Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

bài tập nhóm tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.31 KB, 18 trang )

CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
A có hành vi đánh B là quân nhân đóng tại địa phương gây tỉ lệ tổn thương
cơ thể là 47%. Sau khi điều tra, xác minh, Cơ quan điều tra công an huyện K, tỉnh
H nới A cư trú đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với A về
tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự (hình phạt cao nhất
đến 10 năm tù).
Câu hỏi:
1.Theo anh (chị), quyết định khỏi tố vụ án hình sự và khỏi tố bị can của Cơ
quan điều tra huyện K có đúng hay sai?
2. Khi kiểm sát điều tra, viện kiểm sát thấy việc điều tra không đúng thẩm
quyền nên đã yêu cầu cơ quan điều tra công an huyện K ra quyết định chuyển vụ
án cho cơ quan điều tra trong quân đội. Hãy nhận xét việc yêu cầu đó của VKS?
3. Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra quân đội đã phát hiện
trước đó A và bạn là C còn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác 250 triệu
đồng (vụ án này thẩm quyền điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện
K). Cơ quan điều tra quân đội giải quyết thế nào?
4. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy rằng hồ sơ điều tra của cơ
quan điều tra còn thiếu chứng cứ giúp xác định nhân thân của bị can, VKS phải
giải quyết thế nào?
5. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, A bỏ trốn mà không biết rõ A ở đâu,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa giải quyết thế nào? Tại sao?
6. Tại phiên tòa sơ thẩm, A yêu cầu thay đổi thẩm phán chủ tọa phiên tòa vì
cho rằng thẩm phán có mối quan hệ thân thiết với KSV thực hành quyền công tố tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử giải quyết thế nào? Tại sao?
7. Tòa án sơ thẩm đã xử phạt A 6 năm tù; buộc bị cáo phải bồi thường cho B
số tiền là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Anh B kháng cáo yêu cầu tăng nặng
hình phạt, tăng mức bồi thường đối với A. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết thế nào
nếu chỉ có căn cứ giảm nhẹ hình phạt với A?


8. Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX xác định hành vi của A phạm vào


khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự (có mức hình phạt tù đến 14 năm) thì giải quyết
thế nào?
9. Giả sử sau phiên tòa sơ thẩm, A kháng cáo xin giảm hình phạt, nếu xét
thấy cần tăng nặng hình phạt với A, HĐXX có được sửa bản án sơ thẩm theo
hướng tăng nặng hình phạt với A không?
10. Khi bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, có căn cứ kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm. Ai có thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng nghị như
thế nào?
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1.Vấn đề 1:Theo anh (chị),quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can
của cơ quan điều tra huyện K đúng hay sai?
Trả lời :
Trong trường hợp đề bài đã nêu ta thấy, A có hành vi đánh B là quân nhân
đóng tại địa phương gây tỉ lệ tổn thương cơ thể là 47% được quy định tại khoản 3
Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 với mức hình phạt cao nhất đến 10 năm tù. Căn
cứ vào điểm c khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về phân loại tội
phạm, thì hành vi của A là tội rất nghiêm trọng.
Tại khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
“1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những
vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283,
284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự;


d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.”
Tại điểm b khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về

thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự như sau: “b) Vụ án hình sự mà bị cáo không
thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân
sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân
tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây
thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong
doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ”.
Trong trường hợp trên, B là quân nhân đóng tại địa phương bị xâm phạm đến
sức khỏe nên Tòa án quân sự khu vực sẽ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Do đó, Cơ
quan điều tra quân sự khu vực sẽ có thẩm quyền điều tra vụ án này.
Tại khoản 2 Điều 153 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: “2. Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 của Bộ luật này.” Do đó,
trong trường hợp này Cơ quan điều tra quân sự khu vực sẽ có thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự.
Mặt khác, tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
“1. Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi
mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố
bị can.” Do đó, trong trường hợp này Cơ quan điều tra quân sự khu vực sẽ có thẩm
quyền khởi tố bị can đối với A.
Như vậy, trong tình huống đề bài đã nêu việc Cơ quan điều tra công an
huyện K, tỉnh H nơi A cư trú đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị
can đối với A về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự


năm 2015 là không đúng với quy định của pháp luật. Mà trong trường hợp, thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với A thuộc về Cơ quan điều tra
quân sự khu vực.
2.Vấn đề 2: Khi kiểm sát điều tra, viện kiểm sát thấy việc điều tra không đúng
thẩm quyền nên đã yêu cầu cơ quan điều tra công an huyện K ra quyết định

