Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng tuổi thông qua kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 25-36
THÁNG TUỔI THÔNG QUA KỂ CHUYỆN Ở TRƯỜNG MẦM
NON THỊ TRẤN QUAN SƠN

Người thực hiện: Lò Thị Thắm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thị Trấn
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

1


THANH HÓA NĂM 2018
Mục lục

Trang

1.Mở đầu

3

1.1. Lý do chọn đề tài

3



1.2. Mục đích nghiên cứu

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu

4

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

5

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

5

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

5

nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng

6


2.4. Hiệu quả đề tài đối với hoạt động giáo dục

13

3. Kết luận - kiến nghị

15

Kết luận

15

Kiến nghị

15

2


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn
ngữ để giao tiếp với mọi người và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ
chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là phương tiện dạy
và học. Ngôn ngữ nói, đoc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát
triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói chung.
Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giao đoạn có nhiều
điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và kỹ năng nghe, hiểu, trả
lời câu hỏi của trẻ[1].
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc

dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con
người có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách
giáo dục của nước ta là.
Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra
cơ sở quan trọng của con người việt nam mới, người lao động làm chủ tập thể,
phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mẫu giáo đã góp phần thực hiện mục
tiêu trên. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí thức có
khoa hcoj có tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên
những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầc mơ ước và sáng tạo.
Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non nói
chung và nhà trẻ nói riêng, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới,
chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các
hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt
động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện
cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các
hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm
“Học mà chơi - chơi mà học” đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn
diện về mọi mặt.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ
mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vài trò rất quan trọng đặc biệt không thể
thiếu được.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một
phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,
thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng
có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng
của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết
ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống
hàng ngày.

Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm
mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh
hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với
3


cộng đồngvà trở thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người
lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi
thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn
ngữ để bày tỏ giúp trẻ hòa nhập với mọi người.
Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận
chuẩn mực đạo đức của xã hội và hòa nhập và xã hội tốt hơn. Trẻ từ 24 - 36
tháng tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là trẻ ở 22 tháng tuổi và 30 tháng
tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như tính
từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở
lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể
mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan
hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi còn
rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa
chính xác trẻ nhận tức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế. Đối
với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần
phải giúp trẻ phát triển mở rộng các loại trong các từ, biết sử dụng nhiều loại
câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn
thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu về các đặc điểm, tính
chất, công dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện
đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh
bằng ngôn ngữ của trẻ. Chính vì vậy nên bản thân tôi đã chọn đề tài “Phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi thông qua kể chuyện”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.

+ Đánh giá thực trạng sự phát triển của trẻ về các mặt như:
- Về mặt thể chất
- Về mặt tâm lý
-Về mặt trí tuệ
-Về mặt các kỹ năng cơ bản cần thiết cho việc học tập.
+ Tìm ra các biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25- 36 tháng
tuổi thông qua kể chuyện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Các biện pháp pháttriển ngôn ngữ cho trẻ nhóm 25 - 36 tháng tuổi B,
Trường mầm non Thị Trấn Quan Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25- 36
tháng tuổi thông qua kể chuyện sau.
- Nghiên cứu tài liệu: Khái quát tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp 1: Phương pháp quan sát.
- Phương pháp 2: Phương pháp đàm thoại cùng trẻ
- Phương pháp 3: Phương pháp thực hành
- Phương pháp khảo sát phiếu điều tra.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Giai đoạn này đối trẻ 25- 36 tháng tuổi rất quan trong về phương pháp và
biện pháp để cho trẻ được tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất quan
4


trọng. Khi tổ chức giờ kể chuyện cho trẻ nghe mà cô có thể khai thác nhiều biện
pháp để giúp trẻ phát triển ngôn ngư , giáo viên cần linh hoạt tạo cơ hội cho trẻ
hệ thống câu hỏi đàm thoại, giáo viên đưa ra hầu như toàn câu hỏi đóng, trẻ
không thể tư duy và ít sử dụng hệ thống câu đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, từ đó dẫn

