Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Hoàn thiện kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.96 KB, 93 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Vũ Lê Bảo Trân


ii
MỤC LỤC


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SXKD

:

Sản xuất kinh doanh

TSCĐ

:

Tài sản cố định



:



Bưu điện

BĐT

:

Bưu điện tỉnh


iv
DANH MỤC CÁC BẢNG


v
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam--Error:

Reference source not found
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ bộ máy kế toán ở Bưu điện tỉnh Quảng Nam Error: Reference

source not found
Sơ đồ 2.3 Sơ đồ bộ máy kế toán tại Bưu điện trực thuộc------Error: Reference

source not found
Sơ đồ 3.1 Sơ đồ các trung tâm trách nhiệm-------Error: Reference source not

found



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền thị trường, sự thành công của một doanh nghiệp phụ thuộc
rất nhiều vào các quyết định quản trị và trong thực tế, những quyết định quản
trị thường được xác lập dựa trên cơ sở các thông tin của kế toán, nhất là kế
toán quản trị. Kế toán quản trị cung cấp nhiều thông tin quan trọng làm căn cứ
cho các quyết định quản trị, trong đó thông tin kế toán gắn với trách nhiệm
của nhà quản trị các cấp được các doanh nghiệp rất quan tâm. Kế toán trách
nhiệm là phương pháp thu thập và báo cáo các thông tin dự toán và thực tế về
các đầu vào và đầu ra của các trung tâm trách nhiệm, là một nội dung cơ bản
của kế toán quản trị và là hạt nhân quan trọng trong hệ thống kiểm soát quản
trị của doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều doanh nghiệp trên thế
giới nghiên cứu và tổ chức vận dụng kế toán trách nhiệm trong công tác kế
toán.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thế
giới nói chung và lĩnh vực kế toán nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam cần
thiết phải nghiên cứu và tổ chức vận dụng kế toán trách nhiệm vào công tác
kế toán nhằm cung cấp thông tin cho các nhà quản trị theo hướng khoa học và
hiện đại. Thiết nghĩ, để đi đầu trong việc tổ chức vận dụng kế toán trách
nhiệm vào công tác kế toán phải là các tổng công ty, công ty nhà nước với
quy mô lớn, cơ cấu tổ chức gắn với trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân.
Bưu điện tỉnh Quảng Nam là doanh nghiệp có quy mô lớn, với phạm vi
hoạt động rộng và cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị trực thuộc cũng
khá đa dạng đặt ra yêu cầu cấp bách về xây dựng giải pháp quản lý tài chính
toàn diện. Việc tổ chức kế toán trách nhiệm nhằm đảm bảo cho các đơn vị


2

trực thuộc bên cạnh thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của mình còn phải gắn kết,
phối hợp với nhau hướng tới thực hiện mục tiêu chung. Hiện tại, Bưu điện
tỉnh Quảng Nam đã thực hiện việc phân cấp quản lý, tuy nhiên trách nhiệm và
quyền hạn được giao cho các cấp chưa thật sự rõ ràng, chưa gắn kết trách
nhiệm cụ thể nên đã không tạo được động lực phát triển trong thời gian qua.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài:
“Hoàn thiện kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán trách nhiệm đã
được nghiên cứu ở trong và ngoài nước, làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực
trạng và đề xuất những giải pháp hoàn thiện kế toán trách nhiệm ở Bưu điện
tỉnh Quảng Nam. Mục tiêu cụ thể của luận văn:
- Tìm ra những ưu điểm và những tồn tại trong công tác kế tóan phục
vụ đánh giá trách nhiệm tại các đơn vị, bộ phận trong cơ cấu tổ chức của Bưu
điện Quảng Nam.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán trách nhiệm theo đặc
thù của Bưu điện tỉnh Quảng Nam, giúp nhà quản lý có cơ sở để đánh giá một
cách đúng đắn thành quả của các đơn vị, bộ phận trong việc hướng tới mục
tiêu chung của Bưu điện Quảng Nam.


3
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam như thế
nào? Ưu nhược điểm ra sao?
- Công tác kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam đã hình
thành, phục vụ tốt cho quản trị nội bộ ở Bưu điện chưa?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung

cơ bản của kế toán trách nhiệm theo từng cấp quản lý phục vụ đánh giá trách
nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Bưu điện tỉnh Quảng Nam, bao gồm các đơn vị
trực thuộc tham gia họat động sản xuất kinh doanh thuộc Bưu điện tỉnh
Quảng Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài là xây dựng cơ sở lý luận về
kế toán trách nhiệm từ những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước, từ đó
nghiên cứu thực trạng về kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập và phân tích số liệu thực tế,
phương pháp tổng hợp, so sánh đối chiếu, kỹ thuật phân tích và dự báo các
chỉ tiêu kinh tế.


4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản của kế toán
trách nhiệm trong doanh nghiệp.
- Về mặt thực tiễn:
+ Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh
Quảng Nam.
+ Xác định và phân tích các nguyên nhân tồn tại trong việc tổ chức vận
dụng kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán phục vụ đánh giá
trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán trách nhiệm tại Bưu điện
tỉnh Quảng Nam.


