Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

PP khai thác và phân tích bài báo khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.23 KB, 13 trang )

1. Bài báo khoa học là gì
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và các Nghiên cứu sinh
nói riêng thì bài báo khoa học đóng một vai trò hết sức quan trọng và là sợi chỉ
xuyên suốt từ khi bắt đầu tới khi kết thúc. Khi bắt đầu một đề tài, người nghiên
cứu sẽ phải tìm đọc các bài báo của các tác giả khác về lĩnh vực đó nhằm hai
mục đích: học những kiến thức nền tảng và nắm bắt xu thế nghiên cứu của đề
tài. Từ đó, nhà nghiên cứu định ra con đường của mình, tìm hướng nghiên cứu
riêng của mình. Một công trình nghiên cứu chỉ được coi là có giá trị khoa học
khi kết quả của nó có thể được viết thành các bài báo đăng trên các tạp chí hoặc
báo cáo ở các hội nghị khoa học quốc tế được thẩm định về chuyên môn thông
qua phản biện của các chuyên gia (peer-review, có người gọi là “bình duyệt”).
Bắt đầu bằng việc đọc và học từ bài báo của người khác và kết thúc ở việc công
bố bài báo của bản thân mình, đó là một chu trình bắt buộc của nghiên cứu.
Bài báo khoa học còn là một loại “tiền tệ” của giới làm khoa học, bởi vì
qua đó mà người ta có thể đánh giá khả năng chuyên môn và năng suất khoa học
của nhà nghiên cứu. Giới làm nghiên cứu khoa học nói chung nhất trí rằng chỉ
tiêu số một để đề bạt một nhà khoa học là dựa vào số lượng và chất lượng bài
báo khoa học đã công bố trên các tập san chuyên ngành. Trên bình diện quốc
gia, số lượng bài báo khoa học là một thước đo về trình độ khoa học kĩ thuật và
hiệu suất khoa học của một nước.
Bài báo khoa học nói một cách ngắn gọn là một bài báo có nội dung khoa
học được công bố trên một tập san khoa học đã qua hệ thống bình duyệt của tập
san. Giá trị khoa học của một bài báo tùy thuộc một phần lớn vào nội dung của
bài báo. Nhưng cũng giống như sản phẩm khác thường có nhiều hình thức và giá
trị khác nhau, các bài báo khoa học cũng xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau
và giá trị cũng không đồng nhất. Đối với người không làm khoa học và công
chúng nói chung, phân biệt được những bài báo này không phải là một chuyện
dễ dàng.
2. Các loại bài báo khoa học
Có rất nhiều quan điểm để phân loại các bài báo khoa học nhưng dựa theo
nội dung và quy mô của công trình nghiên cứu thì có thể phân loại như sau:


Thứ nhất là những bài báo mang tính cống hiến nguyên thủy: Đây là
những bài báo khoa học nhằm báo cáo kết quả một công trình nghiên cứu, hay
đề ra một phương pháp mới, một ý tưởng mới, hay một cách diễn dịch mới. Có
khi một công trình nghiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới, và cần phải có
nhiều bài báo nguyên thủy để truyền đạt những phát hiện này.Tất cả các bài báo
thể hiện những cống hiến nguyên thủy, trên nguyên tắc đều phải thông qua hệ
1|Page


thống bình duyệt trước khi được công bố. Một bài báo hay hoặc không hay
nhưng chưa qua hệ thống bình duyệt thì chưa thể xem là một “bài báo khoa học”.
Thứ hai là những bài báo nghiên cứu ngắn: Là những bài báo rất ngắn
(chỉ khoảng 600 đến 1000 chữ, tùy theo qui định của tập san) mà nội dung chủ
yếu tập trung giải quyết một vấn đề rất hẹp hay báo cáo một phát hiện nhỏ
nhưng quan trọng. Những bài báo này vẫn phải qua hệ thống bình duyệt nghiêm
chỉnh, nhưng mức độ rà soát không cao như các bài báo cống hiến nguyên thủy.
Thứ ba là những bài điểm báo: Như tên gọi bài điểm báo thường tập trung
vào một chủ đề hẹp nào đó mà tác giả phải đọc tất cả những bài báo liên quan,
tóm lược lại, và bàn qua về những điểm chính cũng như đề ra một số đường
hướng nghiên cứu cho chuyên ngành.
Thứ tư là những bài xã luận: Có khi tập san công bố một bài báo nguyên
thủy quan trọng với một phát hiện có ý nghĩa lớn, ban biên tập có thể mời một
chuyên gia viết bình luận về phát hiện đó.
Thứ năm là những thư cho tòa soạn: Nhiều tập san khoa học dành hẳn
một mục cho bạn đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đây là
những bài viết rất ngắn của bạn đọc về một điểm nhỏ nào đó của bài báo đã
đăng. Những thư này thường phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài
báo khoa học đã đăng.
Thứ sáu là những bài báo trong các kỉ yếu hội nghị. Trong các hội nghị
chuyên ngành, các nhà nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kết quả

