Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường lam sơn thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 41 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Cây mía (Saccharum officinarum L.) là cây công nghiệp có nguồn gốc nhiệt đới,
cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các ngành công nghệ chế biến đường ở nhiều nước
trên thế giới. Ở Việt Nam cây mía đang chiếm một vị trí quan trọng trong việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp phục vụ cho công cuộc
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Việt Nam thuộc khu vực Bắc bán cầu nằm trải dài từ 8 030’ - 23020’ vĩ độ
bắc, có tọa độ tương ứng với các nước trong khu vực trồng mía có năng suất cao
như Đài Loan là 456,1 tấn/ha, Ấn Độ 440,8 tấn/ha. Về vị trí địa lý của nước ta
thuộc khu vực có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc phát triển và khai thác
tiềm năng năng suất cao về cây mía, song năng suất mía bình quân chung cả nước
mới chỉ đạt 49,7 tấn/ha. Trong nhiều nguyên nhân làm năng suất mía thấp, thì
nhóm sâu đục thân mía làm giảm đáng kể về năng suất và chất lượng mía nguyên
liệu (Đỗ Ngọc Diệp, 2002).
Từ sau năm 1975 đến nay, đặc biệt trong 10 năm gần đây ngành mía đường
đang có bước tiến đáng kể về diện tích, năng suất, sản lượng. Các nhà khoa học đã
khẳng định, để nâng cao năng suất mía cần phải sử dụng các giống mới, kết hợp
với đầu tư thâm canh cao, bón phân hợp lý. Tuy nhiên kinh nghiệm thực tiễn sản
suất và kết quả nghiên cứu cho thấy: Sâu, bệnh cỏ dại và chuột là những nhân tố
gây nên tổn thất rất lớn cho năng suất, chất lượng mía, ảnh hưởng đến hiệu quả chế
biến đường của các nhà máy chế biến đường.
Theo tài liệu điều tra của ngành mía đường Việt Nam năm 2000, thiệt hại
làm giảm sản lượng do sâu: 17,1%, do bệnh: 11,5%, do cỏ dại: 11,8%.[Báo cáo
tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mía đường của Bộ NN&PTNT [2]
Hiện nay việc phòng trừ sâu đục thân hại mía đang gặp rất nhiều khó khăn,
vì cây mía là cây lưu gốc nhiều năm, bộ giống mía phong phú, địa hình trồng mía
đa dạng và sâu đục thân mía ẩn nấp ở nhiều bộ phận khác nhau trên cây mía và các
cây trồng khác nên công tác phòng trừ không đạt hiệu quả cao.
1



Công tác phòng trừ sâu hại cây trồng nói chung và sâu đục thân mía nói
riêng là tìm ra các biện pháp phòng trừ có hiệu quả không gây ô nhiễm môi trường
đạt mục tiêu: kinh tế - xã hội - môi trường. Thời gian qua, chương trình phòng trừ
dịch hại tổng hợp (IPM) đã được tiến hành trên nhiều loại cây trồng, với nhiều sâu
hại khác nhau, đã mang lại hiệu quả kinh tế, đảm bảo không gây ô nhiễm môi
trường. Việc tiến hành phòng trừ sâu đục thân hại mía theo hướng IPM cần nắm
vững hệ sinh thái đồng mía, mối quan hệ của cây mía với dịch hại và thiên địch
của chúng. Nguyên tắc chung của biện pháp này là bảo vệ và sử dụng các loài
thiên địch của sâu hại nhằm khống chế quần thể sâu hại phát triển dưới ngưỡng gây
hại kinh tế, bảo vệ cây trồng.
Cho đến nay, các nghiên cứu về sâu đục thân mía và sử dụng bọ đuôi kìm
trong phòng trừ sâu đục thân mía tại Bắc Trung Bộ hầu như chưa được quan tâm.
Có một số kết quả nghiên cứu đã công bố, nhưng vừa rất tản mạn về không gian và
thời gian, vừa quá lạc hậu với điều kiện sản xuất mới. Với những kết quả đã có
không thể xây dựng được quy trình hay mô hình phòng trừ sâu đục thân mía nào
phù hợp mang lại hiệu quả cao cho người trồng mía. Hiện nay, phần lớn người
trồng mía tại Thanh Hoá chưa chú trọng phòng trừ sâu đục thân, nếu có thì các
biện pháp phòng mang tính tự phát, riêng rẽ nên hiệu quả không cao, mà còn ảnh
hưởng đến môi trường, không bảo vệ và sử dụng được thiên địch trong tự nhiên, ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm theo hướng GAP.
Vì lẽ đó, để góp phần vào công tác nghiên cứu, giải quyết đòi hỏi cấp bách
của người trồng mía trong việc phòng trừ sâu đục thân và sử dụng bọ đuôi kìm
phòng trừ chúng tại Thanh Hoá. Chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng
sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá”
1.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩ thực tiễn
1. 2.1. Ý nghĩa khoa học:
Đề tài được tiến hành sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học về thành phần loài,
phân bố tác hại của sâu hại mía nói chung, sâu đục thân hại mía nói riêng. Cũng

như thành phần thiên địch của chúng tại ở vùng mía Thanh Hoá.
2


1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm cơ sở để xây dựng quy
trình quản lý tổng hợp sâu đục thân mía đáp ứng 3 yêu cầu kinh tế, xã hội, môi
trường tại vùng nghiên cứu.
1.3. Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.3.1. Mục đích
Đề tài tiến hành nhằm mục đích sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ sâu đục thân
hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá. Từ đó, đề xuất giải
pháp sử dụng bọ đuôi kìm thay thế thuốc hoá học trong việc phòng trừ sâu đục thân
mía hại mía.
1.3.2. Yêu cầu
- Điều tra thành phần sâu hại mía nói chung và sâu đục thân hại mía nói
riêng tại vùng nguyên liệu mía Đường Lam Sơn Thanh Hóa.
- Điều tra biến động mật độ bọ đuôi kìm qua các tháng trong thời gian thực
hiện đề tài.
- Bố trí một số công thức thí nghiệm nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi
kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía
1.4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
- Những nghiên cứu về thành phần và tình hình gây hại của sâu đục thân mía
Theo Hiệp hội Kỹ thuật Mía Đường Quốc tế (International Socienty of Sugar
Cane Technology - ISSCT), đến năm 1999 trên mía đã ghi nhận có 324 loài sâu gây hại.
Trong đó ngành chân khớp chiếm số lượng nhiều nhất (84,5%), tuyến trùng (4,9%),
gặm nhấm (5,9%), các loài khác (4,7%). [36]
Như vậy, trên phạm vi toàn thế giới, trong số các nhóm sâu hại mía, nhóm côn trùng
hại thân chiếm số đông nhất (49,7% tổng số loài đã phát hiện) trong đó nhóm sâu đục thân

mía luôn được đánh giá là sâu hại nguy hiểm nhất.