5
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Việc nghiên cứu kế toán trách nhiệm trong các doanh nghiệp đã được
nhiều tác giả nghiên cứu. Điển hình là các công trình nghiên cứu sau:
- “Hoàn thiện tổ chức kế toán trách nhiệm tại các doanh nghiệp dệt trên
địa bàn Đà Nẵng”, tác giả Nguyễn Thị Lãnh (2005). Luận văn đã giải quyết
được một số nội dung:
Thứ nhất, đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận cơ bản về kế toán trách
nhiệm, làm tiền đề cho việc đánh giá thực trạng và tìm ra các giải pháp khắc
phục những tồn tại về quản trị chi phí trong các doanh nghiệp dệt.
Thứ hai, phản ánh được thực trạng kế toán trách nhiệm của các doanh
nghiệp dệt bao gồm: Nhận diện các cách phân loại chi phí, công tác lập dự
toán chi phí, tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Từ đó, chỉ
ra những hạn chế cần hoàn thiện tổ chức kế toán trách nhiệm ở các doanh
nghiệp dệt.
Thứ ba, để hoàn thiện công tác kế toán trách nhiệm tại các doanh nghiệp
dệt, luận văn đã đưa ra các giải pháp: Tổ chức các trung tâm trách nhiệm theo
cơ cấu phân cấp quản lý của các doanh nghiệp, hoàn thiện hệ thống báo cáo
kế toán trách nhiệm, xây dựng phương pháp định giá chuyển giao.
- “Hoàn thiện tổ chức kế toán trách nhiệm tại Cảng Đà Nẵng”, tác giả
Nguyễn Thị Bích Trâm (2008). Luận văn đã giải quyết được một số nội dung:
Về mặt lý luận: Luận văn đã trình bày phân tích và hệ thống hóa những
vấn đề lý luận về kế toán trách nhiệm, trong đó nêu được bản chất, vai trò và
nội dung của kế toán trách nhiệm, làm tiền đề để nghiên cứu thực trạng kế
toán trách nhiệm tại công ty.



6
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã tập trung nghiên cứu thực tiễn về đặc
điểm tổ chức hoạt động kinh doanh, đặc điểm về tổ chức quản lý, cơ cấu bộ
máy kế toán, đi sâu tìm hiểu thực trạng kế toán trách nhiệm tại công ty. Đồng
thời, đã đưa ra nhận xét và đánh giá khách quan về thực trạng công tác kế
toán trách nhiệm tại công ty, từ đó có hướng hoàn thiện kế toán trách nhiệm
tại công ty.
Luận văn đã phân tích sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán trách nhiệm
và đưa ra các giải pháp hoàn thiện tại công ty.
- “Hoàn thiện kế toán trách nhiệm tại Công ty cao su Việt Trung Quảng
Bình”, tác giả Lương Đình Của (2008). Luận văn đã làm rõ một số vấn đề:
Trình bày, làm rõ những vấn đề lý luận chung về kế toán trách nhiệm.
Trình bày khái quát thực tế công tác kế toán trách nhiệm tại công ty.
Luận văn đã đánh giá chỉ ra những nguyên nhân hạn chế trong việc tổ
chức kế toán trách nhiệm tại công ty.
- “Hoàn thiện kế toán trách nhiệm tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
thủy sản Miền Trung”, tác giả Thái Nữ Hạ Uyên (2008), luận văn đã nêu lên
những nội dung:
+ Về mặt lý luận: Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của kế toán trách
nhiệm trong doanh nghiệp sản xuất.
+ Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán trách nhiệm
tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Miền Trung, nêu ra được các
nguyên nhân tồn tại trong việc tổ chức, vận dụng kế toán trách nhiệm tại
Công ty cổ phần XNK thủy sản Miền Trung, và đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện kế toán trách nhiệm tại công ty, như: Hoàn thiện hệ thống thông tin dự
toán của Công ty, xây dựng báo cáo thành quả bộ phận của các trung tâm
trách nhiệm, thực hiện công tác đánh giá thành quả bộ phận bằng các công cụ