nghiên cứu của mình thường gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu của hội nghị.
Ngoài còn có một loại bài báo khoa học xuất hiện dưới dạng báo cáo
trường hợp mà trong đó nội dung xoay quanh chỉ một (hay một số rất ít) cá thể
đặc biệt.
Trong hoạt động khoa học, các tập san khoa học là những tờ báo xuất bản
định kì, có thể là mỗi tuần một lần, mỗi tháng, hay 3 tháng, thậm chí hàng 6
tháng một lần. Mục tiêu chính của các tập san khoa học là chuyên chở thông tin
đến giới nghiên cứu khoa học nhằm từng bước phát triển khoa học. Các tập san
khoa học còn là những diễn đàn khoa học để giới khoa học có cùng chuyên môn
trao đổi và học hỏi với nhau. Phần lớn các tập san khoa học rất chuyên sâu về
một bộ môn khoa học. Giá trị khoa học của một bài báo do đó không chỉ tùy
thuộc vào nội dung, mà tập san công bố cũng đóng một vai trò quan trọng.
3. Cơ chế bình duyệt bài báo khoa học

2|Page


Cơ chế bình duyệt là một cơ chế có mục đích chính là thẩm định và kiểm
tra các bài báo khoa học trước khi chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa
học. Tuy một cơ chế bình duyệt như thế không phải hoàn toàn vô tư và hoàn
hảo, nhưng nó là một cơ chế tốt nhất hiện nay mà giới khoa học đều công nhận.
Thời gian để một bài báo từ lúc nộp bài cho đến lúc xuất hiện trên mặt
giấy (nếu mọi bình duyệt và phản hồi đều trôi chảy) tốn khoảng 9 tháng đến 12 tháng.
4. Ý nghĩa xã hội của bài báo khoa học
Một bài báo chỉ khi nào được xem là “bài báo khoa học” nếu nó đã qua
cơ chế bình duyệt và được công bố trên một tập san chuyên môn. Mọi đánh giá
về nghiên cứu và đánh giá nhà khoa học đều dựa trên bài báo khoa học. Thậm
chí trong giới khoa bảng phương Tây còn có câu thành ngữ “publish or perish”,
tạm dịch là “công bố hay là chết”. Nếu sử dụng cho ý nghĩa về “sinh mệnh khoa
học” thì câu nói này hoàn toàn không hề phóng đại. Luật của thế giới là đánh giá

công trình nghiên cứu và đánh giá nhà khoa học qua bài báo, nếu anh không có báo
tức là anh đứng ngoài cuộc chơi và không được cộng đồng khoa học thừa nhận.
Trên bình diện quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa
học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng
suất khoa học của nước nhà.
5. Cấu trúc một bài báo khoa học
Nhìn chung, một bài báo khoa học có cấu trúc gồm 4 phần: Giới thiệu
(Introduction), Phương pháp (Materials and Method), Kết quả và đánh giá, bình
luận (Results and Discussion) và Kết luận (Conclusion). Đây là một cấu trúc
tổng quan cho tất cả các ngành.
5.1.Tựa đề bài báo (title of paper)
Tựa đề bài báo được viết trên trang đầu của một bài báo, thường ở vị trí
trung tâm. Không nên gạch đích hay viết nghiêng tựa đề. Phía dưới tựa đề bài
báo là tên tác giả và nơi làm việc của từng tác giả.
Chúng ta muốn tựa đề bài báo phải “bắt mắt” người đọc, cho nên cần phải
đầu tư một chút thời gian vào việc chọn chữ và chiến lược chọn tên cho bài báo.
Tựa đề không nên quá ngắn, nhưng cũng không nên quá dài, mà phải nói lên
được nội dung chính của nghiên cứu. Nếu tựa đề không nói lên được nội dung
bài báo, độc giả sẽ không chú ý đến công trình nghiên cứu, và chúng ta mất
người đọc. Để có một tựa đề sáng tạo, chúng ta có thể xem xét đến một số khía
cạnh sau đây:

3|Page


- Không bao giờ sử dụng viết tắt. Nên nhớ rằng nhiều người ngoài lĩnh
vực chuyên môn đọc bài báo của bạn, và viết tắt có thể làm cho họ khó chịu vì
họ không quen hay không biết đến những chữ viết tắt chuyên ngành.
- Không nên đặt tựa đề theo kiểu nghịch lí hay tựa đề mơ hồ. Tựa đề
nghịch ló và mơ hồ rất nguy hiểm, vì nó biểu hiện nghiên cứu của bạn chẳng

giải quyết được vấn đề gì, hay chẳng có câu trả lời gì, và do đó người đọc có thể
nghĩ sẽ rất phí thì giờ để đọc bài báo.
- Không nên đặt tựa đề dài. Tựa đề bài báo không nên dài hơn 20 từ. Tựa
đề dài có thể làm cho người đọc mất chú ý.
-Tựa đề được viết ở trang đầu, viết chữ in hoa, chữ đậm, canh giữa trang,
không gạch dưới, không in nghiêng.
- Phía dưới tựa đề là họ và tên của từng tác giả có ký hiệu a,b hoặc 1,2.
Bên dưới chú thích a,b hoặc 1,2 là nơi làm việc của từng tác giả. Địa chỉ email
của tác giả chính.
- Phải có yếu tố mới trong tựa đề.
- Bắt đầu bằng một động từ, hoặc một danh động từ, hoặc một danh từ bất
định hàm chứa một sự thực hiện.
- Tựa đề không được là một câu khẩu hiệu.
5.2. Phần Tóm tắt (Abstract)
Có 2 loại tóm lược: không có tiêu đề và có tiêu đề. Loại tóm lược không
có tiêu đề là một đoạn văn duy nhất tóm tắt công trình nghiên cứu. Loại tóm
lược có tiêu đề -- như tên gọi – là bao gồm nhiều đoạn văn theo các tiêu đề sau
đây: Background, Aims, Methods, Outcome Measurements, Results, và
Conclusions. Tuy nhiên, dù là có hay không có tiêu đề, thì một bản tóm lược
phải chuyển tải cho được những thông tin quan trọng sau đây:
Câu hỏi và mục đích của nghiên cứu. Phần này phải mô tả bằng 2 câu văn.
Câu văn thứ nhất mô tả vấn đề mà tác giả quan tâm là gì, và tình trạng tri thức
hiện tại ra sao. Câu văn thứ hai mô tả mục đích nghiên cứu một cách gọn nhưng
phải rõ ràng.
Phương pháp nghiên cứu. Cần phải mô tả công trình nghiên cứu được
thiết kế theo mô hình gì, đối tượng tham gia nghiên cứu đến từ đâu và đặc điểm
của đối tượng, phương pháp đo lường, yếu tố nguy cơ (risk factors), chỉ tiêu lâm
sàng (clinical outcome). Phần này có thể viết trong vòng 4-5 câu văn.

4|Page



Kết quả. Trong phần này, tác giả trình bày những kết quả chính của
nghiên cứu, kể cả những số liệu có thể lấy làm điểm thiết yếu của nghiên cứu.
Nên nhớ rằng kết quả này phải được trình bày sao cho trả lời câu hỏi nghiên cứu
đặt ra từ câu văn đầu tiên.
Kết luận. Một hoặc 2 câu văn kết luận và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu.
Có thể nói phần lớn độc giả chú tâm vào câu văn này trước khi học đọc các phần
khác, cho nên tác giả cần phải chọn câu chữ sao cho “thuyết phục” và thu hút
được sự chú ý của độc giả trong 2 câu văn quan trọng này.
Nếu tựa đề bài báo phát biểu về nội dung của công trình nghiên cứu, thì
bảng tóm lược cho phép bạn mô tả chi tiết hơn nội dung của công trình nghiên
cứu. Độ dài của bảng tóm lược thường chỉ 200 đến 300 từ (tùy theo qui định của
tập san). Bảng tóm lược giúp người đọc nên đọc tiếp bài báo hay bỏ qua bài báo.
Do đó, tác giả cần phải cung cấp thông tin một cách ngắn gọn, nhưng có dữ liệu
(chứ không phải chỉ hứa suông) và đi thẳng vào vấn đề (chứ không phải viết
lòng vòng). Thông thường bảng tóm lược được viết sau khi đã hoàn tất bài báo.
Phần tóm tắt phải độc lập với các phần khác (tự đứng một mình) và đảm
bảo các yếu tố sau: Khoảng 200 chữ; Nói rõ những mục tiêu chính; Mô tả các
phương pháp nghiên cứu (đối tượng nghiên cứu, dữ liệu, phương pháp phân
tích); Tổng kết các kết quả quan trọng; Nói rõ những kết luận nổi bật và ý nghĩa
của nó; Không có các tham chiếu đến hình ảnh, bảng biểu hoặc nguồn tham
khảo; Tránh viết phần tóm tắt như lời nói đầu (lời mở đầu); Phần cuối là 5-6 từ
khóa (keywords) của bài viết theo thứ tự alphabet (nếu có).
5.3. Phần Đặt vấn đề (Introduction)
Phải trả lời được câu hỏi: Tại sao làm nghiên cứu này? Cung cấp những
thông tin như: Định nghĩa vấn đề; Những gì đã được làm để giải quyết vấn đề;
Tóm lược những kết quả trước đã được công bố; Mục tiêu của nghiên cứu này
Lưu ý:
- Cuối của phần này phải trình bày cấu trúc của bài báo. Nhằm tóm lược