chuyển vụ án cho cơ quan điều tra trong quân đội. Hãy nhận xét việc yêu cầu đó
của VKS?
Trả lời : Yêu cầu này của VKS là không đúng với quy định của pháp luật.
Giải thích:
Thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp, khi vụ án xảy ra và thông tin đến
với cơ quan chức năng, cơ quan này có thể tiến hành một số hoạt động tố tụng như
khám nghiệm hiện trường, khám xét,… nhưng sau đó phát hiện vụ án không thuộc
thẩm quyền điểu tra của mình nên do đó đặt ra vấn đề chuyển vụ án để điều tra cho
cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Như đã trình bày ở câu 1, Cơ quan điều tra quân sự khu vực sẽ có thẩm
quyền điều tra vụ án này. Do đó, trong trường hợp này, cơ quan điều tra của công
an nhân dân huyện K thực hiện điều tra vụ án này là không đúng thẩm quyền cần
phải chuyển vụ án điều tra sang cho cơ quan điều tra quân sự khu vực là cơ quan có
thẩm quyền điều tra vụ án này căn cứ theo khoản 1 Điều 169. Theo quy đinh này
thì Viện kiểm sát phải ra quyết định chuyển vụ án để điều tra. Nhưng việc quyết
định chuyển vụ án để diều tra đó phải dựa trên đề nghị chuyển vụ án của cơ quan
điều tra khi Cơ quan điều tra cùng cấp xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều
tra:"1. Viện kiểm sát cùng cấp quyết định việc chuyển vụ án để điều tra khi thuộc
một trong các trường hợp:
a) Cơ quan điều tra cùng cấp xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều
tra và đề nghị chuyển vụ án;”


Như vậy việc ra quyết định chuyển vụ án để điều tra phải do Viện kiểm sát
đưa ra chứ không phải là cơ quan điều tra công an huyện K ra quyết định chuyển
vụ án đó cho cơ quan điều tra trong quân đội. Mà việc chuyển vụ án đó phải dựa
trên đề nghị chuyển vụ án của cơ quan điều tra công an huyện K.
3. Vấn đề 3: Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra quân đội phát hiện
trước đó A và bạn là C còn lừa đảo chiếm đoạt của người khác 250 triệu đồng(vụ
án này thẩm quyền điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K). Cơ

quan điều tra quân đội giải quyết như thế nào.
Trả lời: Cơ quan điều tra quân đội nên đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra
quyết định chuyển vụ án sang cho cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K
Giải thích:
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thẩm quyền điều tra của các Cơ quan
điều tra được phân định cụ thể tại Điều 163. Các cơ quan điều tra chỉ được tiến
hành điều ra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của mình. Theo đó, thẩm quyền
điều tra các cơ quan điều tra căn cứ vào 3 nguyên tắc sau: Nguyên tắc thứ nhất là,
thẩm quyền điều tra tuân theo hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra. Nguyên tắc
thứ hai là, thẩm quyền điều tra tuân theo lãnh thổ. Nguyên tắc thứ ba, thẩm quyền
điều tra tuân theo phân cấp của Cơ quan điều tra.
Việc xác định thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra dựa trên các tiêu
chí về sự việc, đối tượng và lãnh thổ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc
điều tra xác định sự thật. Do vậy trước khi tiến hành điều tra, Cơ quan điều tra phải
kiểm tra xem đã điều tra đúng thẩm quyền hay chưa.
Tại điểm a khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về chuyển vụ
án để điều tra như sau:
“1. Viện kiểm sát cùng cấp quyết định việc chuyển vụ án để điều tra khi thuộc một
trong các trường hợp:


a) Cơ quan điều tra cùng cấp xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra và đề
nghị chuyển vụ án;”
Trong trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của mình, cơ
quan điều tra phải đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho
cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp tục điều tra. Chuyển vụ án để điều tra là
việc Viện kiểm sát ra quyết định để chuyển một vụ án cụ thể đang được điều tra bởi
một cơ quan điều tra này sang một cơ quan điều tra khác cho đúng thẩm quyền điều
tra theo quy định của BLTTHS.
Trong trường hợp trên, cơ quan điều tra quân đội phát hiện vụ án nếu vẫn

tiếp tục điều tra vụ án này sẽ không đúng thẩm quyền nên cần phải chuyển vụ án
điều tra sang cho cơ quan điều tra công an huyện K để giải quyết vụ án.
4.Vấn đề 4: Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy rằng hồ sơ điều tra của
cơ quan điều tra còn thiếu chứng cứ giúp xác định nhân thân của bị can, VKS
phải giải quyết thế nào?
Tại điểm a khoản 1 Điều 245 BLTTHS 2015 quy định:
“Điều 245. Trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung.
1.Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu cơ quan điều tra điều
tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a)Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;”
Điều 85 BLTTHS 2015 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án
hình sự:
“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chứng minh:
1.Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội;