7
phù hợp, nhằm kịp thời xử lý và cung cấp thông tin cho việc ra quyết định của
các nhà quản trị, hỗ trợ việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tại đơn vị.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa nghiên cứu chuyên sâu
về hệ thống kế toán trách nhiệm áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất dịch vụ
bưu điện,.. Hướng đi mới của đề tài là góp phần chắt lọc và hoàn thiện hệ
thống kế toán trách nhiệm tại doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm dịch vụ bưu
điện, cụ thể là tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam, nhằm cung cấp cho nhà quản trị
những nhận thức về kế toán trách nhiệm và tầm quan trọng của nó. Qua đó, có
thể vận dụng vào doanh nghiệp nhằm cải tạo hệ thống kế toán mang lại lợi ích
kinh tế cao cho doanh nghiệp.
- Từ những tài liệu liên quan về kế toán trách nhiệm, tác giả đã hệ
thống hoá và tổng kết những lý luận cơ bản về kế toán trách nhiệm tại doanh
nghiệp, phân cấp quản lý và sự hình thành các trung tâm trách nhiệm trong
doanh nghiệp; tổ chức thông tin dự toán và thông tin kế toán ở các trung tâm
trách nhiệm; và các phương pháp đánh giá thành quả của các trung tâm trách
nhiệm. Là cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác kế toán phục vụ đánh giá
trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
- Đối với phần thực trạng kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng
Nam, tác giả đã đọc và nghiên cứu Quá trình hình thành và phát triển, Mô
hình tổ chức, Kết quả hoạt động kinh doanh….của Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
Đặc biệt tác giả đã đi sâu xem xét và phân tích thực trạng kế toán trách nhiệm
tại Bưu điện tỉnh để từ đó nêu ra những kết quả đã đạt được, hạn chế và
nguyên nhân. Từ đó tác giả đã đề ra được các giải pháp hoàn thiện công tác
phục vụ đánh giá trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam.
- Về phương pháp nghiên cứu: tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: tổng hợp, so sánh đối chiếu số liệu, kỹ thuật phân tích và dự
báo các chỉ tiêu kinh tế, thống kê các số liệu thực tế về các kết quả kinh doanh



8
từ đó dùng lý luận để phân tích các chỉ tiêu kinh tế….để luận giải các vấn đề
có liên quan đến đối tượng nghiên cứu tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam. Như
vậy, tác giả đã dùng phương pháp tiếp cận một cách logic các vấn đề từ lý
luận đến thực tiễn để từ đó có những đánh giá xác đáng về thực trạng công tác
kế toán trách nhiệm tại Bưu điện tỉnh Quảng Nam và từ đó đề ra những giải
pháp thiết thực giúp cho Bưu điện tỉnh Quảng Nam từng bước hoàn thiện kế
toán trách nhiệm tại đơn vị mình.


9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm và bản chất kế toán trách nhiệm
1.1.1 Khái niệm kế toán trách nhiệm
Chúng ta biết rằng, hầu hết các tổ chức nói chung và tổ chức kinh
doanh nói riêng đều được phân chia thành các bộ phận nhỏ hơn, mỗi bộ phận
đảm nhiệm một chức năng cụ thể, chịu trách nhiệm về những công việc cụ
thể. Trong mỗi bộ phận như vậy sẽ có những cá nhân chịu trách nhiệm về một
công việc hoặc chức năng nào đó. Như vậy, để đạt được mục tiêu chung của
tổ chức thì mỗi cá nhân, mỗi bộ phận trong tổ chức phải nỗ lực thực hiện các
nhiệm vụ, các mục tiêu riêng lẻ do quản lý cấp cao đã vạch ra cho bộ phận
mình. Để kiểm soát hoạt động của cấp dưới, các nhà quản lý cấp cao đã dựa
vào hệ thống kế toán trách nhiệm.
Kế toán trách nhiệm được hiểu là hệ thống thu thập và báo cáo các
thông tin về họat động của từng nhóm trách nhiệm. Các cấp quản lý sẽ phải
chịu trách nhiệm về lĩnh vực hoạt động của mình, của thuộc cấp và tất cả các
hoạt động khác thuộc trách nhiệm của họ.
Hay nói cách khác, kế toán trách nhiệm là một hệ thống thừa nhận mỗi

bộ phận (thành viên, con người) trong một tổ chức có quyền chỉ đạo và chịu
trách nhiệm về những nghiệp vụ riêng biệt thuộc phạm vi quản lý của mình,
họ phải xác định và báo cáo cho tổ chức, thông qua đó cấp quản lý cao hơn sẽ
đánh giá thành quả của các bộ phận trong tổ chức.
Như vậy, kế toán trách nhiệm trong một tổ chức chính là việc thiết lập
quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bộ phận, thành viên và một hệ thống chỉ tiêu,
báo cáo thành quả của mỗi bộ phận thành viên.
1.1.2 Bản chất của kế toán trách nhiệm
1.1.2.1 Kế toán trách nhiệm là nội dung cơ bản của kế toán quản trị


10
Kế toán quản trị doanh nghiệp là bộ phận không thể tách rời của hệ
thống kế toán doanh nghiệp. Ngoài thông tin kế toán tài chính cung cấp, các
nhà quản lý vẫn đòi hỏi có thêm thông tin mang tính kiểm soát và dự báo,
chẳng hạn như thu nhập và chi phí phân chia theo bộ phận. Như vậy, kế toán
quản trị biểu hiện trách nhiệm của các nhà quản lý các cấp bên trong doanh
nghiệp thông qua kế toán trách nhiệm, trong khi kế toán tài chính biểu hiện
trách nhiệm của nhà quản trị cấp cao.
Quá trình hình thành và phát triển của kế toán trách nhiệm gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của kế toán quản trị. Kế toán trách nhiệm
được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào năm 1950 trong tác phẩm "Basic
organizational planning to tie in with responsibility accounting" của Ailman,
H.B.1950. Từ đó đến nay, vấn đề kế toán trách nhiệm được quan tâm nhiều
với những quan điểm khác nhau bởi những tác giả khác nhau ở nhiều quốc gia
trên thế giới.
Nhóm tác giả Anthony A.Atkinson, Rajiv. D.Banker, Robert S.Kaplan
and S.mark Young khẳng định: kế toán trách nhiệm là một hệ thống kế toán
có chức năng thu thập, tổng hợp và báo cáo các dữ liệu kế toán có liên quan
đến trách nhiệm của từng nhà quản lý riêng biệt trong một tổ chức, cung cấp