lại những nội dung chính trong các mục
- Không nên quá ngắn, cũng đừng quá dài; tối đa 1 trang A4.
- Điều quan trọng nhất là sau khi đọc xong phần này, người đọc biết được
tầm quan trọng của nghiên cứu, và tại sao có nghiên cứu này từ đó mới đọc
phần kế tiếp.
5.4. Phần Phương pháp nghiên cứu (Material and Methods)
Đây là phần quan trọng nhất trong một bài báo khoa học. Phải trả lời
được câu hỏi: Bạn đã làm gì? Để trả lời câu hỏi này, phải cung cấp thông tin:
5|Page


Đối tượng nghiên cứu; Phương pháp đo lường, độ tin cậy và chính xác của đo
lường; hoặc phương pháp phân tích dữ liệu, hoặc nêu thuật toán giải quyết vấn
đề, v.v... Phần này có thể dài gấp 2, 3 lần Phần giới thiệu
5.5. Phần Kết quả (Results)
Phần kết quả phải có biểu đồ, bảng số liệu được diễn đạt một cách ngắn
gọn, rõ ràng. Những số liệu phải được trình bày để lần lượt trả lời các mục tiêu
nghiên cứu đã nêu trong phần giới thiệu
Lưu ý:
- Tất cả các bảng thống kê, biểu đồ, và hình ảnh phải được chú thích rõ ràng
- Dùng bảng số liệu khi thấy số liệu chính xác là quan trọng
- Khi quan tâm đến xu hướng hãy dùng biểu đồ
- Trong phần này không có bình luận về kết quả (để dành cho phần bàn luận)
- Cần tránh trong Phần này:
+ Những thông tin và dữ liệu lặt vặt
+ Trình bày một loạt dữ liệu không có ý nghĩa gì lớn
+ Những dạy bảo
+ Dùng thì quá khứ để mô tả những gì đã xảy ra và sử dụng tối đa thể thụ động
+ Cũng chỉ dài khoảng 2, 3 trang; không dài hơn phần phương pháp
5.6. Phần Bàn luận (Discussion)

Thường bao gồm 6 yếu tố sau đây trong việc mô tả:
- Tóm lược giả thiết, mục tiêu, kết quả chính
- So sánh kết quả với các nghiên cứu trước
- Giải thích kết quả bằng cách đề ra mô hình mới hay giả thuyết mới
- Khái quát hóa và ý nghĩa của kết quả
- Bàn qua những ưu điểm và khuyết điểm
- Kết luận sao cho người đọc có thể lĩnh hội được một cách dễ dàng
Cụ thể, trả lời 6 câu hỏi trên phải làm rõ các vấn để sau: Phát hiện chính là
gì; Phát biểu những phát hiện chính; đặt những phát hiện này vào bối cảnh của
các nghiên cứu trước đây; Mở đầu phần thảo luận bằng cách tóm tắt bối cảnh,
giả thuyết, mục tiêu và phát hiện chính của nghiên cứu; Là một đoạn văn tóm tắt
những ý chính trong phần dẫn nhập và kết quả để một lần nữa nhấn mạnh rằng
giả thuyết đã được minh chứng. Kết quả phải đo được bằng con số để nhấn
6|Page


