Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Biện pháp tham mưu tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi ở trường mầm non sơn điện 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 18 trang )

MỤC LỤC

STT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

Nội Dung
Bìa
Mục lục
Mở Đầu
Lý do chon đề tài
Mục đính nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của SKKN
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng


để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của các sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục với bản thân đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
2
2
3
3
3
3
6
6
7
8
8
15
15
16
18

0


1. Mở đầu

1.1 Lý do chọn đề tài:
Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam trên con đường phát triển hội nhập vào thế
giới, cả nước đang tích cực phấn đấu cho tương lai tươi sáng và vững chắc. Do
đó việc quan tâm và đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống
giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non có vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên đặt
nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ và chuẩn bị những
tiền đề cần thiết cho trẻ vào lớp 1. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển
của các bậc học khác, bậc học mầm non là một bậc học đã có nhiều đóng góp to
lớn, thực sự có trách nhiệm trong việc giáo dục thế hệ trẻ mai sau. Thấy rõ tầm
quan trọng đó, những năm gần đây Bộ Giáo Dục luôn chú trọng việc nâng cao
chất lượng giáo dục và coi chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là một trong những
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội.
Nhiệm vụ của trường mầm non là: "Tiếp nhận, chăm sóc và giáo dục trẻ
từ 0-5 tuổi". Các bé khi đến trường còn chưa biết đi, chưa biết nói, mọi sinh
hoạt ban đầu hoàn toàn nhờ vào cô giáo. Nhiều phụ huynh khi đưa con đến
trường còn vô cùng lo lắng, không biết các cô giáo mầm non có chăm sóc con
mình được chu đáo được hay không. Đặc biệt là với các cháu bị suy dinh dưỡng,
các bé biếng ăn các bậc cha mẹ không tránh khỏi những băn khoăn trăn trở,
đang giờ làm việc cũng tranh thủ đến xem con có khóc không, ăn có được nhiều
không? Những trăn trở của họ - chúng tôi, những cô giáo mầm non đều thấu
hiểu và thông cảm.
Như chúng ta đã biết hiện nay sự phát triển của xã hội ngày càng cao, nhu
cầu đòi hỏi của các bậc phụ huynh cũng tăng lên; đặc biệt là phụ huynh của các
cháu ở lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo lại càng có nhu cầu cao hơn, phụ huynh
muốn đưa trẻ đi học họ phải chọn trường, chọn lớp và chọn cô giáo. Một trong
những nhu cầu đầu tiên đó là trường. Nói đến trường có nghĩa là nói đến cơ sở
vật chất của nhà trường có đảm bảo môi trường, phương tiên, thiết bị và an toàn
cho trẻ được chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập, vui chơi hay không. Đứng ở góc độ
nhận thức là như thế; Tuy nhiên, thực tiễn trong những năm qua cũng như hiện
nay, cơ sở vật chất Trường Mầm non Sơn Điện 1vẫn còn nhiều khó khăn, chưa

đáp ứng được các nhu cầu của nhân dân, phụ huynh nêu trên.
Từ năm 2010 trường Mầm Non Sơn Điện 1 được chia tách từ Trường
Mầm Non Sơn Điện Xã Sơn Điện ra làm 2 trường. Các tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là ngành Giáo dục và các bậc phụ huynh học sinh rất phấn khởi vì được sự
quan tâm của Đảng, chính quyền các cấp đã có những chủ trương, chính sách
tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục MN phát triển.
Các trường MN đã được quan tâm đầu tư xây dựng kiên cố hoá trường học theo
hướng đạt chuẩn và hiện đại.
Song trước đây do nhận thức của nhân dân và điều kiện kinh tế xã hội của
các địa phương nói chung và của xã Sơn Điện nói riêng, việc cắt đất đầu tư xây
dựng các trường MN rất khó khăn hạn chế về mặt bằng, chủ yếu theo địa bàn
bản, mỗi bản xây dựng một trường MN rất nhỏ lẻ và manh mún. Nên việc đầu tư
các trang thiết bị cho các khu lớp cũng rất nghèo nàn và hạn chế.
1


Để việc đầu tư xây dựng trường lớp mới theo hướng tập trung nhưng để phù hợp
với người sử dụng đặc thù là trẻ MN và việc tăng cường đồ dùng trang thiết bị,
đồ chơi cho xứng tầm với các trường MN của vùng đặc biệt khó khăn cũng là
một vấn đề cho các cấp lãnh đạo và các nhà quản lý giáo dục.
Đứng trước những trăn trở đó, tôi đã mạnh dạn quyết định chọn đề tài: “Biện
pháp tham mưu Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi ở
trường mầm non Sơn Điện 1” để làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nhằm đưa ra một số biện phát góp phần xây dựng cơ sở vật chất trang thiết
bị, đồ dung đồ chơi ở trường Mầm Non, giúp các nhà quản lý có các giải pháp
để xây dựng cơ sở vất chất thuận lợi và hướng tới trường chuẩn quốc gia trong
những năm tiếp theo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng; Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dung đồ chơi Trường Mầm Non

