Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Hoàn thiện công tác kế toán quản trị tại công ty cổ phần cao su Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.98 KB, 108 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh nhằm mở rộng thị phần, nâng cao
lợi nhuận thì kế toán không chỉ duy nhất thực hiện các báo cáo tài chính mà kế toán
cần phải phục vụ cho công tác quản trị doanh nghiệp. Đó thực sự là nhu cầu cần
thiết cho công tác điều hành hoạt động và quản lý của một doanh nghiệp. Để đưa ra
các quyết định quản trị cần các nguồn thông tin. Chất lượng của quyết định là sự
phản ánh chất lượng của quá trình xử lý và cung cấp thông tin kế toán và các thông
tin khác. Thông tin kế toán được xem như là ngôn ngữ kinh doanh vì cung cấp các
thông tin liên quan đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tuy
nhiên thông tin kế toán là một lĩnh vực còn tương đối mới mẻ tại Việt Nam, nhất là
khi mà hành lang pháp lý vẫn chưa được kiến thiết một cách hoàn chỉnh. Trong tình
hình đó, hệ thống kế toán quản trị với chức năng cung cấp thông tin hướng về tương
lai lại càng kích thích việc tìm hiểu nghiên cứu ứng dụng thực tế nhiều hơn nữa.
Một doanh nghiệp tương đối lớn và quy mô như công ty Cổ Phần Cao Su Đà
Nẵng thì việc thường xuyên ra các quyết định quản trị doanh nghiệp như quyết định
về giá bán, về nhượng bán, thanh lý mua mới tài sản cố định, về các quá trình tự sản
xuất hay mua ngoài, quản trị nguồn nhân lực, quản trị doanh thu, chi phí, quản trị
hàng tồn kho, quản trị tài chính,v.v.. đòi hỏi thông tin mà kế toán quản trị mang lại
phải được tổ chức kịp thời nhằm phục vụ một cách tối ưu để tư vấn cho các trường
hợp phải ra quyết định, quản trị của các cấp quản lý. Kế toán quản trị đã bước đầu
trở thành công cụ để cung cấp thông tin, giúp các nhà quản trị của công ty thực hiện
mục tiêu đề ra một cách chắc chắn và hiệu quả. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay nói
chung và tại Công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng nói riêng, kế toán quản trị còn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa thực sự là công cụ cung cấp thông tin giúp cho nhà
quản trị xem xét, phân tích, làm cơ sở ra các quyết định. Điều này có ảnh hưởng
đáng kể tới chất lượng và hiệu quả của các quyết định quản trị và là một trong các
nguyên nhân làm cho sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như
công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng còn hạn chế khi tham gia thị trường trong nước




2

giai đoạn mở cửa và ra thị trường thế giới. Đề tài với tên gọi “Hoàn thiện công tác
kế toán quản trị tại công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng” nhằm mục đích khai thác
thực tế của việc ứng dụng kế toán quản trị hỗ trợ công tác quản trị công ty. Trên cơ
sở đó, đưa ra các phương hướng và giải pháp để hoàn thiện hơn nữa việc ứng dụng
kế toán quản trị trong công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản kế toán quản trị và khảo sát
thực tế công tác kế toán quản trị tại công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng. Trên cơ sở
đánh giá thực trạng công tác kế toán quản trị tại công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng.
Với cơ sở lý luận về kế toán quản trị đặc thù cho ngành sản xuất và thực tế công tác
kế toán quản trị tại công ty đề ra các giải pháp hoàn thiện công tác kế toán quản trị
phù hợp với điều kiện thực tế nhằm nâng cao hiệu quả thông tin của kế toán quản trị
để phục vụ tốt công tác quản trị công ty, nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
trên thị trường trong và ngoài nước.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm nghiên cứu lý luận chung về kế toán
quản trị và thực tế vận dụng công tác kế toán quản trị của công ty Cổ Phần Cao Su
Đà Nẵng nhằm quản trị công ty như cách phân loại chi phí phục vụ ra quyết định,
cách ứng dụng phân tích mối quan hệ chi phí, sản lượng, lợi nhuận, hình thức và vai
trò lập dự toán, kế toán trách nhiệm, các báo cáo tình huống ra quyết định v.v.
Phạm vi nghiên cứu là tại công ty Cổ Phần Cao Su Đà Nẵng
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Xem xét các vấn đề trong mối quan hệ với nhau, kết
hợp với các phương pháp như so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích, quan sát, kiểm
chứng thông qua khảo sát thực tế và đánh giá.

5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán quản trị trong các doanh nghiệp


3

Chương 2: Thực trạng công tác kế toán quản trị tại công ty Cổ Phần Cao Su Đà
Nẵng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác kế toán quản trị tại công ty Cổ Phần
Cao Su Đà Nẵng.


4

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. BẢN CHẤT KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1. Kế toán – Một hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp
Hệ thống là một khái niệm đã trở nên quen thuộc. Đó là một tập hợp các phần
tử tương tác được tổ chức nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Mỗi một doanh
nghiệp là một hệ thống, nhìn sâu hơn nữa, trong mỗi doanh nghiệp có tồn tại các hệ
thống con của nó.
Hệ thống thông tin trong doanh nghiệp là hệ thống thu thập, xử lý và cung cấp
thông tin cho việc ra quyết định, kiểm soát. Doanh nghiệp nào cũng tồn tại nhờ đến
thông tin, vì mọi quyết định và hành động đều dựa trên cơ sở thông tin phù hợp.
Theo lý thuyết hệ thống, hệ thống thông tin được cấu thành từ nhiều hệ thống con
nhằm cung cấp thông tin thỏa mãn nhu cầu ra quyết định quản lý.
Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp
thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp
Hệ thống thông tin kế toán là tập hợp các nguồn lực con người, các quy trình
thủ tục được thiết kế nhằm biến đổi thông qua hình thức xử lý các dữ liệu tài chính
và các dữ liệu khác thành thông tin kế toán. Đây là một hệ thống đóng có quan hệ
(kiểm soát sự tác động của môi trường với hệ thống). Mục đích của hệ thống này là
chuyển đổi dữ kiện đầu vào là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thành các kết xuất là các
báo cáo kế toán.

Nhập liệu

Ghi nhận

Xử lý

Báo cáo

Kết xuất

Kiểm soát

Hệ thống thông tin kế toán
Thông tin kế toán đóng một vai trò rất quan trọng cho các đối tượng sử dụng
nó từ bên ngoài lẫn bên trong doanh nghiệp.