mạnh; Kết quả có nhất quán với nghiên cứu trước; Giải thích tại sao không nhất
quán. Có phải do vấn đề địa phương, con người; hoặc do chẩn đoán, đo lường,
phân tích, v.v… So sánh kết quả của nghiên cứu với các nghiên cứu trước;
Còn phải giải thích tại sao kết quả của nghiên cứu khác (hay không nhất quán)
với nghiên cứu trước; Giải thích tại sao có kết quả như trong nghiên cứu, mối
liên hệ đó có phù hợp với giả thuyết; Bàn về cơ chế của mối liên hệ một cách
thuyết phục bằng cách sử dụng các nghiên cứu trước hay đề ra giả thuyết mới;
hoặc căn cứ những điều của thực tế đã xảy ra, ... Phải giải thích những kết quả
có thể giải thích bằng kiến thức hiện hành; Có thể trích dẫn các nghiên cứu khác
và hệ thống hóa thông tin để giải thích kết quả của nghiên cứu mình; Ý nghĩa
của kết quả nghiên cứu là gì; Nhằm khái quát hóa. Đặt kết quả của nghiên cứu
vào bối cảnh lớn hơn, và so sánh với các nghiên cứu trước đây; Và giải thích ý
nghĩa của kết quả; Cần phải bàn về khả năng mà những phát hiện của nghiên
cứu có thể áp dụng cho một quần thể khác hay không; Có thể bàn về giá trị kinh

tế; Phát hiện đó có khả năng sai lầm không; điểm mạnh và khiếm khuyết của
nghiên cứu là gì; Kết luận có phù hợp với dữ kiện hay không; Kết luận phải rõ
ràng, nhưng không nên đi ra ngoài khuôn khổ của dữ kiện. Phải cô đọng, nhưng
chuyển tải được kết quả và ý nghĩa của nghiên cứu.; Chỉ cần 1 câu (khoảng 2-3
dòng, không cần cả 1 đoạn văn)
5.7. Phần Cảm ơn
Tác giả cảm ơn những người đã cộng tác nghiên cứu với mình hoặc
những đề tài dự án có hỗ trợ kinh phí cho việc thực hiện; những tổ chức hỗ trợ
các phương tiện nghiên cứu, v.v... (Phần này có hoặc có thể không có cũng
được)
5.8. Abstract (bằng tiếng Anh)
Đối với các bài viết tiếng Việt, tác giả được yêu cầu cung cấp thêm phần
tóm tắt (bao gồm cả từ khóa) bằng tiếng Anh.
Đối với các bài viết có ngôn ngữ khác với tiếng Việt, tác giả được yêu cầu
cung cấp thêm phần tóm tắt (bao gồm cả từ khóa) bằng tiếng Việt.
5.9. Tài liệu tham khảo (Reference)
- Liệt kê tất cả tài liệu đã trích dẫn trong bài viết .
- Không phân loại tài liệu internet, tiếng Anh, tiếng Việt.
- Tối đa 9 tài liệu.
6. Danh mục, phân loại các tạp chí khoa học được xếp hạng

7|Page


Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều Tạp chí khoa học. Do vậy, việc lựa chọn
bài báo của một Tạp chí nào đó để người nghiên cứu thực hiện tổng quan và kế
thừa luôn gặp phải những khó khăn. Nhưng việc này lại rất quan trọng bởi vì nó
ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tổng quan tình hình nghiên cứu khoa học
trên thế giới và độ tin cậy của các phương pháp vận dụng khi lựa chọn trích dẫn,
kế thừa trong mỗi nghiên cứu.

Chất lượng của các Tạp chí chủ yếu được đánh giá dựa trên qui trình kiểm
duyệt để đăng bài và các thống kê về chỉ số được trích dẫn của các bài báo đăng
trên Tạp chí đó thông qua chỉ số ảnh hưởng. Các chỉ số khoa học công bố được
các Tổ chức xếp hạng đại học sử dụng để đánh giá số lượng, chất lượng nghiên
cứu khoa học và xếp hạng các trường đại học trên thế giới, cũng như cá nhân
nhà khoa học.
Có hai nhóm phân loại uy tín được cộng đồng khoa học công nhận trên trên
thế giới. Phân loại theo Viện thông tin khoa học Hoa Kỳ (Institute for Scientific
Information, thường gọi là ISI) và theo Scopus (Hà Lan).
Phân loại của ISI đã tồn tại lâu đời và có uy tín hơn cả. Do vậy, một số
quốc gia chỉ công nhận các tạp do ISI phân loại, mà không công nhận Scopus,
chẳng hạn như: Mỹ, Đài Loan và v.v. Các thông tin, dữ liệu và đánh giá về Kinh
tế-Xã hội, Khoa học, Công nghệ và Kỹ thuật nếu không theo ISI thì bị lệch so
với thống kê quốc tế.
Công bố quốc tế là yêu cầu bắt buộc đối với các cá nhân và tổ chức thực
hiện nghiên cứu. Khi không có công bố các kết quả nghiên cứu trên các tạp chí
uy tín thì các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học sẽ không bao giờ
lọt được vào bảng xếp hạng quốc tế nào. Liên hợp quốc, các Chính phủ và các
Tổ chức quốc tế thường sử dụng thống kê phân loại này trong quản lý và hoạch
định các chính sách khoa học, kỹ thuật.
Công bố quốc tế không chỉ là một đòi hỏi quan trọng mà còn là cơ sở để tài
trợ cho các nghiên cứu. Ngày nay, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc
gia Việt Nam (NAFOSTED), cũng tham khảo các công bố quốc tế để tài trợ cho
các đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản (website: ).
6.1. Phân loại tạp chí khoa học
6.1.1. Phân loại theo ISI (Institute for Scientific Information, Hoa Kỳ)
Viện Thông tin khoa học Hoa Kỳ đã xét chọn chất lượng của các tạp chí
trên thế giới một cách khắt khe và kỹ lưỡng để đưa vào cơ sở dữ liệu của họ.
Mặc dù, vẫn còn có những ý kiến chưa thống nhất, nhưng ISI vẫn là một trong