thông tin nhằm đánh giá trách nhiệm và thành quả mỗi nhà quản lý tạo ra các
báo cáo chứa cả những đối tượng có thể kiểm soát và không thể kiểm soát đối
với một cấp quản lý.
Nhóm tác giả Weygandt, Kieso và Kimmel cho rằng kế toán trách
nhiệm là một bộ phận của kế toán quản trị mà liên quan đến việc tích lũy, báo
cáo về thu nhập và chi phí trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra những
quyết định trong hoạt động hằng ngày về các vấn đề đó.
Nhóm tác giả Clive Emmanuel, David Otley and Kenneth Mar-chant lại
xác định kế toán trách nhiệm là sự thu thập tổng hợp và báo cáo những thông


11
tin tài chính về những trung tâm khác nhau trong một tổ chức (những trung
tâm trách nhiệm), cũng còn được gọi là kế toán hoạt động hay kế toán khả
năng sinh lợi.
Có quan điểm kế toán trách nhiệm là một hệ thống tạo ra những thông
tin tài chính và phi tài chính có liên quan về những hoạt động thực tế và được
lập kế hoạch của những trung tâm trách nhiệm trong một công ty - những đơn
vị trong tổ chức được đứng đầu bởi những nhà quản lý có trách nhiệm cho kết
quả hoạt động của đơn vị họ quản lý. Những bộ phận chủ yếu bao gồm: Hệ
thống dự toán ngân sách, các báo cáo kết quả hoạt động, các báo cáo về sự
biến động và những mức giá chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ nội bộ giữa
các bộ phận trong công ty.
Tóm lại, hiện có nhiều quan điểm khác về kế toán trách nhiệm, tuy
nhiên chúng ta thấy rằng sự khác nhau của các quan điểm trên được thể hiện ở
cách thức nhìn nhận của mỗi tác giả về đặc điểm, ý nghĩa và cơ chế tổ chức
kế toán trách nhiệm ở doanh nghiệp, sự khác nhau đó không mang tính đối
nghịch mà chúng cùng bổ sung cho nhau nhằm giúp chúng ta có cái nhìn toàn
diện hơn về kế toán trách nhiệm. Từ đó có thể rút ra những vấn đề thuộc bản
chất của kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị.

1.1.2.2 Kế toán trách nhiệm – một nhân tố trong hệ thống kiểm soát quản lý
Hệ thống kiểm soát quản lý là hệ thống các phương pháp kiểm soát
trong nội bộ doanh nghiệp như kiểm soát chi phí, kiểm soát mua hàng, kiểm
soát bán hàng v.v. Hệ thống kiểm soát quản lý có thể hiểu là các hoạt động,
biện pháp, kế hoạch, quan điểm, nội quy chính sách và nỗ lực của mọi thành
viên trong tổ chức để đảm bảo tổ chức đó hoạt động hiệu quả, đạt được mục
tiêu đặt ra một cách hợp lý.
Để xây dựng một hệ thống kiểm soát quản lý nhằm đạt được mục tiêu
của tổ chức, trước tiên các nhà quản lý phải xây dựng chiến lược lâu dài cho


12
đơn vị. Dựa trên chiến lược của đơn vị và của từng bộ phận kinh doanh, đơn
vị đề ra các mục tiêu cụ thể, và các mục tiêu này phải có mối liên quan chặt
chẽ với nhau cùng hỗ trợ nhau hướng đến mục đích chung của đơn vị.
Nhà quản lý phải phân tích các hoạt động của đơn vị để từ đó xác định
các bộ phận có nhiệm vụ cụ thể gì, chịu trách nhiệm chính về công việc gì,
công việc đó có các khoản doanh thu, chi phí cụ thể nào, bộ phận nào là trung
tâm chi phí, trung tâm doanh thu hay trung tâm lợi nhuận…. Từ việc phân
tích rõ ràng như vậy, hệ thống kế toán cũng sẽ được thiết kế sao cho có thể
đảm bảo việc ghi chép phản ánh một cách đầy đủ, rõ ràng, riêng biệt các chỉ
tiêu của từng trung tâm.
Như vậy, người ta áp dụng hệ thống kế toán trách nhiệm để nhận rõ bộ
phận nào trong tổ chức có trách nhiệm với từng mục tiêu, phát triển các đo
lường việc thực hiện và các chỉ tiêu cần đạt được, và thiết kế các báo cáo về các
đo lường này ở từng bộ phận trong tổ chức hoặc từng trung tâm trách nhiệm.
Giám sát và báo cáo kết quả các hoạt động kinh doanh là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống kiểm soát quản lý. Các nhà quản lý xác định các
công việc và các đo lường việc thực hiện chúng có liên quan đến mục tiêu của
tổ chức. Điều này được làm thông qua hệ thống báo cáo thực hiện.