5

Hệ thống thông tin kế toán của doanh nghiệp xét theo mục tiêu cung cấp
thông tin phục vụ cho các tổ chức bên ngoài hay sử dụng trong nội bộ doanh
nghiệp, hệ thống thông tin kế toán bao gồm 2 hệ thống con như sau:

Hệ thống thông tin kế toán tài chính: Đây là hệ thống nhằm cung cấp các
thông tin tài chính chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài. Những thông tin này được
ghi nhận, xử lý theo các quy định, chế độ, các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán hiện
hành. Hệ thống này còn gọi là hệ thống xử lý nghiệp vụ.
Hệ thống thông tin kế toán quản trị: là hệ thống nhằm cung cấp các thông tin
nhằm mục đích quản trị trong nội bộ doanh nghiệp để dự báo các sự kiện sẽ xảy ra
và dự đoán các ảnh hưởng tài chính của chúng đối với doanh nghiệp cũng như quản
trị thực hiện các mục tiêu tài chính và các mục tiêu khác của doanh nghiệp.
Như vậy, với hai hệ thống thông tin kế toán như trên, kế toán quản trị thực
hiện các nội dung gì để cung cấp thông tin nhằm quản trị doanh nghiệp. Đề tài đi
sâu tìm hiểu như cơ sở lý thuyết của đề tài.
1.1.2. Kế toán quản trị – Một hệ thống con của hệ thống kế toán
1.1.2.1. Khái niệm kế toán quản trị
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về kế toán quản trị, Căn cứ Luật Kế toán số
03/2003/QH11 ngày 17/6/2003, căn cứ Nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày
31/5/2004 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Kế toán trong hoạt động kinh doanh, căn cứ Nghị định số 77/2003/NĐ-CP
ngày 01/7/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Tài chính, nhằm giúp các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tổ chức
tốt công tác kế toán, Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán quản trị trong các doanh
nghiệp theo thông tư số 53/2006/TT-BTC thì kế toán quản trị được định nghĩa như
sau:
Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn
vị kế toán (Luật Kế toán, khoản 3, điều 4).


6

1.1.2.2. Kế toán quản trị- Hệ thống con của hệ thống thông tin kế toán

Kế toán quản trị đặt trọng tâm giải quyết các vấn đề quản trị của doanh
nghiệp. Vì vậy, kế toán quản trị phải thiết kế các thông tin kế toán sao cho nhà quản
trị có thể dùng vào việc thực hiện các chức năng quản trị. Do đó, kế toán quản trị
nhằm cung cấp các thông tin về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp, như: Chi phí
của từng bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc, sản phẩm; Phân tích, đánh giá
tình hình thực hiện với kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận; quản lý tài sản,
vật tư, tiền vốn, công nợ; Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng và lợi
nhuận; Lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định đầu tư ngắn hạn và dài hạn;
Lập dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh;... nhằm phục vụ việc điều hành, kiểm
tra và ra quyết định kinh tế của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị là công việc của từng doanh nghiệp, Nhà nước chỉ hướng dẫn
các nguyên tắc, cách thức tổ chức và các nội dung, phương pháp kế toán quản trị
chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện.
Đối tượng nhận thông tin kế toán quản trị là Ban lãnh đạo doanh nghiệp và
những người tham gia quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.1.3. Phân biệt kế toán quản trị và kế toán tài chính
Trọng tâm của kế toán quản trị là cung cấp thông tin phục vụ cho các nhà
quản lý của tổ chức. Trong khi đó, mục tiêu của

kế toán tài chính

(financial

accounting) là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin cho các đối tương bên trong và bên
ngoài tổ chức như các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, các chủ nợ, các cơ quan
Nhà nước, các nhà phân tích đầu tư,

khách hàng.


Tuy vậy, hệ thống kế toán quản trị

và kế toán tài chính cũng có nhiều điểm giống nhau bởi vì cả hai hệ thống này đều
dựa vào dữ liệu thu thập được từ hệ thống kế toán cơ bản của tổ chức. Để hiểu rõ
hơn cần tìm hiểu chi tiết sự khác nhau và những điểm tương đồng của hai mảng
thông tin kế toán kế toán này.
1.1.3.1. Sự khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Có thể tóm lược sự khác nhau qua sơ đồ như sau:


7

BẢNG 1.1. SO SÁNH KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Chỉ tiêu
Kế toán quản trị
Kế toán tài chinh
Mục đích cung cấp thông Quản trị doanh nghiệp thông Phụ vụ công tác báo cáo tài
tin
qua báo cáo kế toán quản trị
Đối tượng sử dụng thông Bên trong doanh nghiệp

chính
Bên trong và bên ngoài doanh

tin:

nghiệp
Mang tính lịch sử, hiện tại, Mang tính lịch sử, sử dụng

Đặc điểm của thông tin


tương lai, sử dụng thước đo thước đo giá trị

hiện vật, giá trị
Nguyên tắc cung cấp thông Linh hoạt, tùy thuộc nhu cầu Bắt buộc, tuân thủ các nguyên
tin
Phạm vi của thông tin
Kỳ báo cáo:

các cấp quản lý
tắc được thừa nhận
Từng bộ phận, phòng ban
Toàn doanh nghiệp
Có thể tuần, tháng, quý, năm Theo quy định; quý, năm

tùy nhu cầu quản lý
Quan hệ với các môn khoa Kết hợp nhiều môn học khoa Có ít quan hệ môn khoa học
học khác
học khác
Tính bắt buộc theo luật Không bắt buộc

khác
Bắt buộc theo luật định hiện

định

hành

1.1.3.2. Những điểm tương đồng giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán quản trị và kế toán tài chính không phải hoàn toàn khác nhau mà giữa

chúng có những điểm tương đồng nhau:
- Cả hai loại kế toán này đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán,
đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến
doanh thu, chi phí và sự vận động cả tài sản, tiền vốn.
- Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số
liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ các chứng từ
gốc. Với hệ thống ghi chép ban đầu này, kế toán tài chính sẽ sử dụng để lập các báo
cáo kế toán tài chính, kế toán quản trị sẽ sử dụng để lập báo cáo quản trị nội bộ.
- Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của nhà quản lý
Ngoài ra, một phần của hệ thống kế toán chung này là hệ thống kế toán chi
phí (cost accounting), có nhiệm vụ thu thập thông tin chi phí được sử dụng trong cả
hệ thống kế toán quản trị và kế toán tài chính. Ví dụ, số liệu về giá thành sản phẩm


