Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát nâng cao thành tích nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 10 trường THPT giao thuỷ nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.67 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LÝ VĂN LÊ

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC
MẠNH BỘT PHÁT NÂNG CAO THÀNH
TÍCH NHẢY CAO NẰM NGHIÊNG CHO
NAM HỌC SINH KHỐI 10 TRƢỜNG
THPT GIAO THỦY - NAM ĐỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học

ThS. Vũ Tuấn Anh

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Lý Văn Lê
Sinh viên lớp K36 GDTC - GDQP Trường ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan đề tài: “Lựa chọn bài tập nâng cao thành tích nhảy
cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 10 trƣờng THPT Giao Thủy –
Nam Định” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong
đề tài là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào.
Hà Nội, ngày

tháng
Sinh viên



Lý Văn Lê

năm 2014


DANH MỤC VIẾT TẮT

CT/TW

: Chỉ thị/Trung ương

(cm)

: centimet

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐC

: Đối chứng

ĐH

: Đại học

GDTC


: Giáo dục thể chất

HSSV

: Học sinh sinh viên

KQ

: Kết quả

NXB

: Nhà xuất bản

SMBP

: Sức mạnh bột phát

SPTDTT

: Sư phạm thể dục thể thao

TDTT

: Thể dục thể thao

THPT

: Trung học Phổ thông


TN

: Thực nghiệm

TD

: Thể dục

TĐC

: Tốc độ cao

VĐV

: Vận động viên

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XPC

: Xuất phát cao

%

: Phần trăm


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG


SỐ BẢNG

NỘI DUNG

BIỂU

Bảng 3.1
Bảng 3.2

Thực trạng đội ngũ giáo viên thể dục trường THPT
Giao Thủy - Nam Định.
Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học
tập môn GDTC.

TRANG

27

28

Kết quả đánh giá về trình độ kỹ thuật và thành tích nhảy
Bảng 3.3

cao “nằm nghiêng” của nam học sinh khối 10 trường

29

THPT Giao Thủy - Nam Định, năm hoc 2013 - 2014.
Kết quả phỏng vấn đội ngũ giáo viên TDTT về các yêu

Bảng 3.4

cầu liên quan đến việc lựa chon bài tập phát triển

31

SMBPcho giai đoạn giậm nhảy trong nhảy cao .
Phỏng vấn đội ngũ giáo viên TDTT về việc lựa chọn
Bảng 3.5

bài tập phát triển SMBP nâng cao thành tích nhảy cao
kiểu nằm nghiêng cho nam học sinh khối 10 trường

32

THPT Giao Thủy - Nam Định .
Nội dung bài tập phát triển SMBP nâng cao thành tích
Bảng 3.6

nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 10 trường

34

THPT Giao Thủy - Nam Định
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá SMBP
Bảng 3.7

trong nhảy cao cho nam học sinh khối 10 trường THPT

36


Giao Thủy - Nam Định .
Bảng 3.8

Xây dựng tiến trình thực nghiệm

38

Bảng 3.9

Kết quả các test kiểm tra của 2 nhóm ĐC và TN trước

39


thực nghiệm.
Kết quả các test kiểm tra của 2 nhóm ĐC và TN sau
Bảng 3.10

thực nghiệm.
Biểu đồ 1: So sánh kết quả tại chỗ bật cao với bảng
trước thực nghiệm và sau thực nghiệm.

Biểu đồ

Biểu đồ 2: So sánh kết quả tại chỗ bật cao với bảng
trước thực nghiệm và sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3: So sánh kết quả nhảy cao có đà trước thực
nghiệm và sau thực nghiệm.


41

42
43
44


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................... 4
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trường học ......... 4
1.2. Những quan điểm và khái niệm về sức mạnh bột phát .............................. 5
1.3. Những yếu tố chi phối sức mạnh bột phát ............................................... 8
1.4. Xu hướng huấn luyện sức mạnh bột phát .............................................. 10
1.5. Những cơ sở lý luận ................................................................................ 12
CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ - PHƢƠNG PHÁP - TỔ CHỨC NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 22
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 22
2.3. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................. 24
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 26
3.1.Đánh giá thực trạng cơng tác GDTC nói chung và việc giảng dạy sử dụng
bài tập phát triển sức mạnh bột phát trong nhảy cao cho nam học sinh
khối 10 trường THPT Giao Thủy – Nam Định ............................................... 26
3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả sức mạnh bột phát nâng cao
thành tích nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 10 trường THPT
Giao Thủy – Nam Định .................................................................................. 30
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 47

PHỤLỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn
mạnh “muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh, phải
lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững. Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là con
người Việt Nam”.
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa chuyển lao động thủ cơng
thành lao động bằng máy móc, đổi mới cơng nghệ sản xuất địi hỏi con người
phải có một thể lực nhất định để làm việc dẻo dai, sử dụng hết cơng suất máy
móc, lao động có năng suất cao mới đáp ứng được phát triển của đất nước. Vì
vậy phát triển sức khỏe là điều kiện tất yếu trong đời sống con người, mà
muốn có sức khỏe và thân thể cường tráng, mỗi người khơng có con đường
nào khác là phải tự mình tiến hành tập luyện thể dục thể thao.
Thể dục thể thao là hoạt động khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa
xã hội loài người. Ngay từ khi mới ra đời TDTT là một bộ phận hữu cơ của
nền văn hóa xã hội và là một phương tiện giáo dục. TDTT còn mang đầy đủ
tính lịch sử, giai cấp, tính bản sắc dân tộc. Vì vậy thơng qua TDTT mà ta có
thể đánh giá được sự phát triển của văn hóa thể chất ở mỗi địa phương, dân
tộc, quốc gia.
Trong những năm gần đây phong trào luyện tập TDTT phát triển mạnh
mẽ trong cả nước. Các cơ quan, doanh nghiệp, các địa phương... và đặc biệt là
trong các trường học trên toàn quốc ngày càng dành nhiều sự quan tâm hơn
tới vấn đề luyện tập TDTT của đơn vị mình. Cùng với sự phát triển của xã hội
các hình thức tập luyện TDTT cũng đa dạng, phong phú về các mơn như:
Bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lơng, điền kinh…Trong hệ thống các

