ông là người kế tục xứng đáng truyền thống
tốt đẹp của chủ nghĩa hiện thực, góp phần đưa trào lưu văn học này phát triển lên một
trình độ nghệ thuật mới trong một giai đoạn tưởng chừng bế tắc.
Cách mạng tháng Tám thành công, cũng như bao văn nghệ sĩ cùng thế hệ, Nam
Cao hồ hởi đón chào chế độ mới. Ông nhanh chóng trở thành cây bút hang đầu của nền

văn xuôi cách mạng và kháng chiến. Nhật kí Ở rừng, truyện ngắn Đôi mắt, tập bút kí
Chuyện biên giới và một số tác phẩm khác nữa là những đóng góp giàu ý nghĩa của Nam
Cao cho nền văn học dân tộc. Thật tiếc, ông mất đi giữa lúc tài năng đang độ chin, giữa
lúc bao dự định sáng tạo cong dang dở. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nam Cao đã
thành một tấm gương lớn về nhà văn - chiến sĩ, về long say mê nghệ thuật và tinh thần
trách nhiệm cao cả với nghề nghiệp, về ước mong được dâng hiến nhiều cho nhân dân,
đất nước.

18



×