8

được nhà quản lý sử dụng để định giá bán sản phẩm, đó là một mục đích sử dụng
thông tin của kế toán quản trị. Tuy vậy, số liệu giá thành cũng được sử dụng để xác
định giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán, đó lại là một mục đích sử dụng
thông tin của kế toán tài chính.
1.2. VAI TRÒ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Như chúng ta đã biết, để điều hành hoạt động kinh doanh các nhà quản trị
phải thông qua các chức năng quản lý cơ bản như hoạch định, tổ chức, kiểm tra,
đánh giá và ra quyết định còn kế toán quản trị sử dụng các phương pháp riêng của
mình để phân tích, thiết kế, tổng hợp và truyền đạt thông tin phục vụ chức năng
quản lý. Cụ thể như sau:
Cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng kế hoạch.
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải đạt được và vạch ra các bước,
phương pháp thực hiện để đạt mục tiêu đó. Chức năng lập kế hoạch và dự toán của
quản lý được thực hiện tốt, có tính hiệu lực và khả thi cao nếu nó được xây dựng

trên cơ sở thông tin phù hợp, hợp lý do bộ phận kế toán quản trị cung cấp. Như vậy,
KTQT cung cấp thông tin cần thiết (như các chỉ tiêu về số lượng, giá trị phù hợp với
chỉ tiêu kế hoạch, các chỉ tiêu này có tính quá khứ và có tính dự báo) để các nhà
quản lý ra các quyết định ngắn hạn, dài hạn, đáp ứng mục tiêu của tổ chức.
Cung cấp thông tin cho quá trình thực hiện.
Chức năng tổ chức thực hiện bao gồm thiết lập cơ cấu tổ chức và truyền đạt
thông tin của kế hoạch đến những cá nhân có trách nhiệm trong tuyến quản lý để
thực hiện kế hoạch đó. Với chức năng này, nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt
nhất giữa các bộ phận, giữa các cá nhân nhằm huy động và kết hợp các nguồn lực
sẵn có của doanh nghiệp lại với nhau để các mục tiêu đã đề ra được thực hiện với
hiệu quả cao nhất.
Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra và đánh giá
Sau khi đã triển khai thực hiện kế hoạch, công việc kiểm tra, kiểm soát nhằm
điều chỉnh và đánh giá có vị trí quan trọng. Với chức năng kiểm tra và đánh giá của


9

quản trị, Kế toán quản trị cung cấp các báo cáo hoạt động, xem xét giữa kết quả
thực tế với dự toán đặt ra và chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần giải quyết hoặc các
cơ hội cần khai thác.
Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định
Thông tin của kế toán quản trị rất cần thiết cho quá trình ra quyết định. Đây là
chức năng quan trọng xuyên suốt từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến
khâu kiểm tra, đánh giá.
Qúa trình ra quyết định là việc xem xét, cân nhắc lựa chọn từ các phương án
khác nhau để có được phương án tối ưu với hiệu quả cao nhất và rủi ro nhỏ nhất.
Các thông tin sẵn có thường rất nhiều loại, với chức năng này kế toán quản trị giúp
các nhà quản trị phân biệt được các thông tin thích hợp và không thích hợp nhằm
xác định thông tin phù hợp cho từng phương án. Việc nhận diện thông tin phù hợp

sẽ tập trung sự chú ý của nhà quản trị vào vấn đề chính cần giải quyết, giảm thời
gian ra quyết định, đáp ứng yêu cầu của nhà quản trị trong tình huống cạnh tranh
gây gắt của cơ chế thi trường
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.3.1. Phân loại chi phí
Trong qúa trình điều hành và quản lý hoạt động của doanh nghiệp, các nhà
quản trị luôn luôn cần các thông tin về hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp. Đứng trên quan điểm kế toán, các thông tin mà các nhà quản lý cần đa số
thường có liên quan đến các chi phí của doanh nghiệp. Trong kế toán quản trị chi
phí được phân loại theo nhiều tiêu thức tùy theo mục đích sử dụng của nhà quản lý.
Việc nhận định và thấu hiểu từng loại chi phí và hành vi của chúng là chìa khóa của
việc đưa ra các quyết định đúng đắn trong quá trình tổ chức, điều hành và quản lý
hoạt động kinh doanh của các nhà quản lý.
Chi phí là biểu hiện bằng tiền những hao phí lao động sống, lao động vật hóa
phát sinh gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh


10

Chi phí là những phí tổn phát sinh làm giảm nguồn lợi kinh tế của doanh
nghiệp trong kỳ gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh và tác động giảm vốn sở
hữu.
Chi phí như là một nguồn lực hy sinh hoặc mất đi để đạt được một mục đích
cụ thể” (Horngren et al., 1999). Hầu hết mọi người đều xem chi phí là hao phí
nguồn lực tính bằng tiền để đổi lấy hàng hoá và dịch vụ.
Chi phí thể hiện trong hoạt động kinh doanh ở nhiều phạm vi, quan hệ so sánh
khác nhau : chi phí thực tế, chi phí kế hoạch, chi phí chìm, chi phí cơ hội, chi phí
chênh lệch. Và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Sau đây là các cách tiếp cận chi
phí theo các vai trò và ý nghĩa của nó trong công tác quản trị doanh nghiệp.
1.3.1.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động

Để trợ giúp các nhà quản lý trong việc vạch kế hoạch và kiểm soát chi phí, các
nhân viên kế toán quản trị phân loại chi phí theo lĩnh vực chức năng của tổ chức.
Theo đó, chi phí có thể được phân loại thành chi phí sản xuất (manufacturing costs)
và chi phí ngoài sản xuất (non-manufacturing costs).
Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là chi phí phát sinh trong giai đoạn sản xuất. Đây là giai đoạn
chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm bằng sức lao động của công nhân kết
hợp với việc sử dụng máy móc thiết bị. Chi phí sản xuất bao gồm ba khoản mục: chi
phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung.
Chi phí ngoài sản xuất
Đây là các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm, liên quan đến
quá trình tiêu thụ sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung toàn doanh
nghiệp. Thuộc loại chi phí này gồm có hai khoản mục chi phí: Chi phí bán hàng và
chi phí quản lý doanh nghiệp.
1.3.1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ giữa chi
phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính.


11

Theo cách phân loại này chi phí SXKD được chia thành: Chi phí sản phẩm và
chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với quá trình
sản xuất sản phẩm hay hàng hóa được mua vào. Chi phí sản phẩm được ghi nhận là
chi phí (gọi là giá vốn hàng bán) tại thời điểm sản phẩm hoặc dịch vụ được tiêu thụ
và ghi trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khi sản phẩm, hàng hóa chưa tiêu thụ
được thì những chi phí này nằm trong sản phẩm, hàng hóa tồn kho (gọi là chi phí
tồn kho) và giá trị ghi trên bảng cân đối kế toán.
Chi phí thời kỳ

Chi phí thời kỳ gồm các khoản mục chi phí còn lại ngoài các khoản mục chi
phí thuộc chi phí sản phẩm. Đó là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Các chi phí thời kỳ phát sinh ở kỳ hạch toán nào được xem là có tác dụng phục vụ
cho quá trình kinh doanh của kỳ đó, do vậy chúng được tính toán kết chuyển hết để
xác định lợi tức ngay trong kỳ hạch toán mà chúng phát sinh được ghi nhận phản
ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Chi phí thời kỳ còn được gọi là chi phí không
tồn kho.
1.3.1.3. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Cách “ứng xử” của chi phí là thuật ngữ để biểu thị sự thay đổi của chi phí
tương ứng với các mức độ hoạt động đạt được. Các chỉ tiêu thể hiện mức độ hoạt
động cũng rất đa dạng. Trong doanh nghiệp sản xuất ta thường gặp các chỉ tiêu thể
hiện mức độ hoạt động như: khối lượng công việc đã thực hiện, khối lượng sản
phẩm sản xuất, số giờ máy hoạt động,v.v.. Khi xem xét cách ứng xử của chi phí,
cũng cần phân biệt rõ phạm vi hoạt động của doanh nghiệp với mức độ hoạt động
mà doanh nghiệp đạt được trong từng kỳ.
Xét theo cách ứng xử, chi phí của doanh nghiệp được chia thành 3 loại: Chi
phí khả biến, chi phí bất biến và chi phí hỗn hợp.
Chi phí khả biến ( gọi tắt là biến phí)