đến việc trẻ hay nói cộc lốc, thiếu lễ phép nếu như giáo viên không kịp thời uốn
nắn cho trẻ.
Trong quá trình dạy trẻ, bản thân tôi thấy rất lo lắng đến vấn đề này, nếu
như không kịp thời nghiêm túc thực hiên đúng chương trình quy định sẽ dẫn đến
hậu quả rất lớn đối vơi trẻ, bởi trẻ từ 25-36 tháng tuổi ở gia đình đang ở thời kì
cần cung cấp nhiều vốn từ giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt hơn.
Từ thực tế trên nên đó bản thân tôi mạnh dạn đưa ra “ Phát triển ngôn ngữ cho
trẻ từ 25- 36 tháng tuổi thông qua qua giờ kể chuyện”.
Chính vì thế chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ cho nên trong quá trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý
đến việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình huống cho trẻ
thể hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói
chuyện với cô hay nói nhanh và không chú ý tới việc sửa lỗi về từ, âm, câu cho
trẻ.
Chính vì vậy trong cuộc sống chúng ta ai cũng ngôn ngữ để giao tiếp với
mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy và học.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng, cụ thể trẻ nhà trẻ thì
nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mói đang tập nói , có trẻ mới nói
được câu 2-3 từ , có trẻ thì đã nói được câu 4- 6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn
được ý muốn của mình bằng những ngôn ngữ chính là việc phát trieent các khả
năng nghe, hiểu, nói của trẻ. Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc
thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp với trẻ trong ngày chính là việc làm
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường mầm non Thị Trấn được đặt trên địa bàn Thị Trấn Quan Sơn, là
Trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1. Được sự quan tâm của các cấp
chính quyền, Phòng giáo dục, nên cơ sở vật chất là tương đối đầy đủ. Cụ thể là
môi trường bên ngoài đẹp và thoáng có nhiều đồ dùng đồ chơi ngoài sân, trong
lớp học phòng học rộng rãi, thoáng mát đồ dùng học tập và đồ chơi tương đối
đầy đủ. Đây là cơ sở để Tôi thực hiện cho trẻ hoạt động học tập và vui chơi được

thuận lợi hơn.
Trong năm học qua trường được công nhận chương trình phổ cập. Năm
học 2017 - 2018 Trường đã hoàn thành “chuyên đề lấy trẻ làm trung tâm” , cũng
như phấn đấu xây dựng Trường Mầm Non đạt chuẩn quốc gia mức độ II vào
những năm học sau.
* Thuận Lợi:
Từ những thực tế trên nên Ban Giám hiệu nhà trường đã phải cân nhắc để
phân công, công việc chăm sóc giáo dục cho giáo viên trong trường theo tình
trạng sức khỏe, cũng như trình độ chuyên môn của từng giáo viên.
Lớp Tôi được phân công 1 cô phụ trách với số trẻ là 13 trẻ, nhìn chung
trẻ đều ngoan ngoãn biết nghe lời cô giáo. Đối với phụ huynh trẻ thì rất quan
5


tâm đến con em của mình. Do vậy bản thân Tôi yên tâm chăm sóc giáo dục trẻ
tại nhóm lớp của mình được phân công. Đối với giáo viên các cô đều có trình độ
chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, có năng lực và kinh nghiệm trong việc
chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhóm lớp.
Nhà trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất phòng học rộng rãi ấm áp vào
mùa đông, thoáng mát vào mùa hè. Và đầy đủ về trang thiết bị, đồ dùng dạy học
của cô và đồ chơi của trẻ. Hơn thế nữa hàng năm Phòng giáo dục cho giáo viên
được tiếp thu các chuyên đề trọng tâm như chuyên đề phát triển vận động,
chuyên đề giáo dục lễ giáo, chuyên đề trẻ tự kỷ hòa nhập cộng đồng, chuyên đề
an toàn thực phẩm….
Ngoài những thuận lợi trên Tôi còn nhận thấy sự giúp đỡ tận tình của chuyên
môn và đồng nghiệp. Xong bên cạnh đó vẫn còn gặp những khó khăn như sau.
* Khó khăn.
Tuy nhiên các cháu có cùng một độ tuổi nhưng vì mặt bằng dân số ở Thị
Trấn không đồng đều có nhiều trẻ là con của cán bộ, nhưng có một số trẻ là con
em dân bản nên có những trẻ còn rụt rè chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp,

chưa thực hiện về ngôn ngữ của trẻ như trường đang còn như ở nhà .
Bên cạnh việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa tốt, vì nhiều trẻ chưa nói được .
Công tác tuyên truyền với phụ huynh còn hạn chế.
Từ tình hình thực tế trên qua nghiên cứu tìm tòi Tôi đã tìm ra được những biện
pháp tối ưu để có hướng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Khảo sát thực trạng của lớp:
Trước khi áp dụng các biện pháp mới Tôi bắt đầu vào khảo sát đầu năm Tôi
khảo sát phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi thông qua kể chuyện đầu
năm học trước cụ thể như sau:

TT
1
2
3

BẢNG KẾT QUẢ CHẤT LƯỢNG ĐẦU NĂM

CHƯA
NỘI DUNG
TRẺ ĐẠT
TỶ LỆ % ĐẠT
Kỹ năng tự lao động
13
5/13
38,4
8
phục vụ.
Kỹ năng trẻ tích cực
tham gia hoạt động
13

6/13
69,2
7
giáo dục.
Ngôn ngữ diễn đạt
13
7/13
61,5
6
mạch lạc.

TỶ LỆ%
61,6
30,8
38,5

4

13
7/13
53,8
6
46,2
Kỹ năng phát âm.
Kỹ năng nghe, cảm
nhận bài thơ, câu
5
13
6/13
46,1

7
53,9
chuyện.
Ta thấy với kết quả trong bảng khảo sát thì tỷ lệ % trẻ đạt , có khả năng là
rất thấp .
Tổng số cháu: 13 cháu.
- Kỹ năng tự lao động phục vụ. :
6


Trẻ đạt 5 cháu = 38,4%
Trẻ chưa đạt 8 cháu = 61,6%.
- Kỹ năng trẻ tích cực tham gia hoạt động giáo dục. :
Trẻ đạt 6 cháu = 46,1%
Trẻ chưa đạt 7 cháu = 53,9%.
- Ngôn ngữ diễn đạt mạch lạc. :
Trẻ đạt 7 cháu = 53,9 %
Trẻ chưa đạt 6 cháu = 46,1%.
- Kỹ năng phát âm. :
Trẻ đạt 7 cháu = 53,8 %
Trẻ chưa đạt 6 cháu = 46,2%.
- Kỹ năng nghe, cảm nhận bài thơ, câu chuyện. :
Trẻ đạt 6 cháu = 46,2 %
Trẻ chưa đạt 7 cháu = 53,8%.
Từ bảng khảo sát đầu năm bản thân tôi đã thấy kết quả rõ rệt nhất chính vì
thế tôi cảm thấy ở lứa tuổi 25 - 36 tháng tuổi chính vì vậy bản thân cần chăm sóc
giáo dục đến trẻ cần chú trọng đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Qua kết quả đó bản thân tôi miệt mài nghiên cứu tài liệu, phương tiện
thông tin đại chúng và các đồng nghiệp và đưa một số biện pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi thông qua kể chuyện.

2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề.
Với trẻ 25 - 36 tháng tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với hoạt
động này. Chính vì vậy mà tôi muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Tôi đã đưa ra các biện pháp như sau.
*Biện pháp 1:
Từ bảng khảo sát đầu năm bản thân tôi đã đưa ra biện pháp cần luyện kỹ
năng cho trẻ phát âm cho trẻ. Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng
còn hạn chế, bộ máy phát âm của trẻ dang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói trẻ hay
nói chậm., hay kéo dài giọng, đôi khi còn ậm ừ, ê, a, không mạch lạc. để giúp trẻ
phát triển vốn từ, tôi thấy người giáo viên cần phải nắm vững đặc điểm vốn từ
của trẻ. mặt khác, cô giáo phải nói to, rõ ràng, rành mạch, dễ nghe. Cơ sở tâm lý
tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan, thời kỳ này, khả năng tri
giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện. trẻ hay bắt chước những
cử chỉ, và lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải trong sáng
và chính xác để trẻ nói theo.[1]
Cơ sở giáo dục ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua
giao tiếp với con người và sự vật hiện tượng xung quanh.Để thực hiện điều đó
phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau như qua các giờ học, các trò chơi,
dạo chơi ngoài trời và sinh hoạt hàng ngày. rèn luyện và phát triển vốn từ cho
trẻ, tập cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ,
hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu.vì vậy
khi cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc
điểm của đối tượng. không những thế, giáo viên dạy trẻ biết nói câu đầy đủ, rõ

7


nghĩa, dạy trẻ phát âm đúng các âm chuẩn của tiếng việt, đảm bảo các nguyên
tắc của giáo dục học tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính tiếp thu.