3


Thành phần sâu hại mía nói chung và sâu đục thân nói riêng không chỉ biến động
trên phạm vi toàn thế giới mà ngay trong một quốc gia cũng có sự biến động giữa vùng
này với vùng khác, giữa trước đây và sau này.
Ở Malaysia, kết quả điều tra thành phần của Lim và Pan từ 1970 - 1978
(1980) [40] cho thấy có khoảng 360 loài sâu hại mía thuộc 98 họ côn trùng. Trong
đó có 32 loài được đánh giá là quan trọng với cây mía. Trong 360 loài sâu hại mía
có 25 loài sâu đục thân mía, trong số này có 11 loài sâu đục thân mía đã được xác
định là sâu hại quan trọng đối với cây mía.
Ở Ấn Độ, theo Isaac (1937) [38] thành phần sâu hại mía có 79 loài, còn theo
Box (1953) [26] thì có 125 loài, theo Gupta (1957) [34] thì có 18 loài sâu chủ yếu
và 21 loài sâu thứ yếu. Theo David (1977) [30] riêng sâu đục thân mía có tới 9 loài
thường xuyên gây hại.
Ở Ấn Độ, theo Isaac (1937) [38] người ta đã sử dụng bọ đuôi kìm để phòng trừ
sâu đục thân mía kết quả cho thấy, khi thả bọ đuôi kìm vào lúc mía 2 tháng sau trồng,
với lượng 400 con/ha, 600 con/ha và 800 con/ha thì năng suất mía tăng lần lượt so với
đối chứng là 11,26%, 16,44% và 18,89% và lượng đường tăng lần lượt là 5,06%,
7,15% và 8,88%.
Ở Đài Loan, theo Cheng (1994) [29] nhóm sâu đục thân hại mía có 5 loài thường
xuyên gây hại là sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana, sâu đục thân 5
vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker,
sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu đục thân mình hồng
Sesamia inferens Walker.
Đánh giá về tình hình thiệt hại do sâu đục thân mía, theo Solomon et al. (2000)
[41] cho thấy các loài sâu đục mầm làm giảm 26,65% mầm cấp 1; 6,4% mầm cấp 2;
27,1% mầm cấp 3 và 75,0% mầm cấp 4, làm giảm 22 - 30% năng suất mía và 12,5%

hàm lượng đường. Theo Avasthy và Tiwari (1986) [20] ở Ấn Độ sâu đục thân 5 vạch
là loài gây hại chính yếu, loài này có thể làm giảm tỷ lệ mầm từ 30 - 75% ở các vùng
mía khác nhau. Theo Waterhouse (1993) [43] đã tổng kết rằng sâu đục thân mía gây
hại nặng ở Philippines, Cam-pu-chia và thường gây hại nặng cục bộ tại Lào và
Indonesia. Theo Solomon et al. (2000), các loài sâu đục ngọn là nguyên nhân làm
4


chết khoảng 10% số mầm và 3-4% số cây ở giai đoạn vươn lóng, làm giảm năng suất
từ 18,5-44,8% và 0,2-4,1 chữ đường (CCS).
Phương thức gây hại và thời kỳ cây mía bị sâu đục thân tấn công của các
loài sâu đục rất khác nhau. Các loài sâu đục lóng chủ yếu gây hại phần thân lóng,
nhưng cũng có thể gây hại phần đốt lóng. Triệu chứng gây hại của chúng khác
nhau, ví dụ: Sâu đục thân 4 vạch chủ yếu gây hại ở các lóng mềm còn bẹ lá
(d/Emmerez de Charmoy, 1917) [32]
Trọng lượng cây mía giảm khi bị sâu đục thân hại nặng và có thể bị chết do
thân bị thối và khô. Các lóng bị đục thường dễ gãy và các mầm nách phát triển
mạnh làm giảm độ đường trong cây mía (Gupta và Avasthy, 1960) [35]
Khi cây mía bị sâu đục thân gây hại thì hàm lượng đường saccaro, độ Brix,
Pol, Ap giảm đáng kể. Ngược lại, hàm lượng N, chất tro và chất nhựa tăng lên
(Box, 1929) [25]
- Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh, phát
triển của sâu đục thân hại mía
Theo kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học của sâu đục thân 4 vạch của các
tác giả Harris (1990) [37], Betbeder-Matibet (1990) [24], David (1980) [31] ở các
nước khu vực Ấn Độ Dương cho thấy: ngài thường vũ hoá tập trung trong thời gian
khoảng 4 giờ sau khi mặt trời lặn và hoạt động chủ yếu vào đêm, ngài cái thường chỉ
giao phối 1 lần duy nhất trong đời. Sau khi giao phối khoảng 1 đêm thì ngài cái đẻ
trứng với số trứng khoảng 850 quả. Chúng đẻ trứng thành ổ ở mặt trên hoặc dưới của
lá, đôi khi trứng còn đẻ cả trên bẹ lá, mỗi ổ trứng có từ 20-40 quả.

Các nghiên cứu về đặc điểm sinh học của sâu đục thân 5 vạch cho thấy: Trưởng
thành thường vũ hóa vào ban đêm, ban ngày ít hoạt động thường ẩn nấp bên dưới bẹ lá.
Ngài cái tiết pheromone dẫn dụ giới tính để thu hút ngài đực đến ghép đôi giao phối.
Ngài thường để trứng vào giữa đêm. Trứng đẻ thành ổ ở mặt dưới các lá còn xanh. Mỗi
ổ từ 2 - 4 hàng trứng, với trung bình 25 quả/ổ. Trong một đêm ngài cái thường đẻ
khoảng 400 quả trứng. Trứng sau khi đẻ 4 - 6 ngày thì nở, sâu non tuổi 1 phân tán bằng
cách nhả tơ đu sang cây khác để gây hại. Chúng rất thích ăn các đỉnh sinh trưởng và các
mô mềm gây nên hiện tượng nõn héo. Thời gian phát dục của pha sâu non (5-6 tuổi) từ
5


16 - 30 ngày, sau đó hóa nhộng ngay bên trong đường đục của thân cây (Harris, 1990
[37]; Butani, 1977 [27]; Avasthy và Tiwari, 1986 [20]; Kumar, K., S. C. Gupta, U. K.
Mishra, G. P. Dwivedi and N. N. Sharma (1987) [39]
- Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ
Theo Suhartawan và Wirioatmodjo (1996) [42] có thể áp dụng các biện pháp
phòng trừ như vệ sinh đồng ruộng và xử lý hom giống trong nước nóng 50 0C trong
2 giờ, sử dụng các giống mía chống chịu cao với sâu đục thân hoặc sử dụng các
loài ong mắt đỏ kí sinh pha sâu non và pha trứng. Ngoài ra cũng có thể dùng thuốc
hoá học như Carbaryl, Dicrotophos, Monocrotophos và Acephate để phun phòng
trừ sâu non.
Theo CABI (2000) [28] có thể dùng biện pháp cắt bỏ cây bị ngọn héo và giết chết
sâu non, biện pháp này tốn nhiều công lao động. Ngoài ra người ta còn có thể sử dụng ong
mắt đỏ Trichogramma chilonis để trừ trứng của sâu đục thân.
Theo (David, 1980) [31], sử dụng các hom giống sạch sâu để trồng, kết hợp với
việc bóc lá vào các thời điểm 5, 7 và 9 tháng sau khi trồng, hạn chế sử dụng quá nhiều
phân đạm, đồng thời tiêu úng với vùng ngập úng cũng hạn chế sự xuất hiện và gây hại
của sâu đục thân 4 vạch. Tăng cường sử dụng các giống mía chống chịu cao đối với sâu
đục thân 4 vạch như Co285, Co453, Co513, Co6860, Co915 để hạn chế thiệt hại do sâu
đục thân 4 vạch..