12

Là những chi phí sản xuất, kinh doanh thay đổi tỷ lệ thuận về tổng số, về tỷ lệ
với sự biến động về khối lượng sản phẩm, gồm: chi phí nguyên liệu, vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và một số khoản chi phí sản xuất chung, như: Chi
phí nhân công, chi phí điện nước, phụ tùng sửa chữa máy,...Chi phí khả biến không
thay đổi khi tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc.
Trong thực tế, không phải tất cả các chi phí khả biến đều có cách ứng xử
giống nhau theo mức độ hoạt động. Xét theo cách thức ứng xử khác nhau đó, chi
phí khả biến còn được chia thành hai loại: chi phí khả biến thực thụ hay còn gọi là

chi phí khả biến tỷ lệ và chi phí khả biến cấp bậc
Chi phí bất biến (gọi là định phí):
Chi phí bất biến (còn gọi là chi phí cố định hay định phí) là chi phí có tổng số
ít hoặc không thay đổi theo mức độ hoạt động. Ngược lại, trên một đơn vị, chi phí
bất biến thường thay đổi tỷ lệ nghịch với mức hoạt động. Vì tổng số chi phí bất biến
là không thay đổi cho nên khi mức độ hoạt động tăng thì chi phí bất biến tính theo
đơn vị mức độ hoạt động sẽ giảm và ngược lại.
Xét ở khía cạnh quản lý chi phí, chi phí bất biến được chia thành 2 loại: chi
phí bất biến bắt buộc và chi phí bất biến không bắt buộc.
Chi phí bất biến bắt buộc (Định phí bắt buộc):
Chi phí bất biến bắt buộc là các chi phí phát sinh nhằm tạo ra các năng lực
hoạt động cơ bản của doanh nghiệp, có nguồn gốc từ chi phí sử dụng tài sản dài
hạn, chi phí tổ chức quản lý và rất khó cắt giảm trong kỳ. Thể hiện rõ nhất là chi phí
khấu hao TSCĐ hay tiền lương nhân viên quản lý ở các phòng ban chức năng. Có
thể đưa ra nhận xét rằng, mọi cố gắng trong việc cắt giảm các chi phí bất biến bắt
buộc đến không là không thể được, cho dù là chỉ trong một thời gian ngắn khi các
quá trình sản xuất bị gián đoạn. Điểm mấu chốt trong việc quản lý loại chi phí này
là tập trung vào việc nâng cao hiệu suất sử dụng các yếu tố vật chất và nhân lực cơ
bản của doanh nghiệp.
Chi phí bất biến không bắt buộc (Định phí không bắt buộc):


13

Khác với các chi phí bất biến bắt buộc, các chi phí bất biến không bắt buộc
thường được kiểm soát theo các kế hoạch ngắn hạn và chúng phụ thuộc nhiều vào
chính sách quản lý hàng năm của các nhà quản trị. Do vậy, loại chi phí này còn
được gọi là chi phí bất biến tuỳ ý hay chi phí bất biến quản trị. Thuộc loại chi phí
này gồm chi phí quảng cáo, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí đào tạo nhân viên,
v.v..

Chi phí hỗn hợp:
Chi phí hỗn hợp là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm cả yếu tố chi
phí khả biến và chi phí bất biến. Ở một mức độ hoạt động cụ thể nào đó, chi phí hỗn
hợp mang đặc điểm của chi phí bất biến và khi mức độ hoạt động tăng lên, chi phí
hỗn hợp sẽ biến đổi như đặc điểm của chi phí khả biến. Trong các doanh nghiệp sản
xuất, chi phí hỗn hợp cũng chiếm một tỉ lệ khá cao trong các loại chi phí, chẳng hạn
như chi phí điện thoại, chi phí bảo trì MMTB,...
Nhằm phục vụ việc lập kế hoạch, phân tích và quản lý chi phí, cần phải phân
tích các chi phí hỗn hợp thành yếu tố khả biến và yếu tố bất biến. Việc phân tích này
được thực hiện bằng một trong ba phương pháp: phương pháp cực đại, cực tiểu,
phương pháp đồ thị phân tán và phương pháp bình phương bé nhất.
1.3.1.4. Phân loại chi phí sử dụng cho mục đích kiểm tra và ra quyết định
Để phục vụ cho việc kiểm tra và ra quyết định trong quản lý, chi phí của
doanh nghiệp còn được xem xét ở nhiều khía cạnh khác. Nổi bật nhất là việc xem
xét trách nhiệm của các cấp quản lý đối với các loại chi phí phát sinh, thêm nữa, các
nhà quản lý nên nhìn nhận đúng đắn sự thích đáng của các loại chi phí khác nhau
phục vụ cho việc phân tích, so sánh để ra quyết định lựa chọn phương án tối ưu
trong các tình huống.
Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được
Đây là một phương pháp phân loại chi phí có thể hữu ích trong việc kiểm soát
chi phí. Phương pháp phân loại này dựa trên khả năng kiểm soát chi phí đối với các
nhà quản lý. Nếu một nhà quản lý có thể kiểm soát hoặc quyết định về một loại chi
phí thì chi phí ấy được gọi là chi phí kiểm soát được bởi nhà quản lý đó. Ngược lại,


14

chi phí mà nhà quản lý không có khả năng kiểm soát hoặc không gây ảnh hướng lớn
lên nó thì được phân loại là chi phí không kiểm soát được đối với nhà quản lý đó.
Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:

Đây là cách phân loại dựa trên phương pháp phân phối chi phí cho đối tượng
chịu chi phí.
Chi phí trực tiếp đối với một đối tượng chịu chi phí là loại chi phí liên quan
trực tiếp đến đối tượng chịu chi phí và có thể tính trực tiếp cho đối tượng đó một
cách hiệu quả ít tốn kém.
Chi phí gián tiếp đối với một đối tượng chịu chi phí là loại chi phí liên quan
đến đối tượng chịu chi phí, nhưng không thể tính trực tiếp cho đối tượng chịu chi
phí đó một cách hiệu quả. Nói đúng hơn, chi phí gián tiếp là chi phí liên quan đến
nhiều đối tượng chịu chi phí. Do vậy, chi phí gián tiếp được phân phối cho các đối
tượng chịu chi phí bằng các phương pháp phân bổ chi phí
Chi phí lặn (chi phí chìm):
Chi phí lặn là những chi phí đã phát sinh do quyết định trong quá khứ. Doanh
nghiệp phải chịu chi phí này cho dù bất kỳ phương án nào được chọn. Vì vậy, trong
việc lựa chọn các phương án khác nhau, chi phí này không được đưa vào xem xét,
nó không thích hợp cho việc ra quyết định.
Chi phí chênh lệch (chi phí khác nhau)
Trong quá trình ra quyết định nhà quản lý thường phải so sánh nhiều phương
án khác nhau.Tất nhiên, sẽ phát sinh các chi phí gắn liền với phương án đó. Các nhà
quản lý thường so sánh các chi phí phát sinh trong các phương án khác nhau để đi
đến quyết định là chọn hay hay chọn một phương án.
Có những khoản chi phí hiện diện trong phương án này nhưng lại không hiện
diện hoặc chỉ hiện diện một phần trong phương án khác. Những chi phí này được
gọi là chi phí chênh lệch. Người quản lý đưa ra các quyết định lựa chọn các phương
án trên cơ sở phân tích bộ phận chi phí chênh lệch này nên chi phí chênh lệch là
dạng thông tin thích hợp cho việc ra quyết định.
Chi phí cơ hội


15


Trong hoạt động kinh doanh, bất kỳ một khoản mục chi phí nào phát sinh đều
được phản ánh và theo dõi trên các sổ sách kế toán. Tuy nhiên, có một loại chi phí
hoàn toàn không được phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng lại rất quan trọng, cần
được xem xét đến mỗi khi nhà quản lý lựa chọn các phương án kinh doanh, đầu tư.
Đó là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội được định nghĩa là lợi ích (lợi nhuận) tiềm tàng
bị mất đi khi chọn một phương án này thay vì chọn phương án khác.
1.3.1.5.Các hình thức biểu hiện của chi phí trên báo cáo kết quả kinh
doanh
Một dạng báo cáo thu nhập mà chúng ta đã quen thuộc dùng cho mục đích
báo cáo ra bên ngoài là báo cáo thu nhập được lập theo chức năng của chi phí. Nó
cho biết công dụng của các loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi dùng trong hoạt
động kinh doanh của mình và trên hết là để xác đinh tổng chi phí, so sánh với doanh
thu tính ra chỉ tiêu thu nhập mà doanh nghiệp đã đạt được qua một kỳ kinh doanh.
Loại báo cáo này không giúp ích gì nhiều cho quản lý nội bộ doanh nghiệp và gọi là
báo cáo thu nhập (hay báo cáo kết quả kinh doanh) được lập theo phương pháp toàn
bộ.
Vì vậy để phục vụ cho quản lý nội bộ doanh nghiệp cần có báo cáo thu nhập
mà mục đích cung cấp thông tin quản trị doanh nghiệp, báo cáo này được lập theo
cách ứng xử của chi phí, thường được gọi là báo cáo thu nhập lập theo phương pháp
trực tiếp hay còn gọi là báo cáo theo phương pháp lãi trên biến phí. Để thấy được ý
nghĩa của báo cáo thu nhập lập theo cách ứng xử của chi phí, hãy phân tích và so
sánh hai loại báo cáo thu nhập qua mẫu sau:


16

BẢNG 1.2. SO SÁNH BÁO CÁO THU NHẬP THEO PHƯƠNG PHÁP TRỰC
TIẾP VÀ TOÀN BỘ
BÁO CÁO THU NHẬP THEO
PHƯƠNG TOÀN BỘ

Nội dung
1.Doanh thu bán hàng
2. Giá vốn hàng bán

BÁO CÁO THU NHẬP THEO PHƯƠNG
PHÁP TRỰC TIẾP
Nội dung
1.Doanh thu bán hàng
2. Tổng biến phí ( Tổng chi phí khả biến)
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Biến phí sản xuất chung
- Giá mua hàng hóa (đối với công ty thương
mại)

- Biến phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp
3.Lãi gộp ( 3= 1- 2)
3.Lãi trên biến phí (3= 1-2)
4. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN 4. Định phí ( Tổng chi phí bất biến)
- Định phí sản xuất chung trong kỳ
5. Lợi nhuận trước thuế (5= 3-4)

- Định phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp
5. Lợi nhuận trước thuế ( 5 =3 -4)

Báo cáo thu nhập lập theo phương pháp trực tiếp, lãi trên biến phí là chênh
lệch giữa doanh thu bán hàng và tổng chi phí khả biến, nó được dùng để bù đắp chi
phí bất biến và tạo ra lợi nhuận. Theo nội dung đó, báo cáo thu nhập này còn được
gọi là báo cáo thu nhập theo phương pháp lãi trên biến phí. Trong hoạt động quản
lý, báo cáo này được sử dụng như một kế hoạch nội bộ và một công cụ để ra quyết

định. Việc tập trung vào cách ứng xử của chi phí trong cách lập của nó làm đơn giản
hoá quá trình phân tích quan hệ chi phí-sản lượng-lợi nhuận, một dạng phân tích để
ra quyết định. Do vậy báo cáo này rất hữu ích trong việc đánh giá các báo cáo lợi
nhuận bộ phận, trong dự toán ngân sách, cũng như trong việc phân tích thông tin
cho các loại quyết định thường gặp như phân tích các dây chuyền sản xuất, các
ngành hàng kinh doanh, cách thức sử dụng các nguồn lực giới hạn hoặc các quyết
định về giá...
1.3.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.


17

Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống
và lao động vật hóa được tính trên một khối lượng kết quả sản phẩm lao vụ, dịch vụ
hoàn thành nhất định
Trong kế toán quản trị chỉ tiêu giá thành được xác định theo các phạm vi khác
nhay tùy thuộc vào mục đích sử dụng thông tin về giá thành của nhà quản trị doanh
nghiệp. Căn cứ vào phạm vi chi phí cấu thành: Giá thành toàn bộ, giá thành bộ
phận.
Giá thành toàn bộ là giá thành mà trong đó toàn bộ định phí được tính vào giá
thành.
Giá thành bộ phận là giá thành không có hay chỉ có một phần định phí và gọi
là giá thành theo phương pháp trực tiếp.
Như vậy, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng
công tác quản lý và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giá
thành phản ánh kết quả của việc sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình
sản xuất, đánh giá hiệu quả của các giải pháp, phương án kinh doanh mà doanh
nghiệp đã thực hiện nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
xuất sản phẩm, hạ thấp chi phí, tăng lợi nhuận. Do vậy, để đạt được các mục đích
này doanh nghiệp cần tổ chức công tác tính giá thành sản xuất sản phẩm một cách

khoa học, chính xác, kịp thời. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là nội dung cơ bản của kế toán quản trị.
Việc xây dựng và vận dụng một hệ thống tính giá thành phù hợp là rất cần
thiết trong tổ chức công tác kế toán quản trị ở doanh nghiệp. Việc xây dựng hệ
thống tính giá thành cần cân nhắc giữa chi phí và lợi ích của vấn đề tính giá thành.
Một hệ thống tính giá thành rất chi tiết và cụ thể có thể cung cấp nhiều thông tin
cho nhà quản trị, nhưng lại mất nhiều thời gian và tiền bạc, nhất là các chi phí về
đào tạo. Do vậy, hệ thống tính giá thành phức tạp chỉ vận dụng khi các nhà quản trị
tin tưởng rằng hoạt động chung của toàn doanh nghiệp được cải thiện nhiều trên cơ
sở các thông tin được cung cấp của hệ thống tính giá thành. Hệ thống tính giá thành
cần phải được thiết kế phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại. Nó phụ