mơn TDTT thì Điền kinh là một trong những mơn được nhiều người quan tâm


2

và ưa thích, phổ biến trong các trường học và nó là một mơn cơ bản dễ học,
dễ phổ biến cho tất cả học sinh, sinh viên tham gia tập luyện. Tập luyện điền
kinh khơng chỉ có tác dụng nâng cao sức khỏe mà còn là phương tiện để phát
triển các tố chất thể lực giúp con người phát triển tồn diện.
Bộ mơn điền kinh bao gồm nhiều mơn trong đó nhảy cao là một mơn
được tập luyện và thi đấu rộng rãi. Nhảy cao trong GDTC là một trong những
hoạt động cơ bản nhằm phát triển các tố chất thể lực tăng cường sức khỏe cho
học sinh, đặc biệt là “sức mạnh bột phát” sự phát triển linh hoạt khéo léo và
trở thành một môn thể thao. Đây là kỹ thuật phức tạp, hoạt động khơng mang
tính chu kỳ, đòi hỏi người tập phải nắm vững những tư duy động tác một cách
nhịp nhàng, thuần thục.
Như chúng ta đã biết thành tích của các mơn phụ thuộc vào sức mạnh
bột phát, tuy nhiên trong quá trình học tập nội dung nhảy cao nằm nghiêng đạt
kết quả chưa cao. Một mặt do đội ngũ giáo viên chưa có phương pháp giảng
dạy phù hợp, các bài tập có khối lượng và cường độ vận dụng chưa phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, chưa phù hợp với điều kiện và mơi
trường tập luyện.
Mặt khác do trình độ thể lực của học sinh còn hạn chế, chưa tự giác tích
cực trong tập luyện, q trình học cịn mang tính bị động, việc tiếp thu các tri
thức để rèn luyện kỹ năng, hình thành kỹ xảo cịn yếu kém trong q trình tập
luyện. Ngồi ra trong q trình giảng dạy, hầu hết tất cả các giáo viên đều
chưa chú ý đến việc phát triển tố chất “sức mạnh bột phát” vì đây là tố chất
quyết định đến thành tích của học sinh.
Do đó, việc ứng dụng một số bài tập phát triển sức mạnh bột phát nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy của mơn Điền kinh nói chung cũng như trong

giảng dạy kỹ thuật nhảy cao nói riêng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực
tiễn trong quá trình giảng dạy mơn Điền kinh trong các nhà trường THPT


3

hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tơi thấy mơn nhảy cao đã
có một số tác giả là sinh viên Khoa GDTC trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
nghiên cứu nh-: Lưu Ngọc Vinh (2008), Nguyễn Thị Lượng (2012)…Tuy
nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu sức mạnh bột phát nhằm nâng cao hiệu
quả giậm nhảy trong nhảy cao “nằm nghiêng” cho nam học sinh khối 10
trường THPT Giao Thủy - Nam Định.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát nâng cao thành tích
nhảy cao nằm nghiêng cho nam học sinh khối 10 trường THPT Giao Thủy
- Nam Định”.
* MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát sao cho phù hợp với điều
kiện, đối tượng, lứa tuổi để nâng cao thành tích nhảy cao nằm nghiêng cho
nam học sinh khối 10 trường THPT Giao Thủy - Nam Định, góp phần bổ
sung, hồn thiện nội dung chương trình giảng dạy, huấn luyện của nhà trường.


4

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về công tác GDTC trƣờng học
Nhà nước rất coi trọng công tác GDTC trong trường học, cơng tác này

nhằm phát triển, hồn thiện thể chất cho tầng lớp thanh - thiếu niên, nhi đồng.
GDTC là nội dung bắt buộc của học sinh - sinh viên, nó được thể hiện trong
hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học. Nhà nước khuyến khích
và tạo điều kiện cho học sinh được tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi và điều kiện cơ sở vật chất cho từng nơi.
Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 của Ban Bí thư TW Đảng giao
trách nhiệm cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục TDTT thường xuyên phối
hợp chỉ đạo công tác GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, để việc tập
luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên.
Chỉ thị 36/CT-TW đã được Đại hội Đảng lần thứ IX xác định phương
hướng và nhiệm vụ “Đẩy mạnh hoạt động TDTT, nâng cao thể trạng tầm vóc
của con người Việt Nam. Phát triển phong trào TDTT quần chúng với mạng
lưới cơ sở rộng khắp, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ VĐV thể thao thành tích
cao, đưa Việt Nam lên trình độ chung trong khu vực Đơng Nam Á và có vị trí
cao trong nhiều bộ mơn. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích nhân dân và các
tổ chức tham gia thiết thực, có hiệu quả cao trong các hoạt động văn hóa thể
thao”.[1]
Hiến pháp nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có
ghi: "Quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học". Điều đó đã khẳng
định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với TDTT và GDTC
trong nhà trường, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết của Đảng tồn dân, để tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển TDTT nước nhà. Chỉ thị 133 của Thủ tướng