Nghiên cứu kĩ yêu cầu của giờ kể chuyện cả về kiến thức, kỹ năng và giáo
dục đạo đức. Từ đó đưa ra phương pháp, hệ thông câu hỏi, đồ dùng phục vụ giờ
dạy đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện “cây táo”.

(Hình ảnh cô và trẻ đang kể chuyện cây táo)
Kiến thức:
- Trẻ biết tên câu chuyện, biết tên nhân vật và hành động của các nhân vật
trong chuyện.
- Đọc được các từ: “ ông”, “bé”, “gà trống”, “mặt trời”, “bươm bướm”,
sưởi nắng”, “bật ra”.
- Biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô.
Kỹ năng:
- Trẻ nhận biết và phân biệt được quả to, quả nhỏ.
- Nhận biết và phân biệt được ba màu: đỏ, vàng, xanh và đọc chính xác
các từ: màu đỏ, màu xanh, màu vàng.
Thái độ :
- Trẻ biết “ ăn quả nhớ phải nhớ ơn người trồng cây”.
- Biết lợi ích của việc ăn quả : Cung cấp vitamim và khoáng chất.
- Biết giữ gìn vệ sinh rửa quả, rửa tay trước khi ăn, biết bỏ hạt và bỏ vỏ
vào thùng rác.
- Biết chăm sóc bảo vệ cây (tưới nước, bắt sâu không ngắt lá, bẻ cành).
* Biện pháp 2: Chuẩn bị giáo án.
8


- Giáo án cho giờ kể chuyện phải soạn một cách chu đáo, đầy đủ các
bước, đảm bảo nội dung với hệ thống câu hỏi mở và nội dung tích hợp phù hợp.
Sắp xếp nội dung nội dung câu hỏi đã lựa chọ cho lời nói của trẻ được
đầy đủ, hợp lí và phù hợp để diễn tả một ý, một nội dung ngắn ngọn lời nói là

đơn giản đối với trẻ
Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ tuổi, kích thích trẻ nhận biết, phân
biệt sự vật hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác.
*Biên pháp 3: Chuẩn bị đồ dùng.
Để giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao thì đồ dùng phục vụ giảng dạy phải đảm
bảo.
Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn, không có cạnh
sắc nhọn, và vệ sinh cho trẻ không có bụi bẩn.
Bản thân tôi sử dung tranh minh họa đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía
dưới có chữ to giúp cho việc phát triển từ của trẻ được thuận lợi.
San bàn thì tôi chọn các nhận vật phù hợp với câu chuyện, có tính thẩm mỹ,
khoa học để gây hứng thú cho trẻ trong lúc quan sát.
Ví dụ: trong câu chuyện “ Cây táo”.

(Hình ảnh cô và trẻ đang chuẩn bị đồ dùng kể chuyện)
Chuẩn bị:
Qủa táo xanh, quả táo vàng, vàng to, tròn , đẹp, màu sắc rõ nét, với nhiều
kích thước khác nhau.
Cành táo phải nhiều lá, nhiều quả, được cắm vào một chậu đẹp.
Sa bàn: Thấp có cây táo, ông, bé, gà trống, bươm bướm, mặt trời. Các
nhân vật này có gắn que để điều khiển được.
*Biên pháp 4: Nội dung tích hợp.

9


Sau khi xác định được mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện. Tôi suy nghĩ
để tích hợp các lĩnh vực khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, phù hợp với
giờ chơi tập của trẻ làm sao gây hứng thú được cho trẻ trong kể chuyện đó.
Ví dụ: Trong câu chuyện cây táo tôi có thể tích hợp thêm các lĩnh vực như

: Phát triển nhận thức, phát triển thẩm mỹ, phát triển vận động, dinh dưỡng và
vệ sinh chăm sóc.