Đối với sâu đục thận mình hồng, các biện pháp phòng trừ như: Cắt bỏ cây bị
sâu, rút bỏ ngọn héo và giết chết sâu non bên trong, vun luống sớm ở giai đoạn cây
con và bạt gốc ngay sau khi thu hoạch đối với mía để lưu gốc. Đây là các biện pháp
tương đối đơn giản mà hiệu quả lại cao trong việc phòng trừ sâu đục thân mình hồng.
Biện pháp sinh học, có thể sử dụng loài ruồi kí sinh để trừ sâu ở giai đoạn sâu non.
Kết quả thử nghiệm trong phòng cho thấy, loài ruồi này có thể kí sinh với tỷ lệ khá
cao (84,4%) (David, 1980) [31].
Đối với sâu đục thân mía thì đã có nhiều nghiên cứu và sử dụng khá thành công
bọ đuôi kìm trong việc phòng trừ sâu đục thân hại mía. Kết quả nghiên cứu cho thấy
khi thả bọ đuôi kìm với lượng 400 con/ha thì tỷ lệ lóng bị hại giảm 64,58% so với đối
chứng và năng suất mía tăng 26,48% (David, 1980) [31].
6


* Những nghiên cứu về bọ đuôi kìm
Theo Easki Teiso et. al (1952) [69] Bọ đuôi kìm Dermaptera còn có tên
khoa học là Euplexoptera, Euplecoptera, Dermoptera, Labiduroida hay
Forficulida; tên tiếng anh là Earwigs.
Cơ thể kéo dài, kiểu đầu nhô về phía trước, hàm kiểu miệng nhai với râu đầu
nhiều đốt, mắt kép phát triển. Hầu hết trong bộ Dermaptera cánh ngắn, cánh ngoài
biến thái, gân cánh mịn, cánh trong dạng màng hình bàn nguyệt, gân cánh xếp hình
dẻ quạt. Các chân gân bằng nhau với 3 đốt bàn. Bụng 10 đốt, đốt bụng cuối cùng
kéo dài như cái kìm, theo Richard leung (2004) [109], bụng BĐK có 10 đốt ở con
đực (kể cả đuôi kìm), con cái có 8 đốt bụng. Máng đẻ trứng của con cái ngắn hoặc
tiêu biến tùy theo loài.
Bọ đuôi kìm được phát hiện ở hầu hết các nơi trên thế giới trừ những vùng
băng giá, rất phổ biến ở những vùng có khí hậu nóng ẩm. Có khoảng hơn chục loài
sống trong hang dơi vùng Châu á.
Có khoảng 1.200 loài đã được miêu tả, hầu hết chúng đều sống tự do, ăn tạp
(các côn trùng nhỏ), một số loài ăn chồi non thực vật nhưng khi xuất hiện con mồi

thì chúng lại chuyển sang ăn con mồi ngay. Bọ đuôi kìm thường sống ẩn nấp, chạy
nhanh, mặc dù có cánh nhưng không thấy chúng bay [69], chỉ tìm kiếm thức ăn
trên cây, ăn côn trùng nhỏ vào ban đêm [109].
Trưởng thành cái đẻ trứng vào trong ổ làm dưới đất, chúng có tập tính là
chăm sóc và bảo vệ trứng, thậm chí còn có hành động bảo vệ con 1 – 2 tuần sau
nở. Trong điều kiện ấm áp chúng đẻ nhiều, mùa hè chúng ít khi đẻ trứng, mùa đông
lạnh chúng đình dục hoàn toàn cho đến mùa xuân lại tiếp tục hoạt động, mỗi năm
BĐk thường có 7 lứa.
Pobham (1965) phân loại BĐK bộ Dermaptera theo kiểu hình giải phẫu bên
trong, theo cơ quan sinh dục ngoài và phân bố theo địa lý đã chia các loài BĐK
bắt mồi tập trung ở bộ phụ Porficulina gồm:
- Tổng họ Pygidicranoidea, tổng họ này sinh sống chủ yếu trog các kho
chứa ở các nước Asian, Australia, Nam Phi và Nam Mĩ.
7


- Tổng họ Karschilloidea rất lớn tập trung ở Nam Phi, tổng họ này chủ yếu
là BĐK ăn kiến.
- Tổng họ Labioidea có 3 họ là Labiidae, Carcinophoridea, Arixeniidea, họ
Labiidea phổ biến hơn, họ Arixeniidea gồm các loài kí sinh trên dơi.
- Tổng họ Forficuloidea có ba họ là

Chelisochidea, Labiduridea,

Forficuloi-dea trong đó họ Labiduridea phân bố rộng, giống

Labidura và

Euborellia phổ biến nhất
Theo Gullan, P.J. và P.S. Crranston (2000) có khoảng 1.800 loài bọ đuôi

kìm với 10 họ phân bố trên thế giới [73].
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Những nghiên cứu về thành phần và tình hình gây hại của sâu đục thân mía
Nhìn chung trước những năm 1990 công tác nghiên cứu về sâu đục thân hại mía ở
nước ta còn rất ít. Tuy nhiên, sau những năm 1990 đến nay, đặc biệt khi chương trình mía
đường được Nhà nước chú trọng, quan tâm là cây xoá đói giảm nghèo cho người dân
nông thôn miền núi thì các vùng nguyên liệu mới chú ý đưa các giống mới có năng suất
cao, đầu tư thâm canh công nghệ cao để theo kịp các nước trên Thế giới và khu vực, theo
đó công tác BVTV cũng được quan tâm.
Ở miền Bắc, theo Lương Minh Khôi (1963) [10] và Hồ Khắc Tín & CTV (1962)
[15] có 5 loài sâu đục thân hại mía thường xuyên là sâu đục thân mình vàng Eucosma
schistaceana, sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch
Proceras venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu
đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker. Trong đó sâu đục thân mình vàng, sâu đục
thân 4 vạch và sâu đục thân mình trắng là những loài phát sinh gây hại phổ biến nhất tại
Thanh Hóa và các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Theo Phạm Bình Quyền và CTV (1995) [1], ở miền Bắc có 2 loài sâu đục
thân mía phổ biến nhất là sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius
và sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker. Kết quả điều tra cho thấy số
lượng sâu non của sâu đục thân mình trắng cao hơn số lượng sâu non của sâu đục
thân 4 vạch (tương ứng là 70,0 - 77,2% và 22,3 - 30,0%). Tuy nhiên theo kết quả
điều tra trong 3 năm 2005, 2006 và 2007 của Nông trường Thống Nhất huyện Yên
8


Định Thanh Hoá là trong 5 loại sâu đục thân thì số lượng xuất hiện và gây hại
nhiều nhất là sâu đục thân 4 vạch tiếp đến là sâu đục thân mình vàng với tỷ lệ
tương ứng là 70,16 và 42,44%. Kết quả này cũng trùng với kết quả điều tra của
Nông trường Vân Du huyện Thạch Thành và Nông trường Sao Vàng huyện Thọ
Xuân tỉnh Thanh Hoá.