5

chính phủ đã chỉ rõ “Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo
dục thể chất trong nhà trường. Cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa,
ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp
học, quy chế bắt buộc ở các trường, nhất là các trường đại học phải có sân bãi,

phịng tập TDTT, có định biên hợp lý và có kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo
viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp học" [5].
Luật giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục là con đường chủ yếu và cơ bản
để chuẩn bị cho con người cho sự phát triển bền vững của đất nước trong điều
kiện kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có sức
khỏe và được phát triển toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc" [9].
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan
trọng mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí
GDTC trong nhà trường các cấp phải được triển khai thực hiện đồng bộ với
các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về cơng
tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó đã khẳng định: "Giáo dục thể
chất được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào
tạo những cơng dân phát triển tồn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của
mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức".
1.2. Những quan điểm và khái niệm về sức mạnh bột phát
Sức mạnh là khả năng con người khắc phục lực cản bên ngoài hoặc
chống lại lực cản đó nhờ sự nỗ lực cơ bắp.
Cơ bắp có thể phát huy sức mạnh trong các trường hợp sau đây:
- Không thay đổi độ dài của cơ (chế độ tĩnh lực)


6

- Giảm độ dài của cơ (chế độ khắc phục)
- Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ)
- Chế độ khắc phục và chế độ nhượng bộ hợp thành chế độ động lực.

Nếu con người thực hiện một loạt động tác nào đó với nỗ lực cơ bắp tối
đa để làm chuyển động những vật thể có khối lượng khác nhau thì lực sinh ra
cũng khác nhau.
Lúc đầu tăng các khối lượng vật thể thì lực phát huy cũng tăng lên
nhưng tới một giới hạn nhất định, tăng khối lượng vật thể lại không thấy lực
cơ bắp tăng thêm. Khi khối lượng vật thể quá lớn thì lực mà con người tác
động vào nó khơng cịn phụ thuộc vào khối lượng vật thể nữa mà chỉ phụ
thuộc vào sức lực của con người.
Người ta đo tốc độ và lực cơ học khi thấy những quả tạ có trọng lượng
khác nhau và nhận thấy rằng giữa lực và tốc độ có tương quan tỷ lệ nghịch
với nhau: tốc độ càng cao thì lực càng nhỏ và ngược lại. Trong trường hợp
quả tạ nặng tới mức không thể đẩy xa được nữa thì lực lớn nhất, ngược lại
trong động tác tay không tốc độ tay sẽ lớn nhất. Sự phụ thuộc giữa các chỉ số
lực và tốc độ trong các động tác với trọng lượng các vật thể khác nhau.
Bằng thực nghiệm và phân tích khoa học, người ta đã đi đến một số kết
luận có ý nghĩa cơ bản trong phân loại sức mạnh:
- Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm hầu như không khác biệt với
các trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường.
- Trong chế độ nhượng bộ, khả năng sinh lực của cơ là lớn nhất đôi khi
gấp hai lần lực phát huy trong điều kiện tĩnh.
- Trong các động tác nhanh, trị số lực giảm dần theo chiều tăng tốc độ.
- Khả năng sinh lực trong các động tác nhanh tuyệt đối (tốc độ) và khả
năng sinh lực trong các động tác tĩnh tối đa (sức mạnh tĩnh) khơng có tương
quan với nhau.


7

Trên cơ sở đó có thể phân chia năng lực phát huy lực của con người
thành các loại sau:

- Sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh lực trong các động tác chậm hoặc
tĩnh).
- Sức mạnh tốc độ (khả năng sinh lực trong các động tác nhanh).
Nhóm sức mạnh tốc độ lại được phân nhỏ tùy theo chế độ vận động
thành sức mạnh động lực và sức mạnh hỗn xung.
Ngồi sức mạnh cơ bản nêu trên, trong thực tiễn và tài liệu khoa học còn
thường gặp sức mạnh bột phát.
Khái niệm sức mạnh bột phát: là khả năng con người phát huy một lực
lớn trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Để đánh giá sức mạnh bột phát người ta thường dùng chỉ số sức mạnh
tốc độ:
I

F
T

MAX
MAX

Trong đó: I – là chỉ số sức mạnh tốc độ
Fmax – là lực tối đa phát huy trong động tác
Tmax – là thời gian đạt được chỉ số lực tối đa
Để so sánh sức mạnh của những người có trọng lượng khác nhau, người
ta thường sử dụng khái niệm sức mạnh tương đối, tức là sức mạnh của 1kg
trọng lượng cơ thể.
Sức mạnh tương đối = Sức mạnh tuyệt đối / Trọng lượng cơ thể
Sức mạnh tuyệt đối có thể đo bằng lực kế hoặc trọng lượng tạ tối đa mà
vận động viên khắc phục được.
Ở những người có trình độ tương đương nhưng trọng lượng cơ thể khác
nhau thì sức mạnh tuyệt đối tăng hơn theo trọng lượng, còn sức mạnh tương

đối lại giảm đi.