Sơn Điện 1
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra khảo sát
Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp hội thảo
1.5 Những điểm mới của SKKN
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Trong những năm qua được các cấp lãnh đạo, chính quyền Đảng, Nhà nước
quan tâm, đầu tư bằng nhiều nguồn vốn đầu tư, mạng lưới trường lớp giáo dục
mầm non trên địa bàn đã có bước tiến đáng kể trong việc đầu tư, nâng cấp, cải
tạo xây dựng mới, đáp ứng một phần nhu cầu chăm sóc giáo dục và học tập của
trẻ, chính vì vậy giáo dục mầm non đã có những chuyển biến tích cực và đúng
hướng, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở tất cả các trường được từng bước
nâng lên.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của ngành học, mạng lưới trường lớp và cơ sở
vật chất trường học của giáo dục mầm non còn nhiều khó khăn, hầu hết các
phòng học, phòng chức năng còn thiếu và không đúng tiêu chuẩn, hơn nữa do
tác động của nhiều nhân tố nên nhu cầu gửi trẻ của nhân dân trong thời gian tới
sẽ không ngừng tăng lên, nhu cầu mạng lưới trường lớp phải tiếp tục đầu tư mở
rộng. Làm thế nào để giáo dục mầm non ngày càng phát triển, thực hiện tốt
nhiệm vụ chăm sóc giáo dục toàn diện cho trẻ dưới 6 tuổi, đồng thời đảm bảo sự
phát triển cân đối và toàn diện giữa các cấp học, ngành học trên địa bàn huyện.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Biện pháp1: Nghiên cứu các tài liệu về xây dựng CSVC và trang thiết bị
ở bậc học mầm non.
Đây là giải pháp đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với người quản lý.
Người quản lý phải nắm chắc được nội dung những yêu cầu cụ thể, các điều
kiện về CSVC, trang thiết bị của Trường mầm non thì mới xây dựng đúng kế
hoạch về CSVC, trang thiết bị và làm tốt các vấn đề khác.
Do đó tôi đã nghiên cứu Điều lệ Trường Mầm non các chương trình Giáo

dục mầm non ( Chương trình đổi mới hình thức, Chương trình Giáo dục mầm
2


non mới, Chương trình chỉnh lý nhà trẻ…) Tiêu chuẩn Trường mầm non đạt
chuẩn Quốc gia theo QĐ 36/2008/QĐ - BGD&ĐT. Quyết định về danh mục
thiết bị mầm non tối thiểu phục vụ chương trình thí điểm đổi mới.
Từ những căn cứ các tài liệu bản thân tôi rút ra những vấn đề cần thiết cho
CSVC, trang thiết bị để thực hiện các hoạt động của Trường mầm non theo yêu
cầu đổi mới và đi vào xây dựng kế hoạch cụ thể
Trường lớp CSVC khang trang sạch đẹp với đầy đủ các phương tiện thiết bị
phục vụ cho học tập và vui chơi là ước mơ của tất cả các bậc phụ huynh khi họ
gửi gắm con em tới trường.Để làm tốt công tác xây dựng CSVC nhà trường thì
việc làm trước tiên của người quản lý là phải làm tốt công tác tham mưu với các
cấp các ngành hiểu thêm về nhiệm vụ, chức năng của ngành học, của công tác
CSGD trẻ từ 0-5 tuổi.
Biện pháp2: Xây dựng kế hoạch xây dựng CSVC và trang thiết bị phù
hợp với thực tế của trường.
Đây là giải pháp đầu năm học đồng thời nó cũng xuyên suốt trong quá
trình hoạt động, không chỉ một tháng, một năm mà sau 5 năm, mười năm và
hướng cho cả tương lai của nhà trường. Là người Hiệu trưởng của một trường
học phải có cái nhìn bao quát tổng thể và có tầm nhìn chiến lược. - Xây dựng đề
án phát triển của nhà trường giai đoạn 2015 - 2020 cụ thể, rõ ràng, chính xác
trình Đảng ủy - HĐND - UBND xã.
- Làm kế hoạch phát triển từng năm học chính xác số liệu và lập kế hoạch
xây dựng CSVC và mua sắm trang thiết bị qua hàng năm.
- Hàng năm phải xây dựng kế hoạch qua thực tế số trẻ trong độ tuổi đến
trường, dự kiến bao nhiêu nhóm lớp, mỗi phòng học bao nhiêu cháu. Nguồn thu
bao nhiêu và làm những việc gì trước việc gì sau.
- Có kế hoạch xây dựng tổng thể CSVC, trang thiết bị:

+ Quy hoạch về diện tích đất đai, địa điểm xây dựng, thời gian hoàn thành
việc xây dựng và mua sắm trang thiết bị.
+ Quy hoạch về tổng số các phòng: số phòng học, số phòng chức năng,
công trình vệ sinh…phù hợp với số trẻ trong xã đến Trường mầm non theo Quy
định Điều lệ Trường mầm non.Có kế hoạch quy hoạch sân trường: Sân tập thể
dục, sân chơi an toàn giao thông, vườn cổ tích, hòn non bộ, khu vườn thiên
nhiên của bé…Tất cả các vấn đề trên hiệu trưởng phải có kế hoạch cụ thể rõ
ràng và phải thực sự đảm bảo nguyên tắc sử dụng lâu dài, không lạc hậu. Kế
hoạch này tuyệt đối không được mang tính chất tạm bợ mà phải có ý tưởng, có
kế hoạch cho tương lai và nó phù hợp với đặc điểm Trường Mầm non. Bên cạnh
kế hoạch xây dựng mới thì vấn đề mua sắm trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi góp
phần không nhỏ đảm bảo tốt các hoạt động ở Trường Mầm non. Vậy bản thân
tôi phải nghiên cứu xem mua những cái gì trước, cái gì sau?..
Khi có kế hoạch mua sắm đồ dùng trang thiết bị, điều đầu tiên phải quan
tâm đó là chất lượng( phải đảm bảo an toàn cho trẻ, đẹp, bền, có giá trị sử dụng
lâu dài). đồ dùng phải đảm bảo chất lượng còn về số lượng chưa có điều kiện thì
bổ sung dần trong năm hoặc năm tiếp theo. Tuyệt đối không được xem số lượng
trên chất lượng mà chất lượng bao giờ cũng được đặt lên hang đầu. Trường có
kế hoạch mua sắm đồ dụng phục vụ cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng, CSGD,
3