Theo kết quả điều tra của Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997) [7] tại
Nông trường Hà Trung tỉnh Thanh Hoá và Nông trường Đồng Giao tỉnh Ninh Bình
cho thấy trên các giống mới của Đài Loan ROC1, ROC9, ROC10 và ROC16 trong
niên vụ 1995-1996 cho thấy đã xác định được 19 loài sâu hại mía, trong đó có 5 loài
sâu đục thân mía, loài gây hại nặng nhất là sâu đục thân mình vàng và sâu đục thân 4
vạch.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn văn Hoan trong 3 năm từ 1998-2000
tại Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá gồm 7 huyện 4 Nông
trường, cho thấy thành phần sâu hại mía gồm 26 loài thuộc 7 bộ 12 họ. Trong đó,
nhóm sâu đục thân mía có 5 loài là sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana,
sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch Proceras
venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius và sâu đục
thân mình hồng Sesamia inferens Walker.
Kết quả điều tra của Đỗ Ngọc Diệp tại khu vực miền Đông Nam bộ năm
1987 cho thấy có 20 loài sâu hại mía. Trong đó, sâu đục thân có 5 loài chiếm 25%
tổng số loài đã xác định. Chúng bao gồm sâu đục thân mình vàng Eucosma
schistaceana, sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen, sâu đục thân 4 vạch
Proceras venosatus Walker, sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius
và sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker. Tại Viện Nghiên cứu Mía
đường Bến Cát, các kết quả điều tra của Nguyễn Đức Quang năm 1997 [13], Vũ
Hữu Hạnh năm 1995 [6] và Cao Anh Đương 1998 đều cho thấy trong thành phần
sâu hại mía có 5 loài sâu đục thân tương tự như kết quả điều tra của các tác giả
khác.

9


Kết quả điều tra trong phạm vi toàn quốc của Lương Minh Khôi từ 1992 1997 [8] cho thấy thành phần sâu hại mía có 27 loài trong đó nhóm sâu đục thân có
9 loài chiếm 33,33% tổng số loài đã xác định.
Trên các giống mía mới nhập về từ đài Loan và Trung Quốc hiện nay đang

được trồng phổ biến tại Thanh Hoá thì hầu hết đều bị sâu đục thân phá hại nhưng tỷ lệ
hại từ 2,52-5,88% nhỏ hơn giống F134 (giống cũ của Trung Quốc) là 11,5% và giống
MY55-14 của Cu Ba là 12,85%. Theo nghiên cứu của Lương Minh Khôi và Lê Thanh
Hải (1997) [7] cho thấy giống F134 bị sâu đục thân hại nặng hơn các giống ROC1,
ROC9, ROC10 và ROC16 từ 1,4 - 2,3 lần. Tuy nhiên theo báo cáo của Nông trường
Vân Du huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá cho thấy trong 4 năm từ 2004 - 2007 khi
đầu tư thâm canh cao thì các giống ROC, Việt đường, Quế đường có tỷ lệ sâu đục
thân từ 13,21- 17,68%.
Theo đánh giá của Nguyễn Huy Ước (1994) [19] thiệt hại do sâu đục thân
mía gây ra tại miền Đông Nam Bộ lên đến 20% năng suất mía. So sánh tỷ lệ bị sâu
đục thân gây hại giữa mía tơ và mía gốc cho thấy trên mía gốc bị gây hại năng hơn
trên mía tơ. Tương tự như vậy, kết quả thí nghiệm tại nông trường Hà Trung Thanh
Hóa và Đồng Giao Ninh Bình cho thấy tỷ lệ bị sâu đục thân phá hại trên mía gốc là
14% trong khi đó trên mía tơ là 8% (Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải, 1997) [7]
Theo Lê Song Dự và Nguyễn Thị Quý Mùi (1997) [5] sâu đục thân mình
vàng và sâu đục thân 4 vạch là những loài nguy hiểm nhất ở miền Bắc, có nơi các
loài sâu này làm thiệt hại năng suất từ 25 - 30%. Xét về các giống mía thì giống
F134 bị sâu đục thân phá hại năng hơn các giống việt đường, quế đường và các
giống ROC (Lương Minh Khôi và Lê Thanh hải, 1997) [7]
- Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh phát triển của
sâu đục thân hại mía
Theo nghiên cứu của Lương Minh Khôi (1997) [9] cho thấy:
- Loài sâu đục thân mình vàng Eucosma schistaceana phát sinh nhiều vào 20/4 và
20/5 còn từ tháng 6 trở đi ít gặp. Vòng đời: Trứng từ 4-6 ngày, sâu non 20-22 ngày,
nhộng từ 9-10 ngày, trưởng thàng từ 8-13 ngày. Bướm cái đẻ trung bình 173 quả
10


trứng/con. Sâu non bắt đầu gây hại chủ yếu từ khi mía mọc mầm và chiếm tỷ lệ 8,5%
các loài sâu đục thân.

- Loài sâu đục thân 4 vạch Proceras venosatus Walker phát sinh 6 đợt trong năm kéo
dài suốt quá trình sinh trưởng của cây mía. Vòng đời: Trứng từ 5-7 ngày, sâu non 20-26
ngày, nhộng từ 7-12 ngày, trưởng thành từ 3-7 ngày. Bướm cái đẻ trung bình từ 8-11 ổ
trứng, mỗi ổ khoảng 200 quả trứng. Sâu non bắt đầu gây hại khi mía mọc mầm nhưng
hại mạnh nhất khi mía vươn lóng. Tỷ lệ hại chiếm 71,8% các loài sâu đục thân.
- Sâu đục thân mình trắng Scirpophaga nivella Fabricius mỗi năm phát sinh 4-5
lứa. Vòng đời: Trứng từ 7-15 ngày, sâu non 31-61 ngày, nhộng từ 12-18 ngày,
trưởng thành từ 3-13 ngày. Sâu non phá hại mía cây, đặc biệt ở đốt ngọn, sâu non
đục từ ngọn mía xuống dưới, ăn điểm sinh trưởng, gây nên hiện tượng cây bị cụt
ngọn. Sâu hại khi cây mía được 220 ngày với tỷ lệ hại chiếm 61,0% các loài sâu
đục thân.
- Sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker trong năm phát sinh 5-6 lứa.
Vòng đời trong điều kiện mùa hè: Trứng từ 5-6 ngày, sâu non 20-30 ngày, nhộng từ
8-10 ngày, trưởng thành từ 5-6 ngày. Mùa đông vòng đời dài hơn. Mỗi bướm cái
đẻ khoảng 300 trứng. Sâu non phá hại ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng của cây mía.
Ở miền Nam sâu mình hồng nhiều nhất chiêm tỷ lệ 51,85% - 69,35% các loài sâu
đục thân mía.
- Sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus Snellen trong năm phát sinh 5-6 lứa.
Vòng đời trong điều kiện mùa hè: Trứng từ 3-5 ngày, sâu non 18-35 ngày, nhộng từ
7-8 ngày, trưởng thành từ 4-6 ngày. Mùa đông vòng đời dài hơn. Bướm cái đẻ
thành ổ, mỗi ổ có từ 250 - 300 trứng. Sâu non nở là phân tán, thường nhả tơ đu đưa
nhờ gió, di chuyển từ cây này sang cây khác để phá hại. Chúng phá hại mạnh trên
mía trồng vụ đông.
Theo Cục Bảo vệ Thực vật (1999) [4], loài sâu đục thân mình vàng thường
phát sinh 7 lứa trong năm, nhưng gây hại nặng nhất ở lứa 1 và lứa 2 (khoảng cuối
tháng 3, 4 và 5), gây mía mầm và mía bắt đầu vươn lóng, phát sinh gây hại nhiều
trên mía trồng đất ruộng và đất bãi. Sâu đục thân 4 vạch thường phát sinh 4-5 lứa
trong năm, sâu phá hại mía quanh năm từ khi mía mọc mầm cho đến khi thu hoạch.
11