(Hình ảnh trẻ chú ý lắng nghe cô kể chuyện theo tranh)
*Biện pháp 5: Mọi lúc mọi nơi
Cho trẻ xem tranh liên quan đến câu chuyện. Tranh cây táo trong chuyện
cây táo.Tôi có thể cho trẻ tiếp xúc với nhân vật trong sinh hoạt hàng ngày.Tôi
cho trẻ quan sát và tiếp xúc với cây táo, quả táo. Nói chuyện âu yếm, trò chuyện
đàm thoại cùng với trẻ.[1]
Từ biện pháp trên tôi phối kết hợp phụ huynh cố gắng dành nhiều thời gian
để trò chuyện, tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với phải nói rõ
ràng, mạch lạc, tốc độ vừa nghe đẻ trẻ nghe cho dễ hiểu. Chính vì thế cha mẹ,
người thân cần phải cố gắng phát âm đúng, không nên bắt chước những từ trẻ
nói ngọng mà cần phải sửa sai ngay cho trẻ trong lúc trẻ nói sai cho trẻ bắt
chước được cho đúng.
Luyện ngôn ngữ mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ đối
thoại qua trò chơi, qua đọc thơ, kể chuyện cùng cô, để trẻ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tiếp
tục dạy trẻ cách nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của người lớn, biết trò chuyện về đồ

10


chơi đồ vật xung quanh trẻ, có thể trẻ xem tranh nhận biết được các nhận vật và
nói được các nhận trong tranh truyện. [2]

( Hình ảnh trẻ kể chuyện )
*Biện pháp 6: Tiến trình hoạt động.
Để có một giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học
tập đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt kết quả cao. Trong lớp học tôi

chia ra từng tổ, trong mỗi tổ đều có các cháu có khả năng tiếp thu bài khác nhau.
Cháu đạt và cháu chưa đạt . Đối với những cháu chậm nói tôi có thể sắp xếp
cho trẻ ngồi ở gần cô, thuần lợi cho việc nghe của trẻ.[1]
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 -36 tháng tuổi trong giờ kể chuyện đạt
kết quả cao bản thân tôi cần nói kể diễn cảm, rõ ràng, giảng thích các từ khó
giúp cho trẻ hiểu được các từ để đặt câu hỏi. Để đẩy mạnh phong phú và đa
dạng vốn từ cho trẻ danh từ và động từ ở trẻ, cách diễn đạt nội dung, sự liên kết
các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một
nội dung ngắn gọn để giúp trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện
tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ gặp không ít khó khăn, cần phải luyện dần dần
cho trẻ.[1]

11


(Hình ảnh trẻ lên kể cùng cô)
*Hoạt động 1: Gây hứng thú
Bằng các thủ thuật: Câu đố, thơ, bài hát, bài vận động có nội dung thích
hợp tôi nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung cho trẻ tập trung vào giờ kể
chuyện.
Ví dụ: Trong giờ kể chuyện “ cây táo” tôi cho trẻ vận động bài “ Cây
cao- cây thấp”. [1]
Động tác 1: Cây cao (trẻ kiễng chân, hai tay giơ cao).
Động tác 2: Hái hoa( trẻ cuộn tay đưa xuống dưới).
Động tác 3: Cây thấp(trẻ ngồi xuống, tay buông xuôi).
Trẻ vận động xong ,tôi cho trẻ xếp hàng ngồi xuống theo hình chữ U.
Hoạt động 2: Nội dung chính.
Trong giờ kể chuyện tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ, chú
ý sửa sai cho trẻ đọc chưa đúng, khi đó theo tôi thì có thể thực hiện như sau.
Cô kể cho trẻ nghe toàn bộ cậu chuyện lần 1 bằng cử chỉ, điều bộ.

Sau đó cô kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 2 bằng tranh minh họa.
Ví dụ: Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện “ cây táo” muốn cho câu
chuyện thêm sinh động và hay hơn cô còn có kèm tranh minh họa thêm nữa
đấy. Trong tranh có từ “ cây táo” cho trẻ đọc từ “ cây táo” cho cả lớp đọc hai
lần, sau đó nhóm đọc, cá nhân đọc lại.
Cô kể cho trẻ nghe lần hai bằng tranh minh họa, vừa kể cô vừa chỉ vào
nhân vật.

12


Cô sử dụng hệ thống câu hỏi mở để trẻ tư duy và trẻ lời được câu hỏi của
cô.
Ví du: Trong chuyện cây táo.
Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì nhỉ? (Trẻ trả lời chuyện cây táo ạ)
Trong chuyện có những nhân vật nào?( Ông, bé, gà trống, bươm bướm và
mặt trời).
Ai trồng cây táo (ông). Cô cho trẻ đọc từ “ Em bé”.
Ai tưới nước cho cây táo? (Em bé). Cô cho trẻ đọc từ “ Em bé”.
Con gì đến động viên cây mà nó gáy “ ò ó o”? (Con gà trống). Cô cho trẻ
đọc từ
“ con gà trống”.
Cả con gì đến động viên cây nữa? ( con bươm bướm). Cô cho trẻ đọc từ
“bươm bướm”.
Sau đó tôi giảng nội dung câu chuyện, giải thích các từ khó và cho trẻ đọc
các từ khó.
Ví dụ: Trong chuyện cây táo có từ “ sưởi nắng”, “bật ra”, cô cho trẻ đọc
các từ này.
Cuối cùng tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 3 bằng sa bàn.
*Hoạt động 3: Kết thúc giờ học.