cho hoạt động vui chơi của trẻ như: Nhà lâu đài, Máy bay, Cầu trượt, Thang leo.
Cổng thể dục. Bàn ghế, các loại Giá góc, tủ tài liệu, loa đài…v..v.Các đồ dùng
trang thiết bị tương đối đầy đủ đảm bảo cho các hoạt động CSGD trẻ. Đồ dùng
trang thiết bị được lựa chọn phù hợp bậc học mầm non đồng thời đảm bảo tính
an toàn, đẹp và bền.
Biện pháp 3: Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục MN.
Như Bác Hồ đã nói: “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”

Vậy xuất phát từ đâu mà công việc càng khó và khó mấy mà có toàn thể
nhân dân cùng lo lắng, cùng chung sức thì công việc cũng trôi cháy và hoàn
thành? Đó chính là sự “Đồng tâm, đồng lòng” là sự tin tưởng vào chính quyền
địa phương vào nhà trường. Đối với nhà trường muốn làm tốt công tác Xã hội
hóa Giáo dục tham gia vào việc xây dựng CSVC. Nhà Trường đã quán triệt đội
ngũ để có một nề nếp chất lượng CSGD trẻ, mọi người, mọi ngành thấy được sự
cần thiết trong công tác đầu tư để xây dựng CSVC, trang thiết bị.
Công tác giáo dục là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của tất cả
các cấp, các ngành chứ không chỉ là của riêng ai.
Song để các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và nhân dân tin tưởng
hiểu rõ hơn về bậc học MN đó là nhiệm vụ của nhà trường, đội ngũ các cô giáo
MN. Chúng tôi xác định rằng chỉ có chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ thật tốt
mới có thể tạo được lòng tin và sự ủng hộ cao của các cấp các ngành và chính
quyền địa phương.
Biện pháp 4: Phát động giáo viên thi làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ
Với đặc điểm trẻ mầm non, tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế, đồ
dùng trực quan là không thể thiếu trong quá trình dạy trẻ, trẻ cần có đồ dùng để
hoạt động. Đặc biệt dạy theo chương trình MN mới hiện nay, trẻ được hoạt động
tích cực để trải nghiệm kinh nghiệm sống.
Cùng với việc làm tốt công tác tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền
xây dựng CSVC, đầu tư các trang thiết bị. Hàng tháng nhà trường phát động thi
làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ theo chủ đề, với yêu cầu: Đồ dùng, đồ chơi cần
đảm bảo an toàn, không gây nguy hiểm cho trẻ, đồ dùng không sắc nhọn, không
dễ vỡ, không làm xước da chảy máu trẻ, không dùng vật liệu độc hại.
Biện pháp 5: Làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh
nhằm tăng cường CSVC, đồ dùng trang thiết bị đồ chơi cho trẻ hoạt động.
Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong công tác nuôi dạy các
cháu là một việc làm thường xuyên được các nhà trường chú trọng nhất, đặc biệt
là bậc học MN.
Để làm tốt công tác này, từ nhiều năm nay chúng tôi tổ chức hoạt động Ban

đại diện cha mẹ học sinh ban hành Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh.
Hằng năm, tôi xây dựng kế hoạch cụ thể về nội dung tuyên truyền, số lượt tuyên
truyền, hình thức tuyên truyền tới toàn thể cán bộ giáo viên trong nhà trường.
Yêu cầu các nhóm lớp xây dựng kế họach và tổ chức tuyên truyền tới 100% các
bậc phụ huynh.
Ngoài ra tôi còn tranh thủ các buổi họp phụ huynh toàn trường và các buổi
họp ban đại diện phụ huynh học sinh để tuyên truyền những kiến thức nuôi dạy
4


con theo khoa học, những điều kiện và nhu cầu cần thiết về CSVC cho việc
CSGD trẻ trong trường MN. Từ đó, tôi kết hợp với hội phụ huynh học sinh vận
động hỗ trợ kinh phí tu sửa, cải tạo, xây dựng CSVC.
Việc quản lý, sử dụng, bảo quản tốt CSVC, trang thiết bị sẽ đem lại thành
công lớn cho nhà trường. Chính vì vậy khi công trình đang thi công thì Ban
giám hiệu nhà trường mà chủ yếu là Hiệu trưởng phải thường xuyên bám sát khu
vực thi công( mặc dù trường không nằm trong thành viên của ban giám sát).
Nhưng với trách nhiệm của người quản lý, với trách nhiệm trong công tác
chuyên môn thì Hiệu trưởng thường xuyên bám sát trong quá trình thi công, có
những ý kiến đóng góp kịp thời cho Lãnh đạo địa phương, cho thiết kế, cho Thợ
để công trình phù hợp và đúng theo yêu cầu của bậc học mầm non.
Khi công trình đã hoàn thiện và đưa vào sử dụng thì nhà trường phải sử dụng và
quản lý tốt: Thực hiện huy động tối đa điều kiện CSVC, trang thiết bị, đồ dùng,
đồ chơi đảm bảo tốt công tác CSGD, gắn trách nhiệm bảo quản sử dụng có hiệu
quả cho từng CBGV - NV.
Phân công cụ thể cho từng Cán bộ, giáo viên, nhân viên sử dụng, khai
thác, bảo quản CSVC và trang thiết bị theo đúng chức năng, đúng nhiệm vụ và
có hồ sơ sổ sách theo dõi đầy đủ theo quy định của Ngành. Hàng tháng, hàng kỳ
kiểm tra và lập văn bản về CSVC, trang thiết bị để có kế hoạch bảo dưỡng, tu
sửa và bổ sung kịp thời