8|Page


rất ít cách phân loại được thừa nhận và sử dụng rộng rãi khi bàn luận về chất
lượng khoa học của các công trình nghiên cứu.
Những năm 1960, ISI chỉ bao gồm tập hợp SCI (Science Citation Index)
với khoảng khoảng 4.000 tạp chí chuyên ngành về Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật
và Công nghệ có chất lượng cao và truyền thống lâu đời nhất trên thế giới (Xem
thêm chi tiết trên website:
/>Sau đó, SCI mở rộng thành tập hợp SCIE (Science Citation Index
Expanded) với khoảng 7.000 tạp chí Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ,
Xã hội, Nhân văn và Nghệ thuật được xuất bản từ năm 1900 đến nay
( />Hiện nay, ISI được phân loại cụ thể hơn, bao gồm thêm tập hợp SSCI
(Social Science Citation Index) với hơn 2.000 tập chí xuất bản từ năm 1956 và
A&HCI (Arts & Humanities Citation Index) với hơn 1.200 tập chí từ năm 1975
đến nay.
Cụ thể, ISI là tập hợp của sự phân loại minh bạch, bao hàm cả SCI, SCIE,
SSCI và A&HCI với tổng cộng khoảng 10.000 Tạp chí khoa học có chất lượng
cao, trong tổng số hàng triệu tạp chí thông thường trên thế giới.
Như vậy, theo phân loại của ISI thì trong lĩnh vực Khoa học xã hội - Hành
vi, Kinh tế và Nhân văn có 2 nhóm tạp chí được công nhận với chỉ số trích dẫn
khoa học uy tín.
Nhóm thứ nhất: SSCI - Social Science Citation Index
Nhóm thứ hai: SCIE - Science Citation Index Expanded.
Cho đến nay, Việt Nam chưa có tạp chí khoa học nào được lọt vào danh
sách ISI.
6.1.2. Phân loại theo Scopus
Bên cạnh phân loại ISI, nhiều tổ chức xếp hạng thế giới, ví dụ như Tổ chức
xếp hạng các cơ sở nghiên cứu khoa học SCIMAGO () hoặc
Tổ

chức
xếp
hạng
đại
học
(QS
World
University
Rankings, ), ..., còn sử dụng cơ sở dữ liệu từ
nguồn Scopus.
Scopus được xây dựng từ tháng 11 năm 2004 và thuộc sở hữu của Nhà
xuất bản Elsevier (Hà Lan), dành cho thuê bao trực tuyến, có trả phí. Đó là một
cơ sở dữ liệu thư mục chứa bản tóm tắt và trích dẫn các bài báo khoa học.
Scopus có chứa 57 triệu bản tóm tắt, gần 22.000 danh mục từ hơn 5.000 nhà
9|Page


xuất bản, trong đó hơn 30.000 là Tạp chí đánh giá chuyên ngành trong Khoa
học, Kỹ thuật, Y tế, Xã hội, Nghệ thuật và Nhân văn.
Để được liệt kê vào danh sách Scopus, các tạp chí cũng được lựa chọn
nghiêm ngặt. Số lượng tạp chí nằm trong Scopus gần gấp đôi số lượng nằm
trong ISI, nhưng không bao gồm tất cả mà chỉ chứa khoảng 70% số lượng của
ISI. Tuy nhiên, nguồn Scopus chỉ bao gồm các bài báo xuất bản từ năm 1995 trở
lại đây. Cách đánh giá chất lượng các tạp chí của Scopus cũng dựa vào chỉ số
ảnh hưởng IF, nhưng nội dung website của Scopus () rất tiện
ích khi sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tra cứu tài liệu đến đánh giá tình
hình nghiên cứu khoa học của các cá nhân và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, ...
Việt Nam đã có duy nhất 01 Tạp chí toán học Acta Mathematica
Vietnamica (Viện Toán học Việt Nam) được lọt vào danh sách Scopus. Trong khi
đó, Malaysia đã có 48 và Thái Lan 21 tạp chí được công nhận xếp hạng vào hệ