Sâu đục thân mía 5 vạch thường phát sinh gây hại 5 đợt, nhưng có 2 đợt cao điểm,
cao điểm 1 từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 và cao điểm 2 từ cuối tháng 5 đến đầu
tháng 6. Sâu thường phát sinh gây hại nhiều trên đất đồi khô hạn. Sâu đục thân
mình trắng thường phát sinh 4-5 lứa trong năm, nhưng tập trung hại nhiều nhất ở
lứa 1 (tháng 5) và lứa 2 (tháng 6-7), lứa thứ 3 (tháng 8-9). Loài sâu đục thân mình
hồng là loài phát sinh gây hại sớm nhất trong ruộng mía và gây hại quanh năm, cả vụ mía
Đông, nhưng hàng năm phát sinh gây hại nhiều vào tháng 3-4, hại lúa mía đẻ nhánh. Ngoài
cây mía, sâu còn hại lúa, ngô và các cây trồng thuộc họ hoà thảo khác.
Tóm lại: Những kết quả nghiên cứu trong nước về đặc điểm sinh học và quy
luật phát sinh phát triển của các loài sâu đục thân mía chủ yếu ở miền Bắc tập
trung vào các loài sâu đục thân phổ biến, dễ nuôi như sâu đục thân mình hồng và
sâu đục thân mình vàng. Trong khi các loài sâu đục thân khác như sâu đục thân
mình tím và sâu đục thân 4 vạch lại chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều.
Nguyên nhân có thể là do các loài sâu này tương đối khó nuôi bằng thức ăn tự
nhiên, trong khi thức ăn nhân tạo lại chưa có.
Theo Lương Minh Khôi (1997b) [9], ở Việt Nam có 4 loài thiên địch chủ yếu
của nhóm sâu đục thân mía, chúng bao gồm: Ong mắt đỏ Trichogramma spp. Ký
sinh trứng sâu đục thân mía mình vàng, 4 vạch, 5 vạch và sâu đục thân mình trắng;
ong đen Telenomus sp. Ký sinh trứng các loài sâu đục thân mía mình vàng, 4 vạch,
5 vạch và mình trắng, nhưng ký sinh trứng sâu đục thân mình trắng nhiều hơn, ong
đen kiến trắng chân vàng Apanteles flavipes Cameron ký sinh pha sâu non các loại
sâu đục thân 5 vạch, 4 vạch và sâu đục thân mình hồng và bọ đuôi kìm ăn các loại
sâu non của sâu đục thân. Theo Phạm Bình Quyền và CTV (1995) [1] ở miền Bắc
chỉ có 2 loài thiên địch phổ biến của nhóm sâu đục thân mía là ong mắt đỏ
Trichogramma chilonis và ong đen Telenomus sp. ký sinh pha trứng các loài sâu
đục thân mình trắng và sâu đục thân 4 vạch.
- Những nghiên cứu về biện pháp phòng trừ sâu đục thân hại mía
* Biện pháp kỹ thuật canh tác:
Đây là biện pháp được nông dân trồng mía ở nhiều vùng áp dụng phổ biến

từ khá lâu. Theo các tác giả Hồ Khắc Tín và CTV (1982) [15], Lương Minh Khôi
12


(1997a [8] và 1997b [9]), Nguyễn Huy Ước (1994) [19], Phạm Văn Lầm (1999)
[11]... Các biện pháp này bao gồm:
+ Trước khi trồng mía, đất phải được cày bừa kỹ nhằm tiêu diệt mầm mống của sâu ẩn
náu trong đất, vùng đất thấp có thể cho nước ngập để diệt sâu.
+ Chọn hom, giống mía trồng: chọn các hom giống không có sâu hại và
chọn các giống mía có tính chống chịu sâu như các giống ROC, Việt đường CP3479, HN56-12, QĐ11 và F156.
+ Bón phân đầy đủ và cân đối cho mía mọc tốt. Chăm sóc làm cỏ kịp thời kể
cả trên các đường lô và bụi rậm xung quanh, nhằm loại trừ nơi ẩn náu của sâu. Nơi
có điều kiện lao động nên bóc là già, cắt chồi vô hiệu, loại bỏ mầm mống trứng ở
đó. Kết quả thí nghiệm của Viện Nghiên cứu Mía Đường (1996) [18] cho thấy
ruộng mía bóc lá kịp thời giảm tác hại của sâu đục thân từ 16,77 - 41,73% và tăng
năng suất mía lên 13,75% so với ruộng đối chứng.
+ Ruộng mía để gốc sau thu hoạch phải được cày lật đất kịp thời và cày sâu,
giết chết các loại sâu ẩn nấp trong gốc mía và dưới đất.
+ Bố trí thời vụ hợp lý: ở miền Bắc vụ xuân tốt nhất nên trồng mía trong
tháng 2, vụ đông tốt nhất là tháng 10-11 vì lúc trồng mía sẽ dễ dàng hơn, mía phát
triển trùng với các tháng có đủ lượng mưa, nhiệt độ và ánh sáng, đồng thời tránh
được các cao điểm phát sinh của sâu (Lương Minh Khôi, 1997a) [8]
* Biện pháp hoá học:
Sâu đục thân tuy phá hại nhiều và phổ biến, nhưng người trồng mía nói
chung ít chú trọng công tác phòng trừ. Đặc biệt, trong những năm gần đây khi các
vùng nguyên liệu mía đưa nhiều giống mới có năng suất, phẩm chất đồng thời chế
độ thâm canh cao thì sự phá hại của sâu đục thân là rất nặng nề và nghiêm trọng.
Hiện nay tại các vùng nguyên liệu mía khu vực Thanh Hoá, người trồng mía đã
tích cực phòng trừ các loài sâu đục thân. Theo Cục Bảo vệ thực vật [4] các loại
thuốc sử dụng chủ yếu là Diazinon 10H (rắc vào gốc khi vun với lượng 1020Kg/ha), padan 95SP (phun với lượng 0,8 - 1,0 lit/ha), supracide 40EC (phun với