8

1.3. Những yếu tố chi phối sức mạnh bột phát
Sức mạnh tích cực tối đa (cịn gọi là sức mạnh tuyệt đối) của cơ chịu
ảnh hưởng của hai nhóm yếu tố chính là:
- Các yếu tố trong cơ ở ngoại vi
Nhóm này gồm có:
+ Điều kiện cơ học của sự co cơ
+ Chiều dài ban đầu của cơ
+ Độ dày (tiết diện ngang) của cơ
+ Đặc điểm cấu tạo của các loại sợi cơ chứa trong cơ.
Điều kiện cơ học của sự co cơ và chiều dài ban đầu của cơ trước khi co
là các yếu tố kỹ năng của hoạt động sức mạnh. Hồn thiện kỹ thuật động tác
chính là tạo ra điều kiện cơ học và chiều dài ban dầu tối ưu của sự co cơ.
Do sức mạnh của cơ phụ thuộc vào độ dày của cơ nên khi độ dày tăng
lên thì sức mạnh cũng tăng lên. Tăng tiết diện ngang của cơ do tập luyện thể
lực được gọi là phì đại cơ.
Sự phì đại cơ xẩy ra chủ yếu là do các sợi cơ có sẵn dày lên (tăng thể
tích). Khi sợi cơ đã dày lên đến một mức độ nhất định thì chúng có thể tách
dọc ra để tạo thành những sợi con có cùng một đầu gân chung với sợi cơ mẹ.
Sợ tách sợi cơ đó có thể gặp khi tập luyện sức mạnh nặng và lâu dài.
Sự phì đại cơ xẩy ra do số lượng và khối lượng các tơ cơ, tức là bộ máy
co bóp của sợi cơ đều tăng lên. Mật độ các tơ cơ trong sợi cơ cũng tăng lên
đáng kể. Quá trình tổng hợp đạm trong sợi cơ tăng lên, hàm lượng ARN,
AND trong cơ phì đại tăng cao so với cơ bình thường. Hàm lượng creatin cao
trong cơ khi hoạt động có khả năng kích thích sự tổng hợp actin và myozin và
như vậy thúc đẩy sự phì đại cơ.

Sự phì đại cơ cịn chịu ảnh hưởng của các tuyến nội tiết tố sinh dục nam
như androgen, testosteron sinh ra ở tuyến sinh dục nam và vỏ thượng thận.


9

Sự phì đại cơ ở trên được gọi là sự phì đại tơ cơ, khác với một loại phì
đại cơ khác là phì đại cơ tương. Phì đại cơ tương là một loại phì đại cơ chủ
yếu do tăng thể tích cơ tương tức là bộ máy khơng co bóp của sợi cơ. Sự phì
đại này phát sinh do hàm lượng các chất dự trữ năng lượng trong sợi cơ như
glycogen, cp, myoglobin tăng lên; số lượng mao mạch tăng lên cũng làm sự
phì đại cơ kiểu này. Phì đại cơ tương là một loại phì đại cơ thường gặp trong
tập luyện sức bền, nó ít ảnh hưởng đến sức mạnh của cơ.
Đặc điểm cấu tạo của các loại sợi cơ chứa trong cơ là tỷ lệ các loại sợi
chậm (nhóm I) và nhanh (nhóm II-A, II-B) chứa trong cơ. Các sợi nhanh, nhất
là sợi nhóm II - B có khả năng phát lực lớn hơn các loại sợi chậm. Vì vậy, cơ
có tỷ lệ sợi nhanh càng cao thì có sức mạnh càng lớn. Tập luyện sức mạnh
cũng như các hình thức tập luyện sức mạnh khác có thể làm thay đổi được tỷ
lệ các loại sợi trong cơ. Tập luyện sức mạnh có thể làm tăng tỷ lệ sợi cơ
nhanh gluco phân nhóm II-B, giảm tỷ lệ sợi cơ nhanh oxy hóa nhóm II-A và
làm tăng sự phì đại của các sợi cơ nhanh.
- Các yếu tố thần kinh trung ương: điều khiển sự co cơ và phối hợp
giữa các sợi cơ và cơ trước tiên là khả năng chức năng của các nơron thần
kinh vận động, tức là mức độ phát xung động với tần số cao. Sức mạnh tối đa
phụ thuộc vào số lượng đơn vị vận động tham gia vào hoạt động. Vì vậy để
phát lực lớn, hệ thần kinh phải gây hưng phấn ở rất nhiều nơron vận động. Sự
hưng phấn đó khơng phải quá lan rộng để không gây hưng phấn ở các cơ đối
kháng, tức là phải tạo ra sự phối hợp tương ứng giữa các nhóm cơ, tạo điều
kiện do cơ chủ yếu phát huy hết sức mạnh. Trong quá trình tập luyện sức
mạnh các yếu tố thần kinh trung ương được hoàn chỉnh dần, nhất là khả năng

điều khiển sự phối hợp giữa các nhóm cơ thần kinh trung ương. Các yếu tố
này làm tăng cường sức mạnh chủ yếu tối đa đáng kể.
Sức mạnh - tốc độ của cơ phụ thuộc vào:


10

+ Lực co cơ tối đa: Lực co cơ tối đa có tương quan tuyến tính với độ
dài của ơ cơ hoặc chiều dài của sợi myozin mang tính di truyền sẽ khơng biến
đổi trong q trình phát triển cá thể và dưới ảnh hưởng của tập luyện.
Hàm lượng actin ở cơ có sự tương quan tuyến tính với tổng hàm lượng
creatin trong cơ. Cả hai chỉ số này có thể được sử dụng để kiểm tra sự phát triển
sức mạnh cơ và dự báo thành tích thể thao ở các bài tập sức mạnh - tốc độ.
+ Tốc độ co cơ tối đa phụ thuộc vào tỷ lệ các sợi cơ, sợi cơ trắng (sợi
cơ nhanh) co nhanh gấp 4 lần sợi cơ đỏ (sợi cơ chậm).
+ Sự thay đổi cường độ khi co cơ.
Từ sự phụ thuộc giữa sức mạnh và tốc độ co cơ mà những bài tập nhằm
phát triển sức mạnh tốc độ, đặc biệt là sức mạnh bột phát có những địi hỏi cơ
bản.
1.4. Xu hƣớng huấn luyện sức mạnh bột phát
Khi giảng dạy kỹ thuật cho học sinh xu hướng hiện nay là phải đảm
bảo phát triển tích cực về khả năng vận động của người tập, khả năng làm
việc cao và tâm lý ổn định. Đó là điều cần thiết để nâng cao thành tích nhảy
cao nói chung và thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng nói riêng.
Con đường đưa đến thành tích phải qua huấn luyện tồn diện, có kết
hợp các động tác bổ trợ để phát triển tính mềm dẻo và sự phối hợp các động
tác để phát triển sức nhanh. Các động tác sức mạnh trong giậm nhảy, các
động tác phát triển sức bền cũng như các động tác chuyên mơn.
Nhìn chung, ta có thể thấy các xu hướng huấn luyện sức mạnh bột phát
như sau:

- Cải tiến, sáng tạo nhiều loại công cụ và phương tiện để sử dụng các
bài tập sức mạnh bột phát
Các cuộc thi chính thức khởi nguồn lịch sử mơn nhảy cao lần đầu tiên
có từ 100 năm trước. Việc tập luyện nhảy cao về trước nhảy cao trên hố cát và


11

đường chạy đà bằng đất, nện hoặc xỉ than, các kỹ thuật cịn nghèo nàn, cơng
cụ và phương tiện phục vụ cho tập luyện còn hạn chế. Do vậy, các hình thức
của các bài tập phát triển sức mạnh bột phát cũng đơn điệu, nghèo nàn. Từ
thập niên 80 của thế kỷ XX nhờ có sự ra đời của nệm mút, đường chảy nhựa
tổng hợp và các máy móc thành lập khác nhau làm cho các bài tập đa dạng
phong phú hơn.
- Tận dụng các phương tiện về ánh sáng, âm thanh tăng hiệu quả huấn
luyện sức mạnh bột phát
Hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện thấy mối quan hệ giữa các giác
quan (thính giác, xúc giác, thị giác, khứu giác, vị giác) đều có tác động quan
trọng tới việc nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo và phát triển các tố chất vận động. Vì
vậy, ngồi việc dùng các giáo cụ trực quan hoặc ngôn ngữ, nhiều chuyên gia thể
thao đã dùng ánh sáng, âm thanh, tiếng động để tác động vào tâm lý cũng như
quá trình hưng phấn của người tập, giúp cho việc tập luyện đạt hiệu quả cao.
- Tận dụng các phương tiện về ánh sáng, âm thanh tăng hiệu quả huấn
luyện sức mạnh bột phát.
- Xu thế mơ hình hóa cảm giác để dẫn dắt và chương trình hóa tác động
Đặc biệt trong hình thành nhịp điệu động tác, ví dụ trong nhảy cao kiểu
nằm nghiêng, muốn hồn thành tốt một lần nhảy thì người nhảy phải chạy đà
với một nhịp điệu ra sao, tốc độ chạy đà trước lúc dậm nhảy cần đạt bao nhiêu
m/s. Giai đoạn giậm nhảy thời gian, vị trí, không gian của cơ thể ra sao, lực
giậm nhảy cần đạt bao nhiêu kg/1kg trọng lượng cơ thể…Tất cả những vấn đề

đó đều được mơ hình hóa và chương trình hóa. Người tập sẽ bám sát mơ hình
và chương trình hóa đó mà dùng các bài tập để hồn thiện và nâng cao kỹ
thuật, thể lực và thành tích thể thao.
Tóm lại, để đạt được hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy và huấn
luyện mơn nhảy cao nói chung và mơn nhảy cao kiểu nằm nghiêng nói riêng


12

thì chúng ta cần nắm vững tất cả các yếu tố liên quan và bổ trợ cho môn học,
đặc biệt phải lựa chọn hệ thống bài tập phát triển sức mạnh bột phát cho quá
trình tập luyện để nâng cao thành tích mơn nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho
nam học sinh Trường THPT Giao Thủy - Nam Định. Chúng ta cần nắm vững
các yếu tố cơ bản như: Quan điểm về giảng dạy và huấn luyện kỹ thuật, hiểu
thế nào là bài tập phát triển sức mạnh bột phát và vai trị của nó trong dạy học
động tác, nắm vững kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng, ngồi ra cịn phải
nắm được trình độ kỹ thuật của người học, các thông số về động học trong
nhảy cao và đặc biệt là ba xu thế để nâng cao hiệu quả các bài tập phát triển
sức mạnh bột phát đang ngày càng được các nước có nền thể thao tiên tiến sử
dụng rộng rãi trong giảng dạy và huấn luyện thể thao. Họ coi đó là những
biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và huấn luyện các mơn thể thao
nói chung và mơn nhảy cao kiểu nằm nghiêng nói riêng. Tất cả những phần
tổng quan trên là cơ sở để chúng tôi tiếp cận vấn đề nghiên cứu.
1.5. Những cơ sở lý luận
1.5.1. Cơ sở lý luận của sức mạnh bột phát
Sức mạnh là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ lực của
cơ bắp. Hay nói cách khác, sức mạnh của con người là khả năng khắc phục
lực cản bên ngoài bằng sự nỗ lực của cơ bắp.
Hoạt động của cơ bắp có thể được sinh ra trong những trường
hợp sau đây:

+ Không thay đổi độ dài của cơ (chế độ tĩnh)
+ Giảm độ dài của cơ (chế độ khắc phục)
+ Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ)
Trong các chế độ hoạt động như vậy, cơ bắp sản sinh ra các lực cơ học
có giá trị khác nhau cho nên có thể coi chế độ hoạt động của cơ là cơ sở phân
loại các loại sức mạnh cơ bản. Như vậy, sức mạnh của con người phụ thuộc