1.1.2.3 Tính hai mặt của kế toán trách nhiệm và ảnh hưởng đến thái độ của
nhà quản lý
Kế toán trách nhiệm bao gồm hai mặt: thông tin và trách nhiệm. Trong
đó, mặt thông tin có nghĩa là sự tập hợp, báo cáo, đánh giá các thông tin mang
tính nội bộ về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ cấp quản lý
thấp đến cấp quản lý cao hơn. Mặt trách nhiệm nghĩa là việc quy trách nhiệm
về những sự kiện tài chính xảy ra. Tùy thuộc vào việc sử dụng hai mặt này mà
ảnh hưởng đến thái độ của người quản lý và hiệu quả của việc phân cấp trách
nhiệm trong doanh nghiệp.


13
Khi kế toán trách nhiệm nhấn mạnh đến khía cạnh thông tin, thì sẽ ảnh
hưởng tích cực lên hành vi của nhà quản lý. Việc nhấn mạnh đến việc cung
cấp thông tin cho các nhà quản lý để giúp họ nắm bắt được tình hình hoạt
động của tổ chức, cũng như hiểu được nguyên nhân của việc hoạt động kém
hiệu quả sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động trong tương lai. Khi sử
dụng hệ thống kế toán trách nhiệm đúng đắn, sẽ ít chú trọng đến việc quy
trách nhiệm. Nếu các nhà quản lý cảm thấy rằng họ bị phê bình và khiển trách
vì hiệu quả thực hiện công việc của họ không tốt, họ thường có xu hướng đối
phó theo cách không tích cực và có khi hoài nghi về hệ thống (Hilton, 1991)
Hay nói cách khác, khi kế toán trách nhiệm quá nhấn mạnh đến mặt
đánh giá trách nhiệm của người quản lý sẽ ảnh hưởng đến thái độ của người
quản lý theo hướng tiêu cực, thay vì tìm ra nguyên nhân và khắc phục những
sai lầm thì họ lại tìm cách che đậy sai phạm, đối phó và hoài nghi về hệ thống
kiểm soát, đánh giá của tổ chức và tìm cách phá vỡ hệ thống này. Như vậy kế
toán trách nhệm không hoàn thành mục tiêu đã đặt ra.
Nói chung, khi vận dụng kế toán trách nhiệm, cần tập trung vào vai trò
thông tin của hệ thống. Điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến hành vi và thái độ
của nhà quản lý, khuyến khích họ cố gắng cải thiện hiệu quả hoạt động.

1.2 Phân cấp quản lý là cơ sở hình thành kế toán trách nhiệm
1.2.1 Khái niệm về phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý hay còn gọi là phân quyền trong quản lý được hiểu là
sự phân chia quyền lực xuống cấp dưới, quyền ra quyết định không còn của
một người hay một nhóm nhỏ mà trải rộng trên toàn tổ chức. Do vậy, các cấp
quản lý khác nhau được quyền ra quyết định liên quan đến phạm vi trách
nhiệm của họ. Nhà quản trị doanh nghiệp cần phải xác định đúng đắn mức độ
phức tạp của tổ chức để từ đó tổ chức phân quyền cho phù hợp. Nếu quyền
lực được phân tán quá rộng xuống cấp dưới thì nhà quản trị sẽ gặp khó khắn
trong việc kiểm tra giám sát, hoạt động của các bộ phận không đảm bảo tính
thống nhất. Ngược lại, nếu doanh nghiệp áp dụng mô hình tập trung quyền


14
lực, trực tiếp quản lý điều hành xử lý từ những công việc mang tính tác
nghiệp đến những công việc mang tính chiến lược thì sẽ dẫn đến tình trạng
quá sa đà vào những công việc mang tính sự vụ hàng ngày và gặp khó khăn
trong khâu hoạch định chiến lược.
Các nhà quản lý cho rằng kế toán trách nhiệm gắn liền với sự phân cấp
quản lý, hệ thống kế toán trách nhiệm hoạt động thực sự hiệu quả trong các tổ
chức mà sự phân quyền được thực hiện đúng mức và phù hợp với cơ cấu tổ
chức. Phân cấp quản lý cao hay thấp sẽ quyết định hệ thống kế toán được tổ
chức như thế nào: tập trung, phân tán hay vừa tập trung vừa phân tán.
Như vậy, phân cấp quản lý là sự phân quyền cho cấp dưới, dẫn đến sự
phân định rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm trong quản lý cho cấp dưới
dựa trên cơ sở cấu trúc phân quyền mà nhà quản trị đã lựa chọn.
1.2.2 Vai trò của phân cấp quản lý đối với việc hình thành kế toán trách nhiệm
Hệ thống kế toán trách nhiệm gắn liền với sự phân cấp về quản lý. Nếu
không có sự phân cấp quản lý thì sẽ không tồn tại hệ thống kế toán trách nhiệm
hay hệ thống kế toán trách nhiệm sẽ không có ý nghĩa. Hệ thống kế toán trách