18

thuộc vào bản chất của ngành sản xuất, quy trình công nghệ, tính đa dạng của sản
phẩm, dịch vụ và yêu cầu về thông tin cho công tác quản trị. Mặt khác trong công
tác tính giá thành việc xác định đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá
thành là một đặc tính quan trọng trong kế toán quản trị, bởi vì không chỉ đơn thuần
phục vụ cho công tác tính giá mà còn liên quan đến công tác tổ chức dữ liệu và
phục vụ các nhu cầu khác của nhà quản trị.
Giá thành sản phẩm bao gồm 3 khoản mục chi phí : Chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Tính giá thành sản
phẩm sử dụng một trong bốn phương pháp : Phương pháp tính giá thành theo công
việc ( phương pháp giản đơn), phương pháp tính giá thành theo quá trình sản
xuất( phương pháp cộng chi phí), phương pháp hệ số, phương pháp loại trừ chi phí
theo các sản phẩm phụ. Trong mỗi phương pháp, tùy thuộc vào tình huống kinh tế
cụ thể để xác định cách tính chi phí sản phẩm dở dang (thường dùng phương pháp
ước lượng tương đương) và cách tính giá thành sản phẩm. Hiện nay, phương pháp
tính giá thành trên cơ sở hoạt động hay gọi tắt là phương pháp tính giá thành ABC

(Activity – Based – Costing) đang được nhiều công ty lớn trên thế giới ứng dụng
rộng rãi và được xem là phương pháp tính giá thành chính xác nhất so với các
phương pháp tính giá thành theo truyền thống.
Doanh nghiệp có thể dựa vào một hoặc một số căn cứ để xác định đối tượng
tính giá thành phù hợp: Đặc điểm tổ chức sản xuất, quản lý, đặc điểm quy trình
công nghệ sản xuất; điều kiện và trình độ kế toán, yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp. Kỳ tính giá thành căn cứ vào loại hình sản xuất sản phẩm, quy trình sản
xuất sản phẩm và đặc điểm sản xuất sản phẩm để xác định kỳ tính giá thành.
1.3.3. Phân tích mối quan hệ chi phí – sản lượng- lợi nhuận ( CVP )
Các nhà quản trị doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt với các quyết định
kinh doanh chẳng hạn như lựa chọn dây chuyền sản xuất, định giá sản phẩm, sự
thay đổi cơ cấu chi phí làm ảnh hưởng như thế nào đến tối đa hóa lợi ích của doanh
nghiệp, chiến lược khuyến mãi, v.v.. Để đưa ra quết định đúng đắn nhân viên kế
toán quản trị cần cung cấp đầy đủ thông tin kết quả lợi ích của doanh nghiệp bị thay


19

đổi do ảnh hưởng bởi các nhân tố thay đổi như các yếu tố chi phí, sản lượng tiêu
thụ, giá bán, cơ cấu các mặt hàng. Xét về khía cạnh kế toán quản trị, đó chính là quá
trình phân tích mối quan hệ Chi Phí- Sản Lượng- Lợi nhuận và gọi tắt theo tiếng
anh là CVP (Cost – Volumn – Profit Analysis). Phân tích CVP là một trong các
công cụ phân tích cơ bản nhất của các nhà quản lý sử dụng trong việc lập kế hoạch
và các tình huống ra quyết định
Phân tích CVP chính là nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay đổi mức hoạt động
của doanh nghiệp lên chi phí, doanh thu và lợi nhuận. Song để phân tích có tính
thực tiễn thì cần phải ràng buộc các yếu tố sau:
- Giá bán đơn vị sản phẩm không đổi
- Tất cả chi phí phải phân ra thành định phí và biến phí với mức độ chính xác
có thể lý giải được. Định phí sản xuất chung trong các doanh nghiệp sản xuất được

xem là chi phí thời kỳ để xác định kết quả kinh doanh.
- Chi phí biến đổi thay đổi tỉ lệ với sản lượng tiêu thụ
- Định phí không thay đổi trong phạm vi hoạt động
- Năng suất lao động không thay đổi
- Khi doanh nghiệp kinh doanh nhiều sản phẩm, kết cấu sản phẩm giả định
không thay đổi ở các mức doanh thu khác nhau
- Doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính giá trực tiếp. Nếu áp dụng phương
pháp tính giá toàn bộ thì cần giả định là số lượng sản phẩm sản xuất bằng số lượng
sản phẩm tiêu thụ.
Để phân tích ứng dụng mối quan hệ CVP thì cần sử dụng các công cụ sau:
+ Lãi trên biến phí: là phần chênh lệch giữa giá bán (doanh thu) với phần
biến phí của nó. Lãi trên biến phí được xác định cho mỗi đơn vị sản phẩm, mỗi từng
mặt hàng, cho các mặt hàng tiêu thụ. Với giá bán không đổi ở mọi mức sản lượng
lãi trên biến phí đơn vị không đổi ở mọi mức sản lượng. Lãi trên biến phí đơn vị
giúp ta lượng hoá một cách đúng đắn và nhanh nhất các phương án khác nhau về
chi phí, giá bán, khối lượng sản phẩm tiêu thụ... nhằm lựa chọn phương án có lợi
nhuận tối đa.


20

+ Tỷ lệ lãi trên biến phí: là tỷ lệ phần trăm giữa lãi trên biến phí và giá bán.
Đây là chỉ tiêu giúp phân tích CVP trong trường hợp sản xuất kinh doanh nhiều mặt
hàng. Những sản phẩm có tỷ lệ lãi trên biến phí càng lớn thì khả năng tạo lợi nhuận
tốt hơn khi tăng doanh thu
Tóm lại, để có lãi, tổng chi phí của doanh nghiệp phải nhỏ hơn tổng doanh
thu. Một khi đã kinh doanh, doanh nghiệp phải phát sinh các định phí nhất định bất
kể mức tiêu thụ tại doanh nghiệp. Mỗi lần bán hàng là mỗi lần phát sinh các biến
phí đi kèm. Hoạt động kinh doanh vì thế trước hết phải xem xét doanh thu có bù
đắp biến phí, tạo ra mức lợi nhuận để tiếp tục bù đắp định phí hay không. Vấn đề