2. Nội dung.
2.1 Cơ sở lý luận của sang kiến kinh nghiệm
Từ khi có Đảng ra đời, Đảng và nhà nước ta đã rất coi trọng sự nghiệp giáo
dục và đào tạo. Điều đó được thể hiện trong điều 35 Hiến pháp nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam: “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và
xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) khẳng định con đường đi lên CNXH của
nước ta và nêu ra phương hướng, mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành một
nước công nghiệp. Muốn vậy phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nghị quyết TW2 khóa VIII khẳng định:“Muốn tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-đào tạo, phát
huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”.
Sự phát triển của một quốc gia trong thế kỷ XXI sẽ phụ thuộc lớn vào tiềm
năng tri thức của dân tộc đó. Vì vậy coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển. Tạo điều kiện cho giáo dục phát triển một bước để đón đầu sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước và trào lưu hội nhập thế giới.
Song để giáo dục và đào tạo thật sự phát triển tốt thì cơ sở vật chất (CSVC)
và chất lượng đội ngũ nhà giáo có thể nói là 2 yếu tố cơ bản nhất có tính quyết
định. CSVC là yếu tố tiền đề cho sự phát triển của mỗi nhà trường.
Bậc học MN là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhiệm
vụ của trường MN là: "Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi". Yêu cầu phải đảm bảo đủ cơ sở vật chất, đủ về
thiết bị, đồ dùng đồ chơi cho trẻ theo Thông tư 02 của Bộ GD&ĐT.
2.2, Thực trạng đề trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm.
5


* Thuận lợi:
Trường Mầm non Sơn Điện 1 là một trường mới được chia tách từ trường

Mầm Non Sơn Điện 1đến nay vừa tròn 4 năm. Địa bàn xã thuộc xã biên giới Việt
- Lào, có 11 chòm bản /4.583 nhân khẩu/1.016 hộ, hộ nghèo 327 hộ, cận nghèo 56
hộ. Diện tích đất tự nhiên 94.049.7ha; Trong đó diện tích đất ruộng là 124 ha,
diện tích rừng 7.454.30 ha.
Nhà trường có 4 khu, khu chính đặt tại Bản Bun, các khu lẻ gồm: Khu Xa
Mang cách khu chính 7 km, Khu Na Hồ, khu Na Phường cách khu chính 7-10
km. Năm học 2017 - 2018 nhà trường có 16 nhóm lớp.
Trong năm học này nhà trường đã nhận được sự quan tâm của cấp uỷ
Đảng, chính quyền, các cơ quan ban ngành và nhân dân địa phương quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục Mầm non Sơn Điện nói chung, đặc biệt là trường Mầm
non Sơn Điện 1 nói riêng. Bên cạnh đó những năm gần đây nền kinh tế của địa
phương cũng có bước chuyển biến, nhận thức của nhân dân về bậc học Mầm
non cũng đã được coi trọng, chế độ chính sách cho giáo viên mầm non cũng đã
được quan tâm. Bởi vậy trong năm học này việc chăm lo cho giáo dục Mầm non
của xã Sơn Điện cũng được quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là công tác xã hội hoá
giáo dục.
- Nhà trường có đội ngũ cán bộ, giáo viên - nhân viên đạt trình độ chuyên
môn chuẩn 100 % và trên chuẩn chiếm 75 %.
- 100% cán bộ giáo viên trẻ, khỏe, có tinh thần trách nhiệm cao, chịu khó
học hỏi, tham gia học các lớp đào tạo trên chuẩn để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
- Nhận thức của các cấp, các ngành, của phụ huynh đối với ngành học được
nâng lên rõ rệt.
- Công tác xã hội hoá giáo dục MN được đẩy mạnh
* Khó khăn.
- Địa bàn trường rộng, đường xá đi lại khó khăn phức tạp, các chòm bản nằm
rải rác, có khu lẻ cách khu chính 10 km, bản cách bản từ 2 km - 7 km, hệ thống
thông tin liên lạc ở các khu bản lẻ chưa phủ kín. Chính vì vậy đôi lúc thông tin 2
chiều từ khu chính đến các khu lẻ chưa kịp thời.
- Điều kiện kinh tế xã hội, mặt bằng dân trí ở địa phương phát triển chậm,

không đồng đều. Chính vì vậy đã ảnh hưởng đến việc huy động công tác xã hội
hoá giáo dục từ phụ huynh đối với nhà trường và các hoạt động khác.
- Điều kiện cơ sở vật chất - trang thiết bị còn gặp rất nhiều khó khăn chưa
đáp ứng ứng yêu cầu giáo dục Mầm non.
- Đời sống của giáo viên, nhân viên hợp đồng huyện và hợp đồng địa
phương còn gặp nhiều khó khăn, chế độ hỗ trợ giữa giáo viên hợp đồng so với
giáo viên biên chế đang còn khoảng cách quá xa.
* Số liệu điều tra trước khi thực hiện.
Thời gian trong tháng 8/2017.