lượng 0,8 - 1,0 lit/ha), sumithion (phun với lượng 1,0 - 1,5 lit/ha). Theo Lương
Minh Khôi (1997b) [9] có thể dùng các loại thuốc diazinon 10G lượng 20kg/ha
13


hoặc padan 4G lượng 20 - 30kg/ha rải vào luống khi trồng, cũng có thể rải vào gốc
khi vun, hiệu quả phòng trừ đạt tỷ lệ 64,1% so với đối chứng. Ngoài ra, có thể
dùng padan 95SP phun khi mía mọc mầm, đạt tỷ lệ trừ sâu 78,7%.
* Biện pháp sinh học:
Chủ yếu sử dụng ong kí sinh và bọ đuôi kìm. Nhìn chung biện pháp sinh học còn
chưa được chú trọng nhiều.

14


PHẦN II. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sâu đục thân hại mía.
- Bọ đuôi kìm (thiên địch của sâu đục thân mía)
- Khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để trừ sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên
liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra thành phần sâu hại trên một số giống mía tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá
- Điều tra thành phần sâu đục thân, mức độ gây hại của chúng đối với một số
giống mía được trồng chủ yếu tại vùng nguyên liệu Mía đường Lam Sơn Thanh Hóa.
- Điều tra biến động mật độ bọ đuôi kìm qua các tháng trong thời gian thực
hiện đề tài.
- Nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi Kìm để phòng trừ sâu đục thân hại mía
2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1 Thời gian địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2015
Địa điểm: vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
2.3.2 Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra nghiên cứu biến động mật độ bọ đuôi kìm được tiến hành
điều tra định kỳ 1 tuần/lần, để xác định biến động mật độ bọ đuôi kìm tại vùng
nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Phương pháp điều tra: chúng tôi điều tra cố định 5 hộ trồng mía tại nông
trường Sao Vàng . Ở mỗi hộ trồng mía, chọn 1 điểm đại diện, mỗi điểm chọn một
hàng dài 5m (theo hàng mía) tại đó điều tra các giống MY55-14, ROC10, ROC22
và viên lâm 6, trên cả mía tơ và mía gốc. Tại điểm điều tra tiến hành quan sát toàn
bộ cây để phát hiện những dấu vết hoặc triệu chứng bị hại (héo ngọn, khô đọt, lá có
vết bị hại, thân có lỗ đục, cây sinh trưởng còi cọc, đổ gãy...). Dùng dao chẻ dọc
những cây bị hại hoặc nghi bị hại, thu thập tất cả các loài côn trùng bắt gặp, kể cả
những cá thể đục trong thân cây. Ghi chép các thông tin về loài sâu gây hại.
15


Mức độ phổ biến của sâu đục thân và bọ đuôi kìm được đánh giá như sau:
- : Rất ít (<10% tần suất bắt gặp)
+: ít (10- 20% tần suất bắt gặp)
++: Trung bình (21- 50% tần suất bắt gặp)
+++: Nhiều (>50% tần suất bắt gặp)
2.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm trên diện tích hẹp thả bọ đuôi kìm, đánh
giá khả năng khống chế sâu đục thân hại mía của bọ đuôi kìm
Chọn ruộng ở cách xa ruộng trồng mía khác, có diện tích 1000m 2 , để thả bọ
đuôi kìm. Bọ đuôi kìm được mua từ Chi cục BVTV Nghệ An và chúng được thả
theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Ruộng đối chứng không thả bọ đuôi kìm, không
dùng thuốc BVTV, có cùng giống mía, tuổi mía, cùng chế độ canh tác như ruộng
thả bọ đuôi kìm. Sau khi thả bọ đuôi kìm, chúng tôi điều tra liên tục 7 ngày/lần, để

đánh giá và so sánh sự phát sinh, phát triển và gây hại của sâu đục thân hại mía
giữa hai ruộng.
Thí nghiệm nghiên cứu khả năng sử dụng bọ đuôi kìm để trừ sâu đục thân
hại mía được tiến hành với 6 công thức sau:
- Công thức 1: Đối chứng không phun thuốc, không dùng bọ đuôi kìm.
- Công thức 2: Thả bọ đuôi kìm với mức 400 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc
mía mới mọc mầm.
- Công thức 3: Thả bọ đuôi kìm với mức 600 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc
mía mới mọc mầm.
- Công thức 4: Thả bọ đuôi kìm với mức 800 con/ha. Bọ đuôi kìm được thả vào lúc
mía mới mọc mầm.
2.5. Công thức tính toán.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của thuốc hóa học:
+ Hiệu lực của thuốc hóa học ngoài đồng ruộng được tính theo công thức
của Henderson – Tilton:
16


Trong đó: E (%) Hiệu lực của thuốc
Ta : Số sâu sống ở công thức đối chứng sau khi phun thuốc
Cb : Số sâu sống ở công thức đối chứng trước khi phun thuốc
Ca : Số sâu sống ở công thức đối chứng sau khi phun thuốc
Tb : Số sâu sống ở công thức đối chứng trước khi phun thuốc
- Tỷ lệ mầm (cây) bị hại (%) = x 100
- Tỷ lệ lóng bị hại (%) = x 100

PHẦN III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
17



Bảng 1: Diễn biến khí hậu thời tiết
tháng
Chỉ tiêu
Nhiệt độ ( t0 )
Lượng mưa (mm)
Độ ẩm (%)