Bằng nhiều cách khác nhau tôi cho trẻ kết thúc giờ học một cách nhẹ
nhàng thoải mái cho trẻ .
Kết thúc giờ học tôi cho trẻ tôi cho trẻ cùng hát bài “ Đố quả” và cho trẻ
thăm vườn cây ăn quả.
Trong các giờ kể chuyện tôi cho trẻ tự kể lai câu chuyện mà trẻ đã được
học ở hoạt động trước.
- Tôi có thể cho trẻ lên kể lại câu chuyện cùng cô và cho trẻ chỉ vào các nhân
vật, đây là nhân vật gì trong chuyện và câu chuyện gì vậy.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân
đồng nghiệp và nhà trường.
Từ đó bản thân tôi đã áp dụng những kinh nghiệm vào giảng dạy trên đối
với lĩnh vực phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện. Thông qua đó mà
việc phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cao.
Trong khi nghe kể chuyện, kể lại chuyện và trả lời các câu hỏi của cô.
Vốn từ của trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu hỏi
phong phú và đa dạng hơn.
Sau khi tôi áp dụng nghiên cứu các biện pháp thực hiện, và được sự
hướng dẫn bổ sung của Ban giám hiệu nhà trường. Tôi đã thu được tỷ lệ % đã
được nâng lên rõ rệt cụ thể như sau:
BẢNG KẾT QUẢ CHẤT LƯỢNG CUÔI NĂM

CHƯA
NỘI DUNG
ĐẠT
TỶ LỆ %
TRẺ
ĐẠT
Kỹ năng tự lao động
13
13/13

100
0
phục vụ.

TỶ LỆ%
0

13


Kỹ năng trẻ tích cực
tham gia hoạt động
giáo dục.
Ngôn ngữ diễn đạt
mạch lạc.
Kỹ năng phát âm.

13

13/13

100

0

0

13

13/13


100

0

0

13

13/13

100

0

0

Kỹ năng nghe, cảm
13
13/13
100
0
0
nhận bài thơ, câu
chuyện.
Tổng số cháu: 13 cháu.
- Kỹ năng tự lao động phục vụ. :
Trẻ đạt 13 cháu = 100%
Trẻ chưa đạt 0 cháu = 0
- Kỹ năng trẻ tích cực tham gia hoạt động giáo dục. :

Trẻ đạt 13 cháu = 100%
Trẻ chưa đạt 0 cháu = 0%.
- Ngôn ngữ diễn đạt mạch lạc. :
Trẻ đạt 13 cháu = 100%
Trẻ chưa đạt 6 cháu = 0 %.
- Kỹ năng phát âm. :
Trẻ đạt 13 cháu = 100 %
Trẻ chưa đạt 0 cháu = 0%.
- Kỹ năng nghe, cảm nhận bài thơ, câu chuyện. :
Trẻ đạt 13ccháu = 100 %
Trẻ chưa đạt 0 cháu = 0%.
Từ bảng đầu năm lí do là trẻ chưa có khả năng ngôn ngữ phát âm chưa
được nhiều từ cho lắm nên dẫn đến của kết quả chưa cao. Nhưng sau khi áp
dụng vào biện pháp trẻ đã có khả năng ngôn ngữ mà không bị chi phối bởi một
điều kiện nào khác. Đặc biệt nổi bật lên số trẻ đạt 100% đã có khả năng ngôn
ngữ rất tốt, hiểu được lời nói của mọi người, biết trả lời các câu hỏi, biết kể lại
các câu chuyện đã được nghe. Vốn từ phong phú và dần hoàn thiện theo độ tuổi
của trẻ, trẻ đã giao tiếp được nhiều vốn từ như trẻ đã đọc đầy đủ từ và câu, trải
qua một quá trình thực hiện bền bỉ, liện tục, trẻ ở lớp tôi đã có những chuyển
biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá. Các cháu nói
năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn, tự tin
hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết quả
đầu năm tôi đã khảo sát. Phụ huynh đa số hiểu về ý nghĩa của việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ là rất quan trọng.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua tìm hiểu những vấn đề lí luận và thực trạng phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 25- 36 tháng tuổi tại nhóm mà tôi chủ nhiệm năm học 2017 - 2018. Tôi
nhận thấy rằng: Trong nhiều yếu tố tác động đến quá trình cung cấp vốn từ cho
trẻ là rất cần thiết khả năng phát triển ngôn ngữ vô cùng quan trọng. Chính vì