này đặt các nhà quản trị quan tâm đến cả giá bán, số lượng hàng bán trong mục tiêu
chung về lợi nhuận của doanh nghiệp. Một quyết định về giá bán của một sản phẩm
có thể tạo ra lỗ cho kinh doanh sản phẩm đó, nhưng có thể lại kích thích tiêu thụ
một sản phẩm khác của doanh nghiệp. Cho nên, phân tích mối quan hệ chi phí - sản
lượng - lợi nhuận để ra quyết định phải đặt trong bối cảnh cụ thể tại doanh nghiệp,
lấy mục tiêu của doanh nghiệp đặt hàng đầu.
1.3.4. Lập dự toán tổng thể doanh nghiệp
Xây dựng dự toán là một công việc quan trọng trong việc lập kế hoạch đối với
tất cả các hoạt động kinh tế. Điều này thật cần thiết từ doanh nghiệp đến cơ quan
nhà nước, và ngay cả với các cá nhân. Tất cả các doanh nghiệp phải lập kế hoạch tài
chính để thực thi các hoạt động hàng ngày, cũng như các hoạt động trong tương lai
dài hạn.
Dự toán là một trong những công cụ được sử dụng rộng rãi bởi các nhà quản
lý trong việc hoạch định và kiểm soát các tổ chức, là một kế hoạch chi tiết nêu ra
những khoản thu chi của doanh nghiệp trong một thời kỳ nào đó. Dự toán cung cấp
cho doanh nghiệp thông tin về toàn bộ kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp một
cách có hệ thống và đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Một hệ thống gồm nhiều dự toán về tất cả các hoạt động của một tổ chức cho
một thời kỳ trong tương lai được gọi là dự toán tổng thể. Đây là một hệ thống bao
gồm các dự toán riêng biệt về các hoạt động của doanh nghiệp, nhưng có mối quan


21

hệ qua lại lẫn nhau. Việc lập dự toán bắt đầu bằng dự toán tiêu thụ, trình bày thông
tin dự báo về việc tiêu thụ sản phẩm trong kỳ tới. Dựa trên dự toán tiêu thụ, các dự
toán hoạt động sẽ được thiết lập. Các dự toán này được soạn thảo nhằm cung cấp kế
hoạch sản xuất cũng như dự kiến về việc mua sắm và sử dụng nguyên vât liệu, lao
động, và các nguồn lực khác. Cuối cùng, các dự toán báo cáo tài chính sẽ được thiết
lập nhằm cung cấp thông tin dự kiến về tình hình tài chính của tổ chức trong tương

lai. Nội dung cụ thể của các dự toán như sau:
Dự toán tiêu thụ
Dự toán tiêu thụ sản phẩm là dự toán đầu tiên. Dự thảo tiêu thụ sản phẩm
trình bày chi tiết dự kiến việc tiêu thụ sản phẩm trong các kỳ sắp tới. Dự toán tiêu
thụ là chìa khóa của toàn bộ quá trình lập dự toán vì tất cả các dự toán khác trong
dự toán chủ đạo đều phụ thuộc vào dự toán này.
Các dự toán hoạt động
Với dự toán hoạt động, sẽ chĩ rõ các hoạt động của doanh nghiệp phải như thế
nào để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. Căn cứ trên dự toán tiêu thụ, dự
toán sản xuất được thiết lập, chỉ rõ số lượng sản phẩm cần phải sản xuất. Từ dự toán
sản xuất, các dự toán nguyên vật liệu (dự toán nguyên vật liệu mua vào, dự toán chi
phí mua nguyên vật liệu, dự toán số tiền bỏ ra để mua nguyên vật liệu), dự toán lao
động trực tiếp và dự toán chi phí sản xuất chung (dự toán biến phí sản xuất chung,
định phí sản xuất chung), dự toán chi phí bán hàng, dự toán chi phí quản lý doanh
nghiệp, dự toán chi phí tài chính sẽ được thiết lập và gọi là dự toán hoạt động.
Căn cứ vào các dự toán trên, dự toán vốn bằng tiền sẽ được thiết lập. Nó là
một kế hoạch chi tiết, chỉ ra các khoản tiền thu từ việc bán hàng hoá, dịch vụ, và các
khoản tiền chi ra cho các hoạt động của doanh nghiệp, dựa vào số tiền đầu kỳ, dự
toán số tiền thừa thiếu trong kỳ. Trên cơ sở dự toán đó, nhà quản lý có kế hoạch vay
mượn nếu lượng tiền thiếu và có kế hoạch đầu tư sinh lãi nếu lượng tiền thừa.
Các dự toán báo cáo tài chính
Các dự toán báo cáo tài chính bao gồm báo cáo thu nhập dự kiến, bảng cân đối
kế toán dự kiến, và báo cáo lưu chuyển tiền tệ dự kiến. Những dự toán này trình bày


22

các kết quả tài chính của các hoạt động của doanh nghiệp cho kỳ dự toán. Qua đó.
Giúp nhà quản lý doanh nghiệp xem xét được lợi ích đạt được và mục tiêu đề ra.
1.3.5. Thông tin thích hợp cho việc ra các quyết định ngắn hạn

Tất cả các quyết định của nhà quản trị đều cần nền tảng thông tin. Hiểu rộng
hơn thì chất lượng của quyết định trong quản lý chính là sự phản ánh chất lượng của
quá trình xử lý thông tin kế toán và các thông tin khác. Thông tin sai sẽ dẫn đến
quyết định sai. Vai trò của kế toán quản trị là cung cấp thông tin cho quản lý nhằm
đạt được thông tin có ý nghĩa.
Trong các thông tin mà quyết định ngắn hạn cần được cung cấp đầy đủ chính
là thông tin về chi phí và giá thành. Lĩnh vực kế toán quản trị cần thực hiện kỹ thuật
nhận diện chi phí ở từng góc độ khác nhau, tìm ra các giải pháp tác động tới các chi
phí đó thông qua việc tác động vào những hoạt động làm phát sinh chi phí đó. Hiển
nhiên vai trò của việc mô hình hoá chi phí là rất quan trọng đối với việc ra quyết
định ngắn hạn, vì các quyết định đang xem xét sẽ được định hướng tốt hơn nếu
những nhà quản trị có được phương tiện đánh giá trước được kết quả có thể có của
quyết định này. Như vậy, cách tiếp cận cơ bản về thông tin kế toán quản trị phục vụ
cho việc ra quyết định ngắn hạn tại doanh nghiệp là nhận diện và thu thập các loại
chi phí. Các chi phí cơ bản được xem xét xoay quanh bốn vấn đề sau:
+ Những chi phí nào thuộc về quyết định đang xem xét? (chi phí có ảnh
hưởng).
+ Doanh nghiệp phải từ bỏ gì nếu chọn giải pháp này thay vì chọn giải pháp
khác (chi phí cơ hội).
+ Những chi phí đi kèm với phương án được chọn sẽ như thế nào? (chi phí
biến đổi? chi phí cố định?).
+ Có thể tác động tới chi phí bằng cách nào? (chi phí kiểm soát được và chi
phí không kiểm soát được).
Mỗi tình huống trong quyết định ngắn hạn cần thu thập được những thông tin
về dòng thu nhập, về chi phí được xem xét và lượng hoá cho các phương án qua bốn
câu hỏi như trên.