1

2

3

4

17,3
28,5
85

19,7
31,2
88

20,0
71,8
92

24,5
24,3
85


Nhiệt độ: Tháng 1 thấp dẫn tới thờ kỳ sinh trưởng phát triển của cây mía
chậm đấy là giai đoạn mía đang ở thời kỳ mầm và cây con. Nhiệt độ tháng 1 tới
tháng 4 tăng dần phù hợp cho cây mía sinh trưởng phát triển tốt.
Lượng mưa: Từ tháng 1 đến tháng 4 biến đổi không đều, lượng mưa thấp
nhất vào tháng 4 là 24,3 mm và cao nhất vào tháng 3 là 71,8 mm.
Ẩm độ: từ tháng 1 đến tháng tư biến đổi không nhiều, ẩm độ cao nhất vào
tháng 3 là 92%.
Nhìn chung nhiệt độ và độ ẩm khá cao chính vì vậy đã tạo điều kiện thuận
lợi cho dịch hại phát sinh phát triển và gây hại mạnh.
3.1. Thành phần sâu hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hoá
Thực tiễn sản xuất trong những năm gần đây cho thấy, mía bị rất nhiều sâu
hại tấn công, đặc biệt khi nâng cao trình độ canh tác, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào thâm canh mía công nghệ cao (năng suất: 100 - 150 tấn/ha với 10 - 13 độ
CCS), thì tình hình sâu bệnh càng phức tạp. Mía là cây trồng thích hợp cho nhiều
loại sâu bệnh tồn tại và phát triển.
Cho đến nay, các nghiên cứu về sâu đục thân mía và sử dụng bọ đuôi kìm
trong phòng trừ sâu đục thân mía tại Bắc Trung Bộ hầu như chưa được quan tâm.
Có một số kết quả nghiên cứu đã công bố, nhưng vừa rất tản mạn về không gian và
thời gian, vừa quá lạc hậu với điều kiện sản xuất mới. Với những kết quả đã có
không thể xây dựng được quy trình hay mô hình phòng trừ sâu đục thân mía nào
phù hợp mang lại hiệu quả cao cho người trồng mía. Hiện nay, phần lớn người
trồng mía tại Thanh Hoá chưa chú trọng phòng trừ sâu đục thân, nếu có thì các
biện pháp phòng tránh chỉ mang tính tự phát, riêng rẽ nên hiệu quả không cao, mà
18


còn ảnh hưởng đến môi trường, không bảo vệ và sử dụng được thiên địch trong tự
nhiên, để lại tồn dư thuốc BVTV trong sản phẩm quá ngưỡng cho phép, ảnh hưởng
đến sức khoẻ người tiêu dùng.

Tại vùng trồng nguyên liệu mía đường Lam Sơn Thanh Hóa chúng tôi đã
thu thập được 18 loài sâu thuộc 7 bộ và 13 họ côn trùng khác nhau, được trình bày
ở bảng sau:
Bảng 2: Thành phần sâu hại mía tại vùng Nguyên liệu mía đường Lam Sơn
Thanh Hóa
TT
I
1
2
3

Tên việt nam

Tên khoa học

Bộ cánh đều
Rệp xơ trắng
Rầy xanh lá mạ
Rệp sáp

Ceratovacuna lanigera
Zehntner
Empoasca flavescens
Fabr
Trionymus sacchari
Cockerell

Bộ cánh vảy
Sâu đục thân 4


Proceras venosatus

5

vạch
Sâu đục thân

Walker
Scirpophaga nivella F

6

bướm trắng
Sâu đục thân

Argyroploce

7

mình vàng
Sâu đục thân

schistaceana Snellen
Sesamia inferens

mình hồng
Bộ cánh bằng
Mối
Bộ cánh tơ


Walker

V
10

Bọ trĩ

biến

Eriosomatidae

+++

Cicadellidae

++

Coccidae

++

Lepidoptera

Odontotermes sp
Stenochretothrips
biformis (Bagnall)

Bộ cánh thẳng
Châu chấu


Mức độ phổ

Homoptera

II
4

III
8
IV
9

Bộ/họ

Pyralidae

++

Pyralidae

++

Eucosnidae

+++

Noctuidae

++


Isoptera
Termitidae
Thysanoptera

+++

Thripidae

++

Orthoptera
Parapleurus alliaceus
Gemar
19

Acrididae

++


11

Cào cào xanh

Acrida sp

lớn
12
VI
13

14
15

Dế mèn

Brachytrupes
portentosus Lich

Bộ cánh nửa
Bọ xít dài
Bọ xít xanh
Bọ xít gai

VII Bộ cánh cứng
16 Bọ hung đen

Acrididae

++

Gryllidae

++

Hemiptera
Leptocorisa acuta
Thunberg
Nezara viridula Linn
Cletus punctiger
Thunberg


Coreidae

++

Pentatomidae

+

Coreidae

+

Coleoptera
Alissonotum

17

đục gốc
Bọ hung nâu

impressicole Anow
Onthophagus suginoi

18

nhỏ
Cánh cam đục

Ochi

Anomala expensa

Scarabaeidae

++

Scarabaeidae

+++

Scarabaeidae
+
gốc
Bates
Qua bảng 2 ta thấy cây mía là cây trồng có tập đoàn sâu hại rất phong phú,

chúng gây hại trên tất cả các bộ phận của cây (gốc, thân, lá, ngọn) và trong cả quá
trình sinh trưởng, phát triển cho đến khi thu hoạch. Thành phần sâu hại mía mà
chúng tôi thu được bao gồm 7 bộ và 18 loài. Trong đó bộ cánh vảy nhiều nhất với
4 loài, bộ cánh thẳng, bộ cánh cứng, bộ cánh nửa và bộ cánh đều 3 loài, bộ cánh
bằng và cánh tơ mỗi bộ có 1 loài. Trong số đó thì nhóm sâu hay bắt gặp nhất là rệp
xơ trắng, sâu đục thân, bọ hung đen đục gốc…
3.2. Thành phần loài sâu đục thân hại mía và tỷ lệ cây bị hại
Cũng trong thời gian này chúng tôi đi sâu nghiên cứu thành phần và tình
hình gây hại của sâu đục thân trên mía tơ giống MY55-14. Kết quả điều tra được
trình bày ở bảng 3.
Bảng 3: Thành phần sâu đục thân hại mía tại vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn Thanh Hóa.
Tỷ lệ thành phần loài (%)
NT Sao

20

NT Sông

NT Thống


Loài sâu đục thân
Sâu đục thân mình
vàng
Sâu đục thân 4 vạch
Sâu đục thân mình
hồng
Sâu đục thân mình
trắng
Sâu đục thân 5 vạch

Vàng – Thọ

Âm huyện

Nhất – Yên

Họ

Xuân

Ngọc Lặc

Định


Eucosmidae

31,7

26,8

22,5

Pyralidae

26,6

31,3

19,7

Pyralidae

13,6

12,3

15,9

Pyralidae

18,7

19,2


31,9

Pyralidae

9,4

10,4

10,1

Hiện tại ở vùng chuyên canh mía Thanh Hóa chúng tôi đã xác định có 5 loài
sâu đục thân hại mía, chúng đều thuộc bộ cánh vảy. Trong 5 loài này có 4 loài
thuộc họ Pyralidae,1 loài thuộc họ Eucosmidae.
Kết qủa nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự kết quả điều tra
của tác giả Lương Minh Khôi và Lê Thanh Hải (1997).
So với kết quả điều tra của tác giả Phạm Bình Quyền và CTV (1995) ở miền
bắc thì thành phần sâu đục thân hại mía có thêm 3 loài đó là sâu đục thân mình
vàng Eucosma schistaceana, sâu đục thân mình hồng Sesamia inferens Walker,
sâu đục thân 5 vạch Chilo infuscatellus.
Khi so sánh với kết quả điều tra của Trung tâm bảo vệ thực vật miền Trung
(1995) thì thành phần sâu đục thân ở Thanh Hóa có thêm 1 loài đó là sâu đục thân
mình hồng Sesamia inferens.
Qua bảng 3 chúng ta nhận thấy được sự biến động về tỷ lệ thành phần loài
của các loài sâu đục thân hại mía ở các vùng chuyên canh mía. Qua đó ta cũng có
thể thấy được tình hình chung của tất cả các nông trường trồng mía.
Khi xét về tỷ lệ thành phần loài thì qua bảng 3 ta thấy loài sâu đục thân mình
vàng chiếm tỷ lệ thành phần loài cao nhất trong nhóm sâu đục thân ở các vùng
chuyên canh (22.5 – 31,7%), tiếp theo là loài sâu 4 vạch (19,7 – 31,3%), sâu mình
tím (18,7 – 31,9%), sâu mình hồng (12,3 – 15,9%) thấp nhất loài sâu đục thân 5