nhiệm chỉ tồn tại, hoạt động có hiệu quả trong các tổ chức phân quyền, ở đó
quyền ra quyết định và trách nhiệm được trải rộng trong toàn tổ chức. Các cấp
quản lý khác nhau được quyền ra quyết định và chịu trách nhiệm với phạm vi
quyền hạn và trách nhiệm của họ. Hoạt động của tổ chức gắn liền với hệ thống
quyền hạn, trách nhiệm của tất cả các bộ phận, thành viên.
Khi quy mô của doanh nghiệp càng lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh
càng phức tạp thì đòi hỏi doanh nghiệp phải phân thành nhiều bộ phận, nhiều
cấp quản lý khác nhau. Lúc này sự phân quyền cho các đơn vị, bộ phận bên
dưới sẽ được thực hiện nhiều hơn. Trong đó, có một số quyết định chỉ được nhà
quản trị cấp cao thực hiện, một số quyết định khác được ủy quyền xuống các
cấp thấp hơn. Mức độ độc lập của từng đơn vị, bộ phận trong doanh nghiệp


15
phản ánh mức độ phân quyền của doanh nghiệp. Sự độc lập ở mỗi bộ phận,
đơn vị càng nhiều chứng tỏ sự phân quyền trong doanh nghiệp càng lớn.
Sự phân cấp quản lý trải rộng việc quyết định cho nhiều cấp quản lý.
Do vậy, ban quản lý cấp cao hơn không phải giải quyết các vấn đề vụ việc chi
tiết xảy ra hằng ngày, họ tập trung vào những công việc chiến lược, việc lập
các kế hoạch dài hạn và điều phối các hoạt động của các bộ phận trong tổ
chức, đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu chung.
Sự phân cấp quản lý giúp cho nhà quản lý ở các cấp có sự độc lập
tương đối trong điều hành công việc của mình, phát triển kỹ năng, nâng cao
kiến thức chuyên môn, tăng nhanh khả năng ứng xử các tình huống để tăng
tốc độ hoạt động của mỗi bộ phận, toàn tổ chức và tập dợt về kỹ năng quản lý
khi được thăng tiến trong tổ chức.
Sự phân cấp quản lý còn giúp cho nhà quản lý ở các cấp có sự hài lòng
trong công việc từ đó động viên được năng lực, đóng góp tích cực của người
quản lý trong việc nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Phân cấp quản lý gắn liền với xác định nhiệm vụ ở các cấp quản lý, nên

có cơ sở để đánh giá thành quả ở các cấp quản lý và đây chính là cơ sở để
hình thành kế toán trách nhiệm.
Tóm lại, phân cấp quản lý gắn liền với nội dung kế toán trách nhiệm.
Qua phân cấp quản lý sẽ xác định được quyền hạn và trách nhiệm ở mỗi cấp
rõ ràng, nên có cơ sở cho việc đánh giá kết quả hoạt động của từng bộ phận,
tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục. Mọi hoạt động của doanh nghiệp
đều phải nằm trong tầm kiểm soát của nhà quản trị theo sự phân cấp từ cao
đến thấp. Phân cấp quản lý vừa là tiền đề vừa là động lực thúc đẩy sự hình
thành kế toán trách nhiệm.
1.3 Nội dung cơ bản của kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp
1.3.1 Tổ chức các trung tâm trách nhiệm trong doanh nghiệp
1.3.1.1 Khái niệm và bản chất trung tâm trách nhiệm
a/ Khái niệm trung tâm trách nhiệm


16
Trung tâm trách nhiệm được định nghĩa như một bộ phận trong một tổ
chức, nơi mà nhà quản trị bộ phận chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động
của đơn vị mình. Theo quan điểm đó, một tổ chức được xem là một tập hợp,
hay một mạng lưới các trung tâm trách nhiệm. Cụ thể hơn, vì mỗi người trong
tổ chức đều chịu trách nhiệm với cái gì đó và vì phần lớn tổ chức đều tổ chức
nhân sự của mình thành các nhóm (phòng, bộ phận, chương trình...) nên mỗi
nhóm có thể được xem là một trung tâm trách nhiệm. Tùy thuộc vào tính phức
tạp của cơ cấu tổ chức và mức độ phân cấp quản lý mà doanh nghiệp thiết lập
các trung tâm trách nhiệm phù hợp. Các trung tâm trách nhiệm này tạo thành
hệ thống cấp bậc: ở cấp thấp nhất của tổ chức là các trung tâm trách nhiệm
cho từng bộ phận, từng khu vực, mỗi công việc hay một nhóm nhỏ các công
việc như cấp phân xưởng sản xuất, cửa hàng… Nhà quản lý ở cấp này là các
quản đốc phân xưởng, cửa hàng trưởng… Ở cấp cao hơn là các bộ phận hoặc
các thành phần gồm nhiều đơn vị nhỏ hơn như khu vực kinh doanh theo vùng,