STT
Nội dung điều tra
1 Phòng học kiên cố
2 Phòng học tạm
3 Phòng học nhờ

Số lượng
0/16
15/16
1/16

Tỉ lệ
0%
100%
6.7%
6


4 Nhà bếp theo qui trình 1 chiều
0

5 Nhà hiệu bộ
0
6 Nhà để xe
0
7 nguồn nước sạch
2/4
50%
8 Máy vi tính
15/27
55%
9 Màn hình ti vi
5/16
31%
10 Bộ đồ dùng dạy học
9/16
56%
11 Đồ chơi ngoài trời
2/4
50%
2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề:
Để làm tốt công tác xây dựng CSVC nhà trường thì việc làm trước tiên
của người quản lý là phải làm tốt công tác tham mưu với các cấp các ngành hiểu
thêm về nhiệm vụ, chức năng của ngành học, của công tác CSGD trẻ từ 0-5 tuổi.
Mặc dù được quan tâm đầu tư xây dựng nhưng để có trọng tâm, trọng
điểm và đạt hiệu quả cao phù hợp với ngành học, nên sau khi đã được đầu tư
xây dựng 6 phòng học kiên cố cho khu Chính và 5 phòng học khu sủa Na
phường, Xa Mang, 2 phòng ở giáo viên cho sủa Na phường, Xa Mang , nhà
trường chúng tôi tiếp tục xây dựng kế hoạch về qui mô mạng lưới trường lớp
báo cáo trình Đảng uỷ-Hội đồng nhân dân- Uỷ ban nhân dân xã, có ý kiến phát

biểu trình bày tại các hội nghị của xã, của Bản với nội dung: Đề nghị xây dựng
nhà bếp, nhà hiệu bộ tại khu chính, xin dồn 3 bản Sủa, Na Phường và Na Hồ
vào 1 khu tại Na Phường.
Kế hoạch là vậy song ban đầu chúng tôi gặp không ít khó khăn vì tư
tưởng của 1 số cán bộ đặc biệt là phụ huynh học sinh MN rất cục bộ địa phương
cho rằng mỗi bản phải có 1 trường MN và việc gửi con học ở trường không nằm
trong địa bàn thôn mình thì như là phải đi học nhờ. Ngược lại bản mà chúng tôi
xin đặt địa điểm xây dựng trường thì một số người cho rằng bản của họ thiệt hơn
vì bị mất đất…….
Trước tình hình đó trong các buổi họp hội đồng nhà trường tôi đưa ra kế
hoạch xây dựng CSVC để mỗi CBGVNV hiểu rõ và là một tuyên truyền viên để
làm công tác tư tưởng với phụ huynh và nhân dân ở địa phương và tôi đã tổ chức
họp Ban đại diện cha mẹ học sinh của 3 bản, gặp gỡ trao đổi và cùng tham dự
hội nghị Ban công tác Mặt trận của bản Na Phường là nơi chúng tôi xin đất xây
dựng. Trong hội nghị tôi phát biểu về yêu cầu CSVC xây dựng trường học hiện
nay, với chủ trương xây dựng theo hướng tập trung, dồn khu lẻ để đầu tư có hiệu
quả. Tỉnh và Huyện xã sẽ ưu tiên xây dựng cho những nơi có qui hoạch đủ diện
tích đất, xây dựng các khu tập trung. Đặc biệt sẽ có đầy đủ các trang thiết bị đồ
dùng phục vụ việc CSGD trẻ, trẻ được học đúng độ tuổi, không phải học lớp
ghép như hiện nay: Được xã và các bản đồng tình ủng hộ, tháng 2/2017 nhà
trường đã được xây dựng tại khu chính nhà 6 phòng học nhà 2 tầng.
2.4, Hiệu quả của các sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với
bản thân đồng nghiệp và nhà trường.
Đến tháng 10 năm 2017 nhà trường được đoàn thiện nguyện ngôi trường
ước mơ đầu tư nhà lắp ghép với 5 phòng học và 2 phòng ở giáo viên, học sinh
7


tất cả đồ dung đồ chơi trong và ngoài nhóm lớp 2 khu Sủa Na Phương, Xa Mang
được đoàn thiện nguyện đầu tư khang trang, đầy đủ.

Đây là nguồn động viên lớn nhất trong quá trình công tác của tôi và tạo
điều kiện để nhà trường chúng tôi CSGD trẻ được tốt hơn.
Để công trình xây dựng sẽ phục vụ thiết thực hiệu quả hơn trong việc
CSGD trẻ. Mặc dù bản thân chỉ đi sâu làm công tác chuyên môn không có hiểu
biết về xây dựng nhưng tôi luôn theo dõi giám sát công trình xây dựng, mỗi
công trình thi công tôi đều xin 1 bản thiết kế bản vẽ xây dựng để nghiên cứu chỗ
nào không hiểu tôi gặp gỡ trao đổi hỏi đồng chí cán bộ phụ trách văn hoá xã có
rất nhiều kinh nghiệm trong kiến thiết xây dựng, đặc biệt với cấp học MN.
Qua nghiên cứu thiết kế bản vẽ, tôi thấy có 1 số điểm còn bất cập, chưa phù
hợp với tình hình thực tế hiện nay trong việc CSGD trẻ.
Ví dụ: Với công trình các phòng học ở khu Chính ngăn nhiều phòng nhỏ lẻ
không cần thiết, phòng học không vuông vắn chỉ được chiều dài,công trình vệ
sinh không phù hợp với lứa tuổi MN, hệ thống bể nước đặt bên trước nhà.
Để khắc phục các vấn đề trên, tôi đã trực tiếp có ý kiến đề xuất với UBND xã, lập tờ
trình gửi phòng GD, Ban quản lý dự án và UBND Huyện để được giúp đỡ. Mặc dù bản vẽ đã
được phê duyệt, mỗi lần thay đổi bổ xung là rất phức tạp, song UBND Huyện đã chấp nhận
cho thay đổi bổ xung 1 số hạng mục cho phù hợp theo đề nghị của nhà trường.