thống Scopus.
Các số liệu của Scopus đã được SCIMAGO sử dụng để đánh giá, xếp hạng
các tạp chí khoa học và các cơ sở nghiên cứu khoa học. Theo số liệu, trong số
hơn 2.800 cơ sở nghiên cứu mạnh ở trên thế giới, Việt Nam đã có tên 3 đơn vị:
Viện Khoa học-Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia TP.HCM và Đại học
Quốc gia Hà Nội.
6.1.3. Phân loại của Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước Việt Nam
Bắt đầu từ năm 2012, Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước Việt Nam đã
công bố Danh mục và số điểm được tính cho 27 ngành khác nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh và quản trị có 59 Tạp chí được công
nhận và tính điểm.
6.2. Chỉ số ảnh hưởng khoa học
Khi xếp hạng các tạp chí người ta thường dựa vào các chỉ số đo chất lượng
khoa học của tạp chí, chẳng hạn như chỉ số ảnh hưởng IF (Impact Factor) và chỉ
số H (H-index). IF là chỉ số trích của Tạp chí, H-Index là chỉ số ảnh hưởng của
cá nhân nhà khoa học. Rất khó đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu
khoa học, vì cộng đồng khoa học vẫn chưa nhất trí một chuẩn mực thống nhất
cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu.
Tuy nhiên, hai chỉ số này có quan hệ với nhau, thường được sử dụng để
ước định chất lượng của một công trình nghiên cứu khoa học là chỉ số ảnh
hưởng và số lần trích dẫn (citation index).
6.2.1. Chỉ số ảnh hưởng của một Tạp chí (IF)
10 | P a g e


Chỉ số ảnh hưởng IF là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình các bài
báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước. Những công trình nghiên cứu được
công bố trên các tạp chí có chỉ số ảnh hưởng cao thường có chất lượng khoa học
cao. Tuy nhiên, chỉ số ảnh hưởng của tạp chí cũng còn phụ thuộc vào các ngành
khoa học khác nhau.

Chỉ số ảnh hưởng (IF) là thông số được tính hàng năm cho mỗi tạp chí, nó
thể hiện rằng các bài trong tạp chí đó được trích dẫn nhiều hay ít. Thông số này
được tính hàng năm và thay đổi theo thời gian, có khi biến động rất lớn.
Chỉ số ảnh hưởng của một tạp chí trong năm N được tính bằng tổng số lần
các bài báo trong tạp chí đó được trích dẫn trong 2 năm trước N (tức là N-1 và
N-2) chia cho tổng số bài báo trong hai năm đó. Chẳng hạn, nếu một tạp chí A
có tất cả 100 bài trong hai năm 2015 và 2016 và được trích dẫn tổng cộng 170
lần thì hệ số ảnh hưởng của năm 2017 sẽ là IF (2017) = 170/100 = 1,7.
Chỉ số ảnh hưởng cho biết uy tín và chất lượng của tạp chí. Chỉ số này càng
cao thì tạp chí càng có uy tín và càng khó để có bài được đăng trên tạp chí này.
Một bài báo được đăng trên một tạp chí có chỉ số ảnh hưởng cao sẽ được đánh
giá cao, dễ được đọc và được trích dẫn hơn. Một nhà khoa học đăng được bài
trên tạp chí chất lượng và bài báo được trích dẫn nhiều sẽ được đánh giá cao.
6.2.2. Chỉ số ảnh hướng của cá nhân nhà khoa học (H-Index)
Năm 2005, nhà vật lý người Mỹ Jorge Hirsch (Đại học California) đã đưa
thêm chỉ số H (H-index) để đánh giá các kết quả khoa học và làm cơ sở so sánh
đóng góp khoa học của các nhà khoa học khác nhau, trong cùng lĩnh vực. Một
nhà khoa học có chỉ số H nếu trong số N công trình của ông ta có H công trình
khoa học (H < N) có số lần trích dẫn của mỗi bài đạt được từ H trở lên. Như vậy,
chỉ số H chứa đựng được cả hai thông tin: số lượng (số các bài báo được công
bố) và chất lượng, tầm ảnh hưởng (số lần được các nhà khoa học khác trích dẫn)
của hoạt động khoa học.
J.Hirsch cũng đã xem xét chỉ số H cho một số nhà khoa học và đưa ra nhận
xét rằng, trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, các nhà khoa học Mỹ thành công
(successful) sẽ có chỉ số H = 20 sau 20 năm; một nhà khoa học nổi tiếng
(outstanding) sẽ có chỉ số H = 40 sau 20 năm; thiên tài khoa học (truly unique
individual) sẽ có chỉ số H = 60 sau 20 năm. J.Hirsch đề nghị rằng ở Mỹ một nhà
khoa học có thể bổ nhiệm phó giáo sư (Associate Professor) nếu có chỉ số H
khoảng 12 và giáo sư (full professor) nếu H vào khoảng 18. Các nhà khoa học
được giải thưởng Nobel thường có chỉ số H trong khoảng từ 35 đến 100. Chỉ số