vạch (9,4 – 10,4%).
21


Ở mỗi nông trường khác nhau thì tỷ lệ thành phần loài cũng khác nhau, mức
độ khác nhau lớn hay nhỏ phụ thuộc vào trình độ thâm canh, tập quán canh tác của
nông dân tại vùng chuyên canh mía, vào các biện pháp kỹ thuật canh tác ví dụ như
tủ lá, bóc lá, đốt lá, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, đất đai.
Qua bảng 3 ta thấy: trong tổng số 5 loài sâu đục thân được phát hiện thì tại
nông trường Sao Vàng – Thọ Xuân loài sâu đục thân mình vàng chiếm tỷ lệ thành
phần phần loài lớn nhất (31,7%) tiếp đến là sâu 4 vạch (26,6%), sâu mình tím
(18,7%), thấp nhất là sâu mình hồng và sâu 5 vạch (13,6% và 9,4%), trong khi đó
tại nông trường Sông Âm huyện Ngọc Lặc sâu đục thân 4 vạch chiếm tỷ lệ cao
nhất (31,3%), tiếp đến là loài mình vàng (26,8%), sâu mình tím (19,2%) thấp nhất
là sâu mình hồng và sâu 5 vạch ( 12,3% và 10,4%) còn tại nông trường Thống
Nhất – Yên Định sâu đục thân mình tím lại chiếm tỷ lệ cao nhất (31,9%) tiếp đến
là sâu mình vàng (22,5%), sâu 4 vạch (19,7%), thấp nhất vẫn là loài mình hồng và
5 vạch ( 15,9% và 10,1%). Sỡ dĩ có sự khác biệt như thế là do tập quán canh tác
của nông dân. Việc đốt bỏ ngọn lá mía sau thu hoạch ảnh hưởng rõ rệt đến mật độ
các loài sâu đục thân hại mía. Đốt lá mía một mặt giết chết sâu hại trong tàn dư cây
bị hại mặt khác nó cũng giết chết nhiều loài thiên địch đồng thời cũng làm giảm
nguồn thức ăn của những cá thể còn sống xót, chính vì những lý do đó mà mật độ
quần thể thiên địch bị giảm mạnh, tạo điều kiện cho các loài sâu đục thân nhân
nhanh số lượng gây hại ở giai đoạn sau đặc biệt là loài sâu 5 vạch đục mầm. Bên
cạnh đó việc đốt lá còn làm cho tốc độ bốc hơi nước tăng lên trong các tháng mùa
khô, ruộng mía bị khô hạn nhanh hơn rất thuận lợi cho loài sâu 5 vạch đục mầm
phát sinh gây hại nặng. Hầu hết ở tất cả các nông trường trên đều không đốt ngọn
lá mía mà thay vào đó là việc tủ lá mía, không đốt ngọn. Vì vậy mà tỷ lệ thành
phần loài sâu đục mầm 5 vạch thấp nhất so với các loài sâu khác, song việc tủ lá
mía cũng là nguyên nhân làm cho tỷ lệ thành phần loài sâu đục thân mình tím ở các

nông trường cao. Sâu đục thân mình tím có đặc tính là đẻ trứng trên các lá mía nửa
khô hoặc đang khô, những ruộng mía có tủ lá sẽ thu hút loài sâu này đến đẻ trứng,
tích lũy số lượng và gây hại nặng. Vì thế mà tỷ lệ sâu mình tím tại các nông trường
cao hơn hẳn so với sâu đục mầm 5 vạch.
22


3.3. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân tại vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn
Thanh Hoá.
3.3.1. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ được trình bày ở
bảng sau:
Bảng 4: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía tơ tại vùng nguyên liệu mía
đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng

Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)
ROC10
ROC22
0
0
2.5
1.9
5.4
4.5

điều tra
1
2

3

MY55-14
0
3.7
6.8

4
5
TB

7.5
11.3

6.6
7.9

6.4
8.7

7.2
12.4

5.9

4.5

4.3

5.7


Từ bảng số liệu trên ta có biểu đồ sau :

Nhận xét:

23

Viên lâm 6
0
3.0
5.9


Kết quả ở bảng 4 và biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ gây hại sâu đục thân là khác
nhau trên cả 4 giống mía điều tra ở vụ mía tơ. Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao
nhất trên giống mía MY55-14 và Viên Lâm 6 lần lượt là (5.9 và 5.7%), trong khi
đó trên giống mía ROC10 và ROC22 tỷ lệ hại thấp hơn (4.5 và 4.3%). Theo chúng
tôi có thể do giống mía ROC10 và ROC22 là 2 giống mía cứng cây nên không phải
là thức ăn ưa thích của sâu đục thân.

3.3.2. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 được trình bày
ở bảng sau:
Bảng 5: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 1 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
1
2

3

Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)
MY55-14
ROC10
ROC22
Viên lâm 6
1.4
1.1
0.9
0.7
4.1
2.7
2.4
3.9
7.6
6.6
5.6
7.8

4
8.2
7.4
5
13.3
8.9
TB
6.9
5.3
Từ bảng trên ta có biểu đồ sau:

24

7.7
9.2

8.5
14.4

5.2

7.1


Nhận xét :
Kết quả ở bảng 5 và biểu đồ 2 cho thấy:
- Tỷ lệ gây hại sâu đục thân là khác nhau trên cả 4 giống mía điều tra ở
vụ mía tơ. Cụ thể như sau: tỷ lệ gây hại cao nhất trên giống mía MY55-14 và
Viên Lâm 6 lần lượt là (6.9 và 7.1%), trong khi đó trên giống mía ROC10 và
ROC22 tỷ lệ hại thấp hơn (5.3 và 5.2%). Theo chúng tôi có thể do giống mía
ROC10 và ROC22 là 2 giống mía cứng cây nên không phải là thức ăn ưa thích
của sâu đục thân
3.3.3. Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Kết quả điều tra tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2 được trình bày ở
bảng sau:
Bảng 6: Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân trên mía gốc 2 tại vùng nguyên liệu
mía đường Lam Sơn Thanh Hoá.
Tháng
điều tra
1

2
3
4
5
TB

Tỷ lệ gây hại của sâu đục thân (%)
MY55-14
ROC10
ROC22
Viên lâm 6
1.8
1.3
1.5
0.9
4.9
3.1
2.7
4.4
8.6
6.7
6.6
8.3
8.9
15.5

7.8
9.9

7.9

10.2

9.2
16.4

7.94

5.76

5.78

7.84

25


×