miền hay các nhà máy phân bố ở các tỉnh… Nói cách khác, mỗi trung tâm
trách nhiệm trong tổ chức được giao cho một nhà quản lý cụ thể, nhà quản lý
này là người chịu trách nhiệm điều hành trung tâm theo phạm vi quyền hạn
được giao và chịu trách nhiệm toàn bộ về kết quả đạt được của trung tâm.
b/ Bản chất của trung tâm trách nhiệm
Một trung tâm trách nhiệm có bản chất như một hệ thống, mỗi hệ thống
được xác định để xử lý một công việc cụ thể. Hệ thống này sử dụng đầu vào
là các giá trị vật chất như nguyên vật liệu, số giờ công của các loại lao động
và các dịch vụ khác, kèm theo vốn họat động. Kết quả đầu ra là các loại hàng
hóa nếu nó là sản phẩm hữu hình, là dịch vụ nếu nó là sản phẩm vô hình.
Bản chất của trung tâm trách nhiệm được mô tả như sau:
Trung tâm trách nhiệm
Đầu vào:
Nguồn lực

Công việc

Đầu ra:
Sản phẩm/ Dịch vụ


17

Vốn
Sản phẩm và dịch vụ tạo ra bởi một trung tâm trách nhiệm này có thể là
đầu vào của một trung tâm trách nhiệm khác trong cùng một tổ chức và cũng
có thể được bán ra bên ngoài. Vì vậy, đôi khi nó là đầu vào của một trung tâm
trách nhiệm và đôi khi nó là đầu ra của toàn bộ tổ chức.
Mức độ hoàn thành của một trung tâm trách nhiệm thường được đánh
giá dựa trên hai tiêu chí: hiệu quả và hiệu suất.

Hiệu quả là tỉ lệ giữa đầu ra so với đầu vào của trung tâm trách nhiệm,
hay có thể nói đó là tỉ lệ giữa kết quả thực tế đạt được với nguồn lực thực tế
mà trung tâm trách nhiệm đã sử dụng để tạo ra kết quả đó.
Khái niệm hiệu suất thì hay dùng trong các lĩnh vực liên quan tới máy
móc mà thường thấy là các đánh giá về sản lượng đầu ra trên một đơn vị đầu
vào. Một hoạt động được gọi là đạt hiệu suất khi nó sản xuất một lượng đầu ra
giao sẵn mà tiêu tốn ít chi phí đầu vào nhất, hay với một lượng đầu vào được
giao, sản xuất được lượng sản phẩm đầu ra nhiều nhất. Hay nói cách khác
hiệu suất là mối quan hệ giữa đầu ra của một trung tâm trách nhiệm và mục
tiêu của của trung tâm trách nhiệm đó. Đó chính là mức độ hoàn thành mục
tiêu của một trung tâm trách nhiệm.
Như vậy, để có thể xác định được hiệu quả và hiệu suất của các trung
tâm trách nhiệm, vấn đề đặt ra là phải lượng hóa được đầu vào và đầu ra của
các trung tâm trách nhiệm. Trên cơ sở đó sẽ xác định được các chỉ tiêu cụ thể
để đánh giá kết quả hoạt động của từng trung tâm cụ thể. Việc đo lường thành
quả hoạt động của các trung tâm trách nhiệm sẽ tạo điều kiện cho việc đánh
giá chất lượng hoạt động của người đứng đầu trung tâm, đồng thời khích lệ họ
điều khiển hoạt động của trung tâm của mình phù hợp với mục tiêu cơ bản
toàn công ty.


18
1.3.1.2 Các loại trung tâm trách nhiệm
Căn cứ vào sự khác biệt trong việc lượng hóa giưa “đầu vào” và “đầu
ra” của các trung tâm trách nhiệm cũng như mức độ trách nhiệm của người
quản trị trung tâm, có thể chia thành 4 loại trung tâm trách nhiệm chính:
a/ Trung tâm chi phí
Trung tâm chi phí là một loại trung tâm trách nhiệm thể hiện phạm vi
cơ bản của hệ thống xác định chi phí, là điểm xuất phát của các hoạt động
như: (1) Lập dự toán chi phí; (2) Phân loại chi phí thực tế phát sinh; (3) So

sánh chi phí thực tế với định mức chi phí tiêu chuẩn. Trung tâm chi phí gắn
liền với cấp quản lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch
vụ, hoặc gián tiếp phục vụ kinh doanh (như phân xưởng sản xuất, các phòng
ban chức năng). Theo đó, người quản lý chỉ chịu trách nhiệm hoặc chỉ có
quyền kiểm soát đối với chi phí phát sinh ở bộ phận mình, không có quyền
hạn đối với việc tiêu thụ và đầu tư vốn.