13

vào nhiều yếu tố khác nhau như: khối lượng, lượng vận động, tốc độ của vật
thể hay tốc độ của động tác.
Bằng thực nghiệm và sự phân tích của các nhà khoa học, người ta đã đi
đến một số kết luận có ý nghĩa cơ bản trong phân loại sức mạnh:
- Trị số lực sinh ra trong động tác chậm hầu như khơng có sự khác biệt
so với các trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường.
- Trong các chế độ nhượng bộ khả năng sinh lực của cơ là lớn nhất, đôi
khi gấp hai lần lực phát huy trong điều kiện tĩnh.
- Trong động tác nhanh trị số lực giảm dần theo tốc độ.
- Khả năng sinh lực trong động tác nhanh tuyệt đối và khả năng sinh lực
trong động tác tĩnh tối đa không tương quan với nhau.
Trên cơ sở đó người ta phân loại sức mạnh bằng các loại sức mạnh sau:
+ Sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh lực trong động tác chậm hay tĩnh)
+ Sức mạnh tốc độ (khả năng sinh lực trong động tác nhanh)
Sức mạnh tốc độ là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài bằng sự căng
cơ tối đa trong khoảng thời gian ngắn nhất. Sức mạnh bột phát là một thành
phần của sức mạnh tốc độ.
Sức mạnh bột phát là khả năng con người phát huy một lực lớn trong
khoảng thời gian ngắn nhất.
Trong giảng dạy và huấn luyện TDTT cần chú ý đến cơ chế cải thiện sức

mạnh. Có thể tiến hành các bài tập động lực xen kẽ các bài tập tĩnh lực nhằm
kết hợp cả hai hình thức co cơ đẳng trường và co cơ đẳng trương.
Các tố chất thể lực có mối quan hệ mật thiết và bổ trợ lẫn nhau, vì vậy
khi huấn luyện để phát triển tố chất sức mạnh cũng cần phải quan tâm tới phát
triển các tố chất khác (sức nhanh, sức bền, sự khéo léo). Do đó để huấn luyện
đạt được kết quả cao cần có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố trên cùng với
việc thực hiện kỹ thuật động tác. Thông thường để cải thiện sức mạnh người ta


14

thường sử dụng phương pháp lặp lại với vật có trọng tải tăng dần hoặc sử dụng
bài tập có trọng tải nhỏ và vừa với tốc độ thực hiện tăng dần hoặc liên tục.
Để phát triển tối đa sức mạnh - tốc độ, người ta thường sử dụng hai
phương pháp cơ bản đó là: phương pháp gắng sức tối đa và bài tập lặp lại tối
đa, cần sử dụng các bài tạp có cấu trúc động lực sinh học gần giống với các
bài tập thi đấu, với số ít lần lặp lại và khoảng nghỉ không cố định, nhưng cần
đủ thời gian để hồi phục và huy động lặp lại gắng sức tối đa (thông thường
1,5 - 2 phút).
Phương pháp lặp lại bài tập tối đa nhằm tăng tổng hợp protid và tăng
khối lượng cơ. Để giải quyết nhiệm vụ này có thể sử dụng rộng rãi các bài tập
ở mức đáng kể cho nhóm cơ đã chọn, lượng trọng tải cần khắc phục thừơng
không cao hơn 70% lực co đẳng trường tối đa, bài tập được thực hiện với số
lần lặp lại cho đến khi mệt mỏi.
Như vậy, thông qua những vấn đề lý luận trên chúng tơi có cơ sở để xác
định phương pháp tập luyện, loại bài tập, lượng vận động…được sử dụng phù
hợp với đối tượng. Từ đó chúng tơi có thể lựa chọn hệ thống bài tập phát triển
sức mạnh bột phát để nâng cao thành tích mơn nhảy cao nằm nghiêng cho nam
học sinh khối 10 Trường THPT Giao Thủy - Nam Định.
1.5.2. Cơ sở sinh lý của tố chất sức mạnh

Sức mạnh là khả năng con người khắc phục trọng tải bên ngoài bằng sự
căng cơ.
Sức mạnh bột phát là khả năng con người phát huy một lực lớn trong
khoảng thời gian ngắn nhất. Sinh lý học TDTT có viết: Sức mạnh tốc độ là
một dạng của sức mạnh trong đó có sự phát lực lớn và nhanh.
Sức mạnh mà cơ phát ra phụ thuộc vào:
- Số lượng đơn vị vận động (sợi cơ) tham gia vào căng cơ
- Chế độ co của đơn vị vận động (sợi cơ) đó


15

- Chiều dài ban đầu của sợi cơ trước lúc co
Khi số lượng sợi cơ là tối đa, các sợi cơ đều co theo chế độ co cứng và
chiều dài ban đầu của sợi cơ là chiều dài tối ưu thì cơ sẽ co với lực tối đa. Lực
đó gọi là sức mạnh tối đa, nó thường đạt được trong co cơ tĩnh - sức mạnh tối
đa của một cơ phụ thuộc vào số lượng sợi cơ và tiết diện ngang (độ đày) của
sợi cơ. Sức mạnh tối đa tính trên tiết diện ngang của cơ gọi là sức mạnh tương
đối. Bình thường sức mạnh đó bằng 0,5 - 1 kg/cm2.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sức mạnh: Sức mạnh tích cực tối đa (sức
mạnh tuyệt đối) của cơ chịu ảnh hưởng của hai nhóm yếu tố chính là:
- Các yếu tố trong cơ ở ngoại vi gồm có:
+ Điều kiện cơ học của sự co cơ
+ Chiều dài ban đầu của cơ
+ Độ dày (tiết diện ngang) của cơ
+ Đặc điểm cấu tạo của các loại sợi cơ chứa trong cơ
- Các yếu tố thần kinh trung ương điều khiển sự co cơ và phối hợp giữa
các sợi cơ và cơ.
Điều kiện cơ học của sự co cơ và chiều dài ban đầu của cơ trước lúc co
là các yếu tố kỹ năng của hoạt động sức mạnh. Hoàn thiện kỹ thuật động tác