14


thế bản thân tôi đã chon đề tài này nhằm nâng cao kiến thức và các biện pháp
các phương pháp để áp dụng vào trong công tác giảng dạy của bản thân tôi.
Từ đó bản thân tôi muốn giúp 25 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ
thông qua giờ kể chuyện tôi phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở lứa
tuổi 25-36 tháng tuổi để có biện pháp giáo dục phù hợp. Tôi vận các biện pháp
giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá biệt luôn tạo ra niềm tin, sự hứng
thú cho trẻ. Cần phát huy tính tích cực, thu hút sự chú ý và tạo hứng thú cho trẻ
bằng các thủ thuật như trò chơi, câu đố, thơ, hát, hò, vè…
Bác Hồ kính yêu đã nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan”
Đúng như vậy trẻ em như một cây non. Cây non được chăm sóc tân tình
của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt. Chính
vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ là
một nhiệm vụ vô cùng quan trong đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục nói
chung. Việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ 25 - 36 tháng nhằm hình
thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện
là nhiệm vụ hết sức khó khăn luôn được đặt hàng đầu. Vì thế chúng ta phải biết
kết hợp tốt và chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc nuôi dạy các
cháu theo kiến thức khoa học. Có thể nói rằng những điều mà trẻ bắt đầu được
tiếp nhận ở độ tuổi 25 - 36 tháng này đều có ảnh hưởng lâu dài đến việc hình
thành toàn bộ nhân cách của trẻ sau này.
Là một giáo viên mầm non cần phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và
vai trò trách nhiệm với cái tên “ Người mẹ thứ hai ” của trẻ. Thật sự yêu mến trẻ,
nhiệt tình và say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương trẻ.
Từ thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành học mầm non theo định hướng
đổi mới hình thức tổ chức. Với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ

tuổi 25-36 tháng này trong năm học 2017 - 2018 này.
Do đó đề tài của tôi được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ 25
-36 tháng, vì thế một số kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi nhiều thiếu sót.
Qua đây tôi mong được tổ chuyên môn, Ban giám hiệu nhà trường góp ý, xây
dựng bổ sung thêm để giúp tôi có được bài học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng
trong quá trình công tác của bản thân tôi, đặc biệt nâng cao chất lượng của việc
giảng dạy lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi nói riêng.
3.2. Kiến nghị - Đề xuất:
Để việc chăm sóc và giáo dục trẻ được tốt hơn trong trường mầm non,
Cần được quan tâm và giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường. Cần đầu tư hơn
nữa về cơ sở vật chất cho việc dạy và học, nhất trang thiết bị như màn hình máy
chiếu và đồ dùng đồ chơi cho trẻ trong và ngoài lớp. Để giáo viên có cơ hội
thiết kế nhiều hơn nữa những giáo án điện tử hay giúp cho trẻ hứng thú hơn nữa
trong các hoạt động học và vui chơi.
- Nhà trường cần xây dựng cơ sở vật chất có môi trường cho trẻ chơi
thoáng mát, an toàn.
- Đầu tư mua sắm các trang thiết bị đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ thêm
phong phú.
15


Trên đây là những kinh nghiệm tôi đã học hỏi và vận dụng vào tổ chức
hoạt động cho trẻ trong năm học này. Vẫn còn nhiều thiếu sót mong được sự góp
ý kiến của tổ chuyên môn và ban giám hiệu nhà để tôi có cơ hội thực hiện tốt
hơn nữa trong sự nghiệp trồng người
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thị Trấn, Ngày 06 tháng 04 năm 2018.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết không sao chép nội dung

của người khác.
Người viết sáng kiến

Lò Thị Thắm

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Chương trình giáo dục trẻ mầm non mới.
[2]. Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

17



×