STT Nội dung thử nghiệm
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11


Phòng học kiên cố
Phòng học tạm
Phòng học nhờ
Nhà bếp theo qui trình
1 chiều
Nhà hiệu bộ
Nhà để xe
nguồn nước sạch
Máy vi tính
Màn hình ti vi
Bộ đồ dùng dạy học
Đồ chơi ngoài trời

Trước khi thử
Sau khi thử
nghiệm
nghiệm
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
0/16
0%
11
68%
16/16
100%
5/16
1/16
6.7%
0
0

0
1
0
3/4
1/15
8/15
10/15
3/4

0,62
75%
6.6%
53.3%
66.6%
75%

3
1
4/4
5/14
12/14
14/14
4/4

18%
25%
100%
35.7%
85.7%
100%

100%

Tăng, giảm
Tăng 68%
Giảm 68%
Giảm 6.7%
Tăng 11,8
Tăng 25%
Tăng 25%
Tăng 29.1%
Tăng 32.4%
Tăng 33.4%
Tăng 25%

8


6 phòng học ở khu chính đang được xây dựng và chuẩn bị hoàn thiện.

Trường được xây dựng bằng lắp ghép tại khu Sủa - Na Phường

9


Lễ Khánh thành và bàn giao cho nhà trường sử dụng nhà lắp ghép tại
khu Sủa Na Phường.

Đoàn thiện nguyện Ngôi Trường ước mơ trao quà cho học sinh và giáo viên Khu
Sủa - Na Phường - Xa Mang.
Chúng tôi xác định rằng chỉ có chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ thật tốt

mới có thể tạo được lòng tin và sự ủng hộ cao của các cấp các ngành và chính
quyền địa phương.
Với các khẩu hiệu thi đua trong nhà trường: “ Nuôi tốt- dạy tốt- yêu thương
các cháu như chính con em ruột thịt của mình. Cô duyên dáng mẫu mực- bé
khoẻ đẹp lễ phép. Mỗi ngày đến trường là một ngày vui của bé….”
Thông qua việc tổ chức tốt các này hội đến trường của bé, các hội thi giáo viên
giỏi các cấp, thi bé khéo tay, chương trình liên hoan văn nghệ mừng ngày hội
10


ngày lễ, chào mừng các ngày hội làng, tết trung thu… đã khẳng định chất lượng
thực của nhà trường.

Chủ tịch UBND xã Lục Hải Vân ý kiến phát biểu
Và chúc mừng nhà trong ngày khai giảng năm học mới.
Ngoài các buổi dự họp và phát biểu đi sâu về công tác GDMN ở hội nghị
của xã và các thôn, hàng năm trong buổi lễ khai giảng năm học mới và lễ kỷ
niệm ngày nhà giáo Việt nam 20-11. Chúng tôi mời đại biểu đại diện Đảng uỷHĐND-UBND, các ban ngành của xã. Đặc biệt với đặc thù bậc học MN chúng
tôi mời các ông bà bí thư chi bộ, trưởng bản, chi hội trưởng các chi hội trong bản
cùng về dự. Qua đây chúng tôi tạo được niềm tin trong cán bộ và nhân dân địa
phương qua các thành tích, các con số biết nói, như số lượng trẻ ra lớp, ăn ngủ
tại lớp ngày càng đông, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng (SDD) ngày càng giảm.
Cụ thể: Năm học 2017-2018: Số trẻ ra lớp 219 cháu, đạt tỉ lệ NT 78%,
MG 100% các cháu trong độ tuổi ra lớp. Các cháu ăn ngủ tại lớp đạt 76%, tỉ lệ
SDD còn 10.9%, 9 cô thi đạt GVG, giáo viên giỏi cấp trường, 3 đề tài SKKN
được xếp loại cấp Huyện.
Bên cạnh những thuận lợi và thành tích đạt được báo cáo trong hội nghị,
chúng tôi còn nêu những khó khăn, thiếu thốn về CSVC, đồ dùng trang thiết bị
phục vụ hoạt động CSGD trẻ, cụ thể như còn thiếu màn hình ti vi, vi tính….Vào
đầu năm học tôi làm đơn đề mghị xin hỗ trợ kinh phí gửi các Ban chi uỷ- Ban

lãnh đạo, bố trí cùng với cô tổ trưởng khu lớp và ban đại diện phụ huynh học
sinh cùng đi tham mưu đề nghị.
Một kết quả đáng mừng lớn nhất là chúng tôi đã tạo được niềm tin tưởng
tuyệt đối về công tác CSGD trẻ đối với các cấp các ngành và các tầng lớp nhân
dân. Cứ chuẩn bị bước vào năm học mới các cấp lãnh đạo địa phương rất quan
tâm chỉ đạo các nhà trường trong công tác chuẩn bị CSVC, hội khuyến học của
các bản, các dòng họ tổ chức lễ phát thưởng cho học sinh giỏi từ bậc học MN.
Cùng với việc làm tốt công tác tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền xây
dựng CSVC, đầu tư các trang thiết bị. Hàng tháng nhà trường phát động thi làm
đồ dùng, đồ chơi phục vụ theo chủ đề, với yêu cầu: Đồ dùng, đồ chơi cần đảm
bảo an toàn, không gây nguy hiểm cho trẻ, đồ dùng không sắc nhọn, không dễ
vỡ, không làm xước da chảy máu trẻ, không dùng vật liệu độc hại.
11