chính là tạo ra điều kiện cơ học và chiều dài ban đầu tối ưu cho sự co cơ.
Do sức mạnh của cơ phụ thuộc vào tiết diện ngang (độ dày) nên khi tiết
diện ngang tăng lên thì sức mạnh cũng tăng lên.
Sợi cơ là một tế bào được biệt hố rất cao. Vì vậy sợi cơ có thể phân
chia để tạo ra tế bào mới. Sự phì đại xảy ra chủ yếu do các sợi cơ có sẵn dày
lên (tăng thể tích). Khi sợi cơ đã dày lên một mức nhất định chúng có thể tách
dọc ra để tạo thành những sợi con có một đầu gân chung với sợi cơ mẹ.
Sức mạnh bột phát của cơ phụ thuộc vào:


16

+ Lực co cơ tối đa: lực co cơ tối đa có tương quan tuyến tính với độ dài
của ơ cơ hoặc chiều dài của sợi myozin. Chiều dài của ô cơ và chiều dài của
sợi myozin mang tính di truyền và sẽ khơng biến đổi trong q trình phát triển
của cá thể và dưới ảnh hưởng của tập luyện.
+ Hàm lượng actin ở cơ có sự tương quan tuyến tính với tổng hàm
lượng creatin trong cơ. Cả hai chỉ số này có thể được sử dụng để kiểm tra sự
phát triển sức mạnh cơ và dự báo thành tích thể thao ở các bài tập sức mạnh
tốc độ.
+ Tốc độ co cơ tối đa phụ thuộc vào tỷ lệ các sợi cơ, sợi cơ trắng (sợi
cơ nhanh) co gấp 4 lần sợi cơ đỏ (sợi cơ chậm).
Tập luyện có khả năng thay đổi tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm, tức
là có sự chuyển hố sợi cơ chậm sang sợi cơ nhanh và ngược lại.
+ Sự thay đổi cường độ khi co cơ
Hoạt động của sức mạnh tốc độ bao gồm các dạng của bài tập thể lực
nhằm tạo cho một trọng tải ổn định, một vận tốc lớn nhất. Ví dụ trong các
mơn nhảy, trọng lượng cơ thể VĐV không đổi, độ cao hoặc độ xa của thành
tích nhảy phụ thuộc vào tốc độ chạy đà, độ chính xác và lực giậm nhảy. Trong
các mơn ném đẩy, trọng lượng của những dụng cụ cũng ổn định, VĐV cần

phải tác dụng một lực tối đa trong khoảng thời gian tối thiểu. Các hoạt động
sức mạnh - tốc độ VĐV cần phải gắng sức ở mức tối đa. Ngồi ra, hoạt động
loại này địi hỏi cơ phải có tính linh hoạt và phối hợp rất cao trong một thời
gian ngắn, vì vậy cịn gọi là sức mạnh bột phát.
Nhìn chung hoạt động sức mạnh - tốc độ tác động đến trạng thái chức
năng cơ thể tương đối yếu hơn. Trong các bài tập sức mạnh tốc độ, hệ máu
của VĐV hầu như khơng có gì biến đổi rõ rệt. Trong các mơn nhảy, tần số
nhịp tim có thể lên tới 140 - 150 lần/phút. Đặc biệt quan trọng nhất là nhịp
tim của VĐV sau khi kết thúc các bài tập sức mạnh tốc độ. Huyết áp của


17

VĐV tăng lên tuy không cao lắm, nhất là huyết áp tối đa (150 - 160 mm hệ
thống). Tần số hô hấp tăng lên không đáng kể sau khi kết thúc hoạt động, thể
tích oxy và hấp thụ oxy tăng lên ít nhiều. Các bài tập sức mạnh tốc độ là các
bài tập có cơng suất lớn được thực hiện trong một thời gian ngắn. Vì vậy năng
lượng được sử dụng chủ yếu là do phân giải ATP, CP dự trữ trong cơ. Nhu
cầu oxy không thỏa mãn trong quá trình hoạt động làm cho cơ nợ oxy lên tới
95%. Song thời gian ngắn nên tổng lượng oxy không lớn lắm. Nợ oxy vào
khoảng 20 - 30 lít trong hoạt động kéo dài 1 phút. Chức năng cơ quan bài tiết
và điều hịa thân nhiệt biến đổi khơng đáng kể trong các hoạt động sức mạnh tốc độ.
Các bài tập sức mạnh bột phát là các bài tập có cơng suất lớn được thực
hiện tromg thời gian ngắn. Vì vậy năng lượng được sử dụng chủ yếu là do
phân giải ATP và CP dự trữ trong cơ. Nhu cầu oxy khơng thỗ mãn trong q
trình hoạt động làm cho cơ nợ oxy lên tới 95%, song thời gian ngắn nên tổng
lượng oxy không lớn lắm. Nợ oxy vào khoảng 20 - 30 lít trong hoạt động kéo
dài 1 phút, chức năng cơ quan bài tiết và điều hoà thân nhiệt biến đổi không
đáng kể trong các hoạt động sức mạnh - tốc độ.
Trong thực tế giảng dạy và huấn luyện thể thao cần chú ý đến cơ chế

cải thiện sức mạnh bằng cách tiến hành các bài tập động lực, rồi sau đó tiến
hành các bài tập tĩnh lực, thường kết hợp cả hai hình thức co cơ đẳng trường
và co cơ đẳng trương.
Cơ sở sinh lý cơ bản để phát triễn sức mạnh là phải tạo ra nhiều đơn vị
vận động tham gia vào quá trình vận động hoặc có thể dùng phương pháp lặp
lại, nghĩa là nâng lặp lại vật nặng với trọng tải tăng dần. Khi dùng phương pháp
lặp lại ít hiệu quả thì dùng phương pháp căng cực hãm, ưu tiên dùng trọng
lượng nặng phối hợp với trọng lượng nhẹ sẽ cải thiện cơ bắp của người tập.