H cao nhất của một số lĩnh vực khác như Hoá-Lý: 100, Sinh học: 160, Khoa học
11 | P a g e


máy tính: 70, trong khi đó lĩnh vực Kinh tế học và Kinh doanh có chỉ số H vào
khoảng 40.
Hiện nay việc tìm chỉ số H của bất cứ nhà khoa học học nào đều rất đơn
giản nhờ trang web của Scopus.
6.3. Phân loại chỉ số quản lý ấn phẩm khoa học (ISSN & ISBN)
ISSN (International Standard Serial Number) là mã số chuẩn quốc tế cho
xuất bản phẩm nhiều kỳ (Tạp chí), được công nhận trên phạm vi toàn thế giới
nhằm xác định nhan đề của các xuất bản phẩm. Khi đã có chỉ số ISSN, thì tạp
chí sẽ được quốc tế thừa nhận chính thức và giới thiệu trên quy mô toàn cầu.
Đây chính là “thẻ căn cước” để đi lại trong làng thông tin toàn cầu. Nhưng chỉ
số ISSN của một tạp chí không liên quan đến chất lượng khoa học của các bài
báo được đăng ở trong đó.
Danh sách các tạp chí có mã xuất bản (ISSN) bao hàm và rộng hơn rất
nhiều so với danh sách ISI và Scopus. Hiện nay, danh sách ISI bao gồm khoảng
10.000, Scopus bao gồm hơn 30.000 tạp chí về Khoa học tự nhiên, Công nghệ,
Kỹ thuật, Y, Dược và Khoa học xã hội. Trong khi đó, danh sách Tạp chí có chỉ
số xuất bản ISSN khoảng 1,3 triệu.
ISBN (International Standard Book Number) là mã số chuẩn quốc tế để
xác định một quyển sách. Trên thế giới, khái niệm và việc đăng ký mã số ISBN
cho sách được bắt đầu từ những năm 1966-1970 và đã trở thành thông lệ. Việt
Nam mới bắt đầu từ năm 2007.
Tóm lại khi lựa chọn các bài báo khoa học để làm tổng quan người nghiên
cứu (Nghiên cứu sinh) bắt buộc phải tìm kiếm từ danh mục các Tạp chí đã được
phân loại theo các nhóm đã giới thiệu ở phần trên. Một công trình khoa học tốt
thì phải dựa trên 2 tiêu chí: Nằm trong nhóm của ISI, Scopus hoặc Hội đồng
chức danh Giáo sư nhà nước phân loại và có chỉ số trích dẫn (IF) cao.


12 | P a g e


MỤC LỤC
1. Bài báo khoa học là gì................................................................................................1
2. Các loại bài báo khoa học..........................................................................................1
3. Cơ chế bình duyệt bài báo khoa học..........................................................................2
4. Ý nghĩa xã hội của bài báo khoa học.........................................................................3
5. Cấu trúc một bài báo khoa học...................................................................................3
5.1.Tựa đề bài báo (title of paper)..............................................................................3
5.2. Phần Tóm tắt (Abstract)......................................................................................4
5.3. Phần Đặt vấn đề (Introduction)...........................................................................5
5.4. Phần Phương pháp nghiên cứu (Material and Methods)......................................5
5.5. Phần Kết quả (Results)........................................................................................6
5.6. Phần Bàn luận (Discussion)................................................................................6
5.7. Phần Cảm ơn.......................................................................................................7
5.8. Abstract (bằng tiếng Anh)....................................................................................7
5.9. Tài liệu tham khảo (Reference)...........................................................................7
6. Danh mục, phân loại các tạp chí khoa học được xếp hạng.........................................8
6.1. Phân loại tạp chí khoa học...................................................................................8
6.2. Chỉ số ảnh hưởng khoa học...............................................................................10
6.3. Phân loại chỉ số quản lý ấn phẩm khoa học (ISSN & ISBN).............................12

13 | P a g e



×