Giáo viên và trẻ sưu tầm nguyên liệu, phế liệu để làm đồ chơi như các loại
vỏ hộp, tranh lịch, vải vụn, gỗ, nhựa, xốp…VD: Vào đầu mỗi chủ đề, cô giáo
giới thiệu cho trẻ những nội dung sẽ được học, để cô và trẻ cùng chú ý sưu tầm
nguyên liệu, phế liệu phù hợp.
Với các loại vỏ hộp, gỗ nhựa…có thể dùng thường xuyên trong quá trình
vui chơi, học tập của trẻ.
Tổ chuyên môn sưu tầm một số các mẫu đồ dùng, hướng dẫn cho giáo
viên làm theo từng khối lớp .
Định hướng cho giáo viên tham khảo cách hướng dẫn làm đồ chơi trên ở
các chương trình thường được phát trên sóng vô tuyến.
Phô tô các hình ảnh, mẫu vật theo chủ đề cho các lớp, giáo viên và trẻ tô
màu, bổ xung hoàn thiện đồ dùng phong phú, sáng tạo.
VD: Thế giới thực vật: Hình ảnh các loại hoa, quả, rau, các loại cây xanh…
Thế giới động vật: Các con vật sống dưới nước, trên cạn, vật nuôi trong gia
đình, các con vật sống trong rừng…

Giáo viên tổ chức tốt hoạt động chung, các giờ dạy trẻ, sử dụng sản phẩm học
tập của trẻ để làm đồ dùng cho các hoạt động.
VD: Hoạt động tạo hình: Xé dán hình con cá, bông hoa…
Dùng cho giờ học toán: Đếm số lượng cá, hoa…
Giáo viên hướng dẫn trẻ làm đồ dùng tự tạo: Cắt dán trang trí vỏ hộp, dán hột
hạt, bằng các nguyên liệu giấy màu thành các đồ vật, con vật trưng bày các góc
học tập.
VD: Dùng lọ dầu rửa bát dán quai làm phích nước, nối các vỏ hộp thạch sữa
chua làm các đoàn tàu để học toán, so sánh dài hơn, ngắn hơn.Cắt dán hình con
cá, bông hoa, quả…
Dùng các vỏ hộp bánh bằng sắt dán trang trí thành bộ trống học môn âm
nhạc.
Ban giám hiệu đi kiểm tra vào đầu chủ để và cuối mỗi chủ đề, xem số lượng
đồ chơi tự tạo có phong phú và phù hợp với chủ đề không. Hàng tháng động viên
khen thưởng giáo viên được xếp loại tốt về làm đồ chơi cho trẻ.
Tận dụng các vận liệu sẵn có ở địa phương như tranh, tre, nứa, lá để tạo thành
các ngôi nhà sàn,các hộp, chai lọ …được vệ sinh sạch sẽ để làm đồ chơi cho trẻ
theo từng góc hoạt động ở trong và ngoài nhóm lớp.

12


Đồ chơi tự tạo
Hằng năm, tôi xây dựng kế hoạch cụ thể về nội dung tuyên truyền, số lượt
tuyên truyền, hình thức tuyên truyền tới toàn thể cán bộ giáo viên trong nhà
trường. Yêu cầu các nhóm lớp xây dựng kế họach và tổ chức tuyên truyền tới
100% các bậc phụ huynh. Ngoài ra tôi còn tranh thủ các buổi họp phụ huynh
toàn trường và các buổi họp ban đại diện phụ huynh học sinh để tuyên truyền
những kiến thức nuôi dạy con theo khoa học, những điều kiện và nhu cầu cần
thiết về CSVC cho việc CSGD trẻ trong trường MN. Từ đó, tôi kết hợp với hội

phụ huynh học sinh vận động hỗ trợ kinh phí tu sửa, cải tạo, xây dựng CSVC.
Đầu năm học, chúng tôi chỉ đạo các lớp họp phụ huynh học sinh, triển khai kế
hoạch năm học, trong đó nêu rõ yêu cầu một số các danh mục học phẩm, đồ
dùng đồ chơi phục vụ học tập cho các cháu và mục đích của việc tạo môi trường
cho trẻ hoạt động nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục theo chương trình chăm sóc
giáo dục hiện nay.
Hết học kỳ I, họp phụ huynh lần 2 để thăm CSVC, môi trường học tập của
trẻ. Trước khi vào cuộc họp, mỗi lớp tổ chức một hoạt động học cho trẻ, như:
Làm quen môi trường xung quanh, làm quen với toán, làm quen chữ cái…Theo
13


chủ đề đang thực hiện, để phụ huynh dự và hiểu rõ hơn về yêu cầu CSGD trẻ ở
trường MN…Từ đó, phụ huynh nhiệt tình đóng góp, ủng hộ nguyên vật liêu, phế
liệu để làm đồ chơi cho trẻ.
Để thực sự: “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui của bé”.
3.1 Kết luận.
Bài học kinh nghiệm rút ra sau khi thực hiện đề tài.
Công tác xây dựng CSVC trang thiết bị là việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi
người Hiệu trưởng phải có lòng kiên trì và nhẫn nại.
Tích cực nghiên cứu học tập, thâm nhập thực tế, tiếp thu cái mới đáp ứng
yêu cầu của bậc học. Nắm chắc các văn bản quy định về cơ sở vật chất, trang
thết bị Trường mầm non theo hướng đổi mới và biết vận dụng sáng tạo thực tế ở
trường mình.Biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các ban ngành đoàn thể, lực
lượng toàn xã hội để không ngừng tạo cảnh đẹp cho trường.
Công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương, tham mưu chọn đúng thời cơ,
đúng đối tượng làm cho các cấp Lãnh đạo hiểu và nhận thức đúng đắn về vấn đề
xây dựng CSVC và trang thiết bị Trường Mầm non. Từ đó đề ra chủ trương sát
đúng với thực tế.Trong quá trình xây dựng phải thường xuyên bám sát công
trình để có ý kiến đề xuất kịp thời tránh lãng phí cho địa phương và không phù