18

Mặt khác ở lứa tuổi THPT sự phát triễn về thể hình đã hồn thiện xong,
kích thước vỏ não và hành tủy đã đạt đến mức người lớn. Hoạt động phân tích
tổng hợp của vỏ não tăng lên, tư duy trừu tượng hình thành tốt nên việc tiếp
thu lĩnh hội các nguyên lý kỹ thuật cũng như mục đích tác dụng của các bài
tập thể chất đối với cơ thể của các em sẽ rất nhanh. Các em đã có thể thực
hiện tốt các bài tập có độ khó cao về kỹ thuật động tác. Ở lứa tuổi này sức
mạnh cơ bắp phát triễn với nhịp độ nhanh, các năm sau sức mạnh sẽ phát triễn
chậm lại nếu không được tập luyện. Vì vậy chúng ta phải có các bài tập hợp
lý nhằm duy trì và phát triễn sức mạnh cơ bắp cho các em để các em có một
cơ thể khỏe mạnh, cân đối. Tuy nhiên không nên tập các bài tập rút ngắn giai
đoạn, chun mơn hóa hẹp... sẽ gây nên những ảnh hưởng xấu. Vì vậy những
bài tập phát triễn toàn diện với lượng vận động tối ưu phải được ưu tiên sử
dụng trong các chương trình giảng dạy.
1.5.3. Đặc điểm tâm, sinh lý của nam học sinh THPT
1.5.3.1. Đặc điểm tâm lý của nam học sinh THPT
Ở lứa tuổi THPT thì các cơ quan hệ thống trong cơ thể cũng như các
chức năng tâm lý của các em vẫn còn tiếp tục phát triển. Biểu hiện như: các
em thường tỏ ra mình là người lớn, hiểu biết rộng và thích hoạt động, có

nhiều ước mơ và hoài bão trong cuộc sống, ở giai đoạn này do qua trình hưng
phấn chiếm ưu thế nên các em tiếp thu cái mới rất nhanh nhưng cũng có sự
biểu hiện chóng nhàm chán, chóng quên và các em dễ bị mơi trường ngồi tác
động vào và tạo nên sự đánh giá cao về bản thân. Khi thành công thường tỏ ra
vui vẻ, thậm chí tự kiêu, tự mãn, nhưng khi thất bại lại tỏ ra hụt hẫng và hay
thất vọng.
Như vậy, sự phát triển tâm lý là quá trình chuyển từ cấp độ này sang cấp
độ khác, ứng với mỗi cấp độ là ứng với từng giai đoạn lứa tuổi nhất định. Bởi
vậy, trong quá trình giảng dạy giáo viên đưa ra những định hướng đúng đắn, uốn


19

nắn, nhắc nhở các em, động viên các em hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời phải
có sự biểu dương, khuyến khích cũng như phê bình nhắc nhở kịp thời.
Trong q trình giảng dạy cần phải lựa chọn nội dung và phương pháp
có các định hướng đúng đắn nhằm tăng hiệu quả học tập, tránh sự nhàm chán
của người tập.
Qua những đặc điểm về tâm lý của học sinh THPT, ta thấy trong hoạt
động TDTT chúng ta phải uốn nắn, nhắc nhỡ và chỉ đạo, động viên các em
hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình giảng dạy, dần dần từng bước động
viên những em tiếp thu chậm từ đó làm cho các em tránh sự nhàm chán, có
định hướng đúng và hiệu quả tập luyện được nâng cao. Phải tìm biện pháp để
nâng cao hứng thú tập luyện tạo nên sự phát triển cân đối với từng học sinh và
giúp các em nâng cao được thành tích hiệu quả học tập.
1.5.3.2. Đặc điểm sinh lý của nam học sinh THPT
Ở lứa tuổi học sinh THPT cơ thể phát triển một cách mạnh mẽ, các cơ
quan trọng cơ thể có một số bộ phận cơ quan đã phát triển đến mức người lớn.
Sự phát triển tố chất sức mạnh phụ thuộc vào mức độ hình thành tổ
chức xương, cơ, dây chằng, tức là phụ thuộc vào bộ máy vận động. Sức mạnh

của các nhóm cơ phát triển khơng đều nhau. Các cơ phát triển mạnh ở các
nhóm duỗi, trong khi đó các cơ duỗi bàn tay, cổ tay phát triển yếu hơn. Bởi vì
theo nguyên tắc sức mạnh các cơ duỗi phát triển mạnh hơn các cơ co, các cơ
hoạt động nhiều thì phát triển nhanh hơn các cơ hoạt động ít.
- Hệ cơ:
Ở giai đoạn này hệ cơ phát triển với tốc độ nhanh để đi tới hoàn thiện
nhưng chậm hơn so với hệ xương, khối lượng cơ tăng lên rất nhanh, đàn tính
cơ tăng khơng đều, chủ yếu nhỏ và dài. Do vậy khi hoạt động cơ nhanh chóng
mệt mỏi vì chưa có sự phát triển về bề dày của cơ. Cho nên trong quá trình
tập luyện giáo viên cần chú ý để phát triển cân đối cơ bắp cho học sinh.


×