19
b/ Trung tâm doanh thu
Trung tâm doanh thu là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chỉ có
trách nhiệm với doanh thu cần tạo ra, không chịu trách nhiệm với lợi nhuận
và vốn đầu tư. Trung tâm doanh thu có quyền quyết định công việc bán hàng
trong khung giá cả cho phép để tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp.
Trung tâm này thường được gắn với bậc quản lý cấp trung hoặc cấp cơ
sở, đó là các bộ phận kinh doanh trong đơn vị như các chi nhánh tiêu thụ, khu
vực tiêu thụ, cửa hàng tiêu thụ, nhóm sản phẩm...
Trung tâm này phải có chính sách bán hàng, không chỉ dựa trên tình hình thị
trường mà còn dựa trên giá thành, chi phí và các mục tiêu lâu dài của công ty.
c/ Trung tâm lợi nhuận
Trung tâm lợi nhuận là loại trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị phải
chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất và tiêu thụ của trung tâm. Trong trường
hợp này nhà quản lý có thể ra quyết định loại sản phẩm nào cần sản xuất, sản
xuất như thế nào, mức độ chất lượng, giá cả, hệ thống phân phối và bán hàng.
Nhà quản lý phải quyết định các nguồn lực sản xuất được phân bổ như thế
nào giữa các sản phẩm, điều đó cũng có nghĩa là họ phải đạt được sự cân bằng
trong việc phối hợp giữa các yếu tố giá cả, sản lượng, chất lượng và chi phí.
Loại trung tâm trách nhiệm này thường được gắn ở bậc quản lý cấp
trung, đó là giám đốc điều hành trong công ty, các đơn vị kinh doanh trong
tổng công ty như các công ty phụ thuộc, các chi nhánh,... Nếu nhà quản lý

không có quyền quyết định mức độ đầu tư tại trung tâm của họ thì tiêu chí lợi
nhuận được xem là tiêu chí thích hợp nhất để đánh giá kết quả thực hiện của
trung tâm này.
d/ Trung tâm đầu tư
Đây là loại trung tâm trách nhiệm gắn với bậc quản lý cấp cao như Hội
đồng quản trị công ty, các công ty con độc lập,... Đó là sự tổng quát hóa của các
trung tâm lợi nhuận trong đó khả năng sinh lời được gắn với các tài sản được sử
dụng để tạo ra lợi nhuận đó. Một trung tâm trách nhiệm được xem là một trung


20
tâm đầu tư khi nhà quản trị của trung tâm đó không những quản lý chi phí và
doanh thu mà còn quyết định lượng vốn sử dụng để tiến hành quá trình đó.
Bằng cách tạo mối liên hệ giữa lợi nhuận và tài sản sử dụng để tạo ra
lợi nhuận đó, chúng ta có thể đánh giá lợi nhuận tạo ra có tương xứng với
đồng vốn đã bỏ ra hay không. Thông qua đó cũng hướng sự chú ý của nhà
quản lý đến mức độ sử dụng hiệu quả vốn lưu động đặc biệt là các khoản phải
thu và hàng tồn kho được sử dụng tại trung tâm.
1.3.2 Tổ chức hệ thống báo cáo trách nhiệm
1.3.2.1
Đặc điểm báo cáo kế toán trách nhiệm
Báo cáo kế toán trách nhiệm là báo cáo phản ánh kết quả theo các chỉ
tiêu chủ yếu đạt được ở từng trung tâm trách nhiệm trong một khoảng thời
gian nhất định, đồng thời chỉ ra các chênh lệch giữa kết quả thực tế so với dự
toán theo từng chỉ tiêu.
+ Đặc điểm chung của báo cáo kế toán trách nhiệm
a/ Mức độ chi tiết của báo cáo giảm dần khi cấp độ nhà quản trị nhận
báo cáo tăng dần.
Trong hệ thống kế toán trách nhiệm, các báo cáo hoạt động được thiết
kế cho các cấp độ quản lý khác nhau. Số lượng các cấp quản lý trong một

trung tâm trách nhiệm tùy thuộc vào cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp. Một
hệ thống kế toán trung tâm trách nhiệm cung cấp một báo cáo cho mỗi nhà
quản lý và các nhà quản cấp thấp hơn báo cáo cho các nhà quản lý cấp cao
hơn, nên những chi phí và doanh thu giống nhau có thể xuất hiện trên nhiều
báo cáo, vì thế khi dữ liệu hoạt động ở cấp độ thấp hơn nằm trong các báo cáo
cấp cao hơn, thì các dữ liệu đó được tóm lược lại.
b/ Báo cáo cho các nhà quản lý cấp cao không dùng để “cộng thêm
vào”: nghĩa là tổng chi phí trên báo cáo của nhà quản trị không phải là tổng số
chi phí các báo cáo cấp dưới. Ví dụ, tổng chi phí báo cáo của nhà quản trị nhà
máy sẽ lớn hơn tổng các báo cáo phân xưởng vì nhà quản lý cấp nhà máy chịu
trách nhiệm về một số khoản chi phí mà nhà quản trị phân xưởng không chịu,
những khoản chi phí này dùng chung cho tất cả các phân xưởng và do vậy,


×