hợp với Trường Mầm non.Để nhanh chóng thành công phải mạnh dạn, linh
hoạt, biết lắng nghe ý kiến và chọn lọc ý kiến để chỉnh bổ sung phù hợp với yêu
cầu nhiệm vụ hiện nay.Coi trọng công tác xã hội hóa Giáo dục, công tác tuyên
truyền là sức mạnh tổng hợp quan trọng đưa lại hiệu quả. Công tác xã hội hóa
phải có nội dung công việc cụ thể cho từng đoàn thể tham gia vào việc xây dựng
CSVC và trang thiết bị của Trường Mầm non.Tăng cường kiểm tra CSVC, trang
thiết bị hàng kỳ, hàng năm có kế hoạch bổ sung bảo quản sử dụng tốt.Chỉ đạo
đội ngũ giáo viên làm và bảo quản đồ dùng đồ chơi phù hợp cho việc CSGD.
Một là: Người cán bộ quản lý nhất là người hiệu trường phải làm tốt công
tác tham mưu. Có làm tốt công tác tham mưu thì nhà trường mới đón nhận được
sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương ủng hộ trong việc tạo
điều kiện về diện tích đất, xây dựng cơ sở vật chất nhà trường thực hiện tốt
nhiệm vụ CSGD trẻ.
Hai là: Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Để làm tốt công tác
xây dựng cơ sở vật chất nhà trường, chúng ta cần phải phối hợp chặt chẽ với các
ban ngành chức năng và cộng đồng xã hội trong việc CSGD trẻ. Có được sự ủng
hộ của các các ban ngành chức năng và cộng đồng xã hội về kinh phí xây dựng
CSVC thì sự nghiệp giáo dục của nhà trường như được chắp thêm cánh để đi
đến thành công.
Ba là: Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo viên qua
các hội thi làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ là một việc làm cần thiết để tăng
cường đồ dùng đồ chơi trong nhà trường. Giúp cho giáo viên có trình độ, vững
vàng về chuyên môn nghiệp vụ tay nghề, có tâm huyết, năng động sáng tạo để
truyền thụ kiến thức cho trẻ một cách tốt nhất.
Bốn là: Cần phải phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Để đạt
được điều đó đòi hỏi phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động tới toàn thể
các bậc phụ huynh để họ nhận thức đúng dắn về ngành học từ đó họ xác định
14



được vai trò, trách nhiệm của gia đình đối với việc tăng cường CSVC các trang
thiết bị trường học để CSGD con em họ ngày càng tốt hơn.
3.2. Kiến nghị
2.1. Đối với UBND huyện.
Để từng bước xây dựng CSVC, đầu tư trang thiết bị nhà trường đáp ứng
nhu cầu CSGD trẻ, đề nghị UBND huyện tiếp tục đầu tư xây dựng cho nhà
trường khu bếp một chiều tại khu chính và các hệ thống sân vườn, nhà công vụ
cho giáo viên tại khu chính.
Trước khi đầu tư xây dựng đề nghị UBND huyện, Ban quản lý dự án xây
dựng Huyện nên lấy ý kiến của nhà trường trong việc thẩm định thiết kế bản vẽ,
nhằm công trình xây dựng khi đưa vào sử dụng sẽ phù hợp với nhà trường và
bậc học hơn không phải thay đổi bổ sung khi thi công xây dựng.
2.2. Đối với phòng GD&ĐT.
Hàng năm phòng GD&ĐT tham mưu đàu tư trang cấp bổ sung một số bàn
ghế, thiết bị đồ dùng dạy học, máy vi tính cho các trường MN.
Thường xuyên tổ chức cho cán bộ quản lý và giáo viên cốt cán đi tham
quan học tập kinh nghiệm tại các trường MN đạt chuẩn quốc gia trong và ngoài
tỉnh.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, đồ dùng trang thiết bị, đồ chơi ở trường mầm non Sơn Điện 1. Đã áp
dụng đạt kết quả tốt trong năm học 2017 - 2018 và sẽ được phát huy, áp dụng,
thực hiện tốt trong những năm học tiếp theo.
Kính mong Hội đồng khoa học các cấp xét duyệt và giúp đỡ tôi hoàn
thành đề tài, áp dụng đạt hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Quan Sơn, ngày 12 tháng 04 năm2018
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép nội dung của người khác.


Vi Thị Chiến

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Luật Giáo dục
2. Điều lệ trường MN.
3. Chương trình hướng dẫn chăm sóc giáo dục trẻ.
4.Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII. Chính trị quốc gia .
Hà Nội 1996.
5. Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 BCHTW khoá VIII. Chính trị quốc gia .
Hà Nội 1997.
6. Giáo trình. Phần1. Đường lối chính sách. Trường cán bộ quản lý
GD&ĐT.
7. Kế hoạch nhiệm vụ năm học 2017 - 2018.
8. Nghị quyêt số 08/NQ - HU về việc Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo huyện Quan Sơn đến năm 2020

16


17



×