23


Vấn đề thích hợp hay không thích hợp là nằm trong mối tương quan với từng
tình huống cụ thể của việc ra quyết định ngắn hạn.
Tiêu chuẩn nhận diện thông tin thích hợp cho các quyết định ngắn hạn:
Làm thế nào để nhận diện sự thích hợp của thông tin, đặc biệt là thông tin về
chi phí và thu nhập? Cần dựa hai tiêu chuẩn :
 Thông tin đó phải liên quan đến tương lai
 Thông tin đó phải có sự khác biệt giữa các phương án đang xem xét và
lựa chọn.
Tóm lại khi mà yếu tố tốc độ là một yếu tố quan trọng đối với sự thành bại của
doanh nghiệp thì việc đề ra quyết định một cách nhanh chóng và chính xác có ảnh
hưởng lớn đến quá trình sinh lợi cho doanh nghiệp. Do đó phân tích dựa trên thông
tin thích hợp là một yêu cầu tất yếu của các cấp lãnh đạo trong tiến trình ra quyết
định.
1.4. KINH NGHIỆM VÀ VẬN DỤNG MÔ HÌNH KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Kế toán quản trị đã hình thành, phát triển nhanh rộng về lý luận, thực tiễn
trong các doanh nghiệp trên thế giới. Quá trình đó vừa tạo nên những điểm chung
và khuynh hướng riêng của mỗi doanh nghiệp và ở từng quốc gia.
Anh, Mỹ là hai quốc gia có nền kế toán quản trị tiên phong trên thế giới. Do
hai quốc gia này có nền kinh tế thị trường do vậy mà kế toán quản trị xuất hiện sớm
và dưới hình thức kế toán chi phí, sau đó để đáp ứng nhu cầu thông tin quản lý, kế
toán quản trị tiếp tục phát triển với những nội dung khác và trải qua bốn giai đoạn
khác nhau: giai đoạn 1- Thông tin để kiếm soát và định hướng chi phí, sản xuất; giai
đoạn 2- Thông tin để hoạch định và kiểm soát tài chính hoạt động SXKD; giai đoạn
3- Thông tin để giảm những tổn thất nguồn lực kinh tế sử dụng của quy trình
SXKD; giai đoạn 4- Thông tin để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế tạo ra
giá trị. Ngày nay, kế toán quản trị vẫn tồn tại thịnh hành với những nội dung từ giai
đoạn 2 trở đi và kế toán quản trị đã xuất hiện một vài thay đổi về cấu trúc thông tin,



24

nâng cao tính định tính của thông tin, tính kiểm soát để bổ sung cho những thiếu
sót, lạc hậu, không hữu hiệu so với thế giới.
Ở các nước châu Âu như Pháp, Đức, Tây Ban Nha kế toán quản trị có đặc
trưng gắn kết chặt chẽ với kế toán tài chính, đề cao thông tin kiểm soát nội bộ và có
sự ảnh hưởng đáng kể của Nhà nước.
Ở những nước Đông Âu dù nền kinh tế thị trường có khá lâu nhưng kế toán
quản trị hình thành, phát triển chậm hơn ở các nước Anh, Mỹ đặc biệt là các doanh
nghiệp sản xuất. Được hình thành với mục đích ban đầu chủ yếu là cung cấp thông
tin để các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước giám sát chi phí hoạt động
doanh nghiệp nên kế toán quản trị gần như là sự chi tiết thêm thông tin kế toán tài
chính, kế toán chi phí khuôn mẫu.
Kế toán quản trị ở Nhật phát triển phù hợp với đặc thù riêng theo phong cách
quản lý với trọng tâm nâng cao chất lượng kiểm soát, kiểm soát định hướng trong
nội bộ. Sau chiến tranh giới thứ II, Kế toán quản trị hình thành, phát triển nhưng đặc
điểm giống kế toán quản trị Âu, Mỹ với nội dung đơn giản và hướng đến trọng tâm
kiểm soát dự toán, hoạch định lợi nhuận trong tiến trình tái thiết kinh tế Nhật sau
chiến tranh. Sau những năm 1980 đến những năm cuối thế kỷ 20, nền kinh tế Nhật
đã khôi phục, ổn định, phát triển và bắt đầu hướng ra thị trường quốc tế, phát triển
mạnh nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tiền đề nảy sinh KTQT kiểu Nhật, ảnh
hưởng sâu rộng đến nội dung kế toán quản trị trên thế giới. Đó là KTQT với trọng
tâm nâng cao về mặt định tính, tính chất thông tin để giảm những tổn thất nguồn lực
kinh tế sử dụng của quy trình SXKD, thông tin để sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực kinh tế tạo ra giá trị, KTQT trên hệ thống quản lý với mô hình tổ chức linh hoạt,
với phương thức quản lý kết hợp giữa tư duy giá trị, với tư duy chuỗi giá trị
KTQT ở Trung Quốc còn non trẻ và chưa có khuynh hướng riêng gắn liền quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Năm 1980, KTQT xuất hiện với nội dung cơ bản như KTQT ở Anh, Mỹ những năm
1965. Sau đó, KTQT được cải tiến, nâng cao nhưng vói mức độ không đồng đều,

thường tập trung vào những chủ đề sau: Xây dựng hệ thống dự toán ngân sách, dự


25

toán vốn đầu tư dài hạn, nhận diện và phân tích chi phí sản xuất, bán hàng, quản lý,
phân tích doanh thu, phân tích triển vọng thị trường, phân tích nợ phải thu, phân
tích lợi nhuận, hệ thống khoán chi phí bộ phận, phân tích điểm hoà vốn, phân tích
báo cáo tài chính.
Các nước khu vực Đông Nam Á hầu như có nền kinh tế thị trường mới phát
triển. DN ở các nước này có thể chia làm hai loại: một là những DN nhỏ bé, hai là
những chi nhánh của các tập đoàn kinh tế đa quốc gia từ nước ngoài. Từ đó, hoạt
động và tổ chức, quản lý hoạt động SXKD cũng đa sắc thái nên KTQT rất đa dạng;
một phần được chuyển giao, chịu ảnh hưởng từ mô hình KTQT của các công ty mẹ
ở nước ngoài rất hiện đại; một phần được các DN trong nước xây dựng, cập nhật
theo nền tảng hoạt động quản lý của họ nhưng khá lạc hậu và có những DN hoàn
toàn không quan tâm đến KTQT. Thực trạng đó dẫn đến KTQT ở các nước khu vực
Đông Nam Á tồn tại đa dạng về khuynh hướng, nội dung, trình độ cũng như cách
nhìn nhận tầm quan trọng của KTQT trong việc cung cấp thông tin quản lý doanh
nghiệp.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


×