2.Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3.Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo
và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4.Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội gây ra;
5.Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6.Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Theo tình huống, trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy rằng hồ sơ điều
tra của cơ quan điều tra còn thiếu chứng cứ giúp xác định nhân thân của bị can.
Đây là một trong những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự theo quy định

tại khoản 3 Điều 85 BLTTHS nêu trên.
Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng quy định việc phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự về trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thì chứng cứ giúp xác định
nhân thân của bị can, bị cáo được hiểu là: “Chứng cứ để chứng minh “đặc điểm về
nhân thân của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định lý lịch của bị can, bị cáo; nếu
bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa chỉ và những
vấn đề khác có liên quan đến địa vị pháp lý và hoạt động của pháp nhân thương
mại”. Đây là một trong những chứng cứ không thể thiếu để đảm bảo giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự. Vì thế, điểm a khoản 1 Điều 245 BLTTHS quy định: “Còn
thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của
Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được”. Do đó, Viện kiểm
sát chỉ được trả hồ sơ vụ án để yêu cầu điều tra bổ sung khi thỏa mãn cả hai điều
kiện: một là thiếu những chứng cứ như nêu trên và hai là Viện kiểm sát không thể
tự mình bổ sung được.


Ở tình huống này đã có một điều kiện là thiếu chứng cứ giúp xác định nhân
thân của bị can. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP về phối hợp giữa Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn truy tố để hạn chế việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung:
“1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên
cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra việc chấp hành các thủ tục tố tụng, tính đầy đủ, hợp pháp
của các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung bị can trong các trường hợp quy định
tại khoản 4 Điều 183 của Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu thấy còn thiếu chứng cứ, tài
liệu hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng mà tự mình có thể bổ sung được thì Kiểm sát

viên phối hợp với Điều tra viên để bổ sung, khắc phục kịp thời; trường hợp không
thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát để xem xét,
quyết định.”
Trường hợp Kiểm sát viên thấy những chứng cứ về nhân thân của bị can mà
tự mình có thể bổ sung được thì Kiểm sát viên sẽ phối hợp với Điều tra viên để bổ
sung, hoàn thiện hồ sơ vụ án.
Trường hợp Kiểm sát viên không thể bổ sung được chứng cứ này, Kiểm sát
viên sẽ báo cáo với lãnh đạo Viện kiểm sát để xem xét, quyết định. Sau đó, Viện
kiểm sát sẽ ra quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung.
5.Vấn đề 5: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, A bỏ trốn mà không biết rõ A ở
đâu, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sẽ giải quyết như thế nào?
Tại sao?
Trả lời:
Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, A bỏ trốn mà không biết rõ A ở đâu,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra


quyết định truy nã bị can, bị cáo. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét mà việc truy nã bị
can vẫn chưa có kết quả, thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 281 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy
định về trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án
như sau:
“Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét
xử; trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị
cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can, bị cáo được thực hiện theo
quy định tại Điều 231 của Bộ luật này”
Theo vào Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“1. Khi bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều
tra phải ra quyết định truy nã bị can.
2. Quyết định truy nã ghi rõ họ tên, ngày, tháng năm sinh, nơi cư trú của bị

can, đặc điểm nhận dạng bị can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội dung
theo quy định tại Khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này; kèm theo ảnh bị bị can (nếu
có).
Quyết định truy nã bị can được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo
công khai để mọi người phát hiện bắt người bị truy nã.
3. Sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra
quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai.”
Theo đó ta hiểu: Truy nã có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị
kết án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Điều luật quy định


về truy nã bị can trong giai đoạn điều tra. Nguyên tắc truy nã bị can phải bảo đảm
tính nhanh chóng, kịp thời và phải đúng người, đúng hành vi phạm tội, bảo đảm tôn
trọng quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định của pháp luật.
Khi có đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu
mà trước đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đã ra lệnh bắt bị can, bị cáo để
tạm giam mà không bắt được thì cơ quan điều tra tự mình hoặc theo yêu cầu của
Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định truy nã; trường hợp chưa có lệnh bắt bị can; bị
cáo để tạm giam thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án không ra lệnh bắt bị
can, bị cáo để tạm giam mà Cơ quan điều tra tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện
kiểm sát, Tòa án ra ngay quyết định truy nã
Quyết định truy nã ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị
can, đặc điểm để nhận dạng bị can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội
dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật tố tụng hình sự kèm theo ảnh bị
can (nếu có). Quyết định truy nã bị can được Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo
công khai để mọi người phát hiện, bắt người bị truy nã.
Sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra ra quyết
định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp thông báo
công khai.

Với quy định này thì khi Toà án tạm đình chỉ vụ án do bị cáo trốn vẫn thuộc
thẩm quyền trách nhiệm thụ lý giải quyết của Toà án, Toà án không trả hồ sơ cho
Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử chỉ có văn bản yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị
cáo..
Trên thực tiễn, nếu Hội đồng xét xử yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị cáo
thì thường cơ quan điều tra áp dụng tương tự như trường hợp truy nã bị can, coi
Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về truy nã bị can là chuẩn mực pháp lý


để truy nã bị cáo với lý do tương tự. Khi truy nã bị cáo, cơ quan điều tra ghi căn cứ
trong quyết định truy nã là Điều 231 như đã phân tích ở trên.
Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình
sự mà việc truy nã bị can vẫn chưa có kết quả, thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ
vụ án.
6. Vấn đề 6: Tại phiên tòa sơ thẩm, A yêu cầu thay đổi thẩm phán chủ tọa phiên
tòa, vì cho rằng thẩm phán có mối quan hệ thân thích với kiểm sát viên thực
hành quyền công tố tại phiên tòa, hội đồng xét xử giải quyết thế nào? Tại sao?
Trả lời:
Tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm như sau:
“1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi khi
thuộc một trong các trường hợp:
a) Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này;
b) Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
c) Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng vụ án
đó với tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên,
Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.”
Tại khoản 3 Điều 49 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:
“Điều 49. Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng

3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ.”


Xét xử vô tư và khách quan là một trong những yêu cầu rất quan trọng đối
với những thành viên trong Hội đồng xét xử.Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng
khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ nếu trong cùng một
phiên tòa xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên, thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa
án là người thân thích với nhau. Do đó trong trường hợp trên, việc A yêu cầu thay
đổi thẩm phán chủ tọa phiên tòa, vì cho rằng thẩm phán có mối quan hệ thân thích
với kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với
quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ bị
thay đổi.
Tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm như sau: “….Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa.” Do đó, trong
trường hợp đề bài đã nêu, việc A thay đổi thẩm phán chủ tọa phiên tòa là hoàn toàn
phù hợp với quy định của pháp luật và được diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm. Nên Hội
đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên tòa.
7. Vấn đề 7: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt A 6 năm tù; buộc bị cáo phải bồi
thường cho B số tiền là 2.000.000 đồng ( hai triệu đồng). Anh B có kháng cáo
yêu cầu tăng nặng hình phạt, tăng mức bồi thường tương đối với A. Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết thế nào nếu chỉ có căn cứ giảm nhẹ hình phạt với A.
Trả lời:
Dựa vào khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định về trường
hợp được sửa bản án sơ thẩm như sau: “ Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị
hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: ......
Nếu có căn cứ thì hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều,
khoản của bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn chuyển sang hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường

thiệt hại.”


Mặc dù bị cáo không kháng cáo, kháng nghị nhưng nếu có căn cứ, hội đồng
xét xử vẫn có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Cụ thể là hội
đồng xét xử phúc thẩm vẫn có thể quyết định miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn
hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung hoặc chuyển sang hình phạt
bổ sung khác ít nghiêm khắc hơn; không áp dụng biện pháp tư pháp hoặc bỏ bớt
biện pháp tư pháp hoặc chuyển sang biện pháp tư kháp khác ít nghiêm khắc hơn; áp
dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn; giảm mức hình phạt cho bị cáo; giảm
mức bồi thường thiệt hại; sửa quyết định xử lý vật chứng theo hướng có lợi hơn
cho bị cáo; chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên hoặc giảm
mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
Trong trường hợp trên mặc dù B kháng cáo yêu cầu sửa bản án theo hướng
yêu cầu tăng nặng hình phạt, tăng mức bồi thường tương đối với A. Nhưng Tòa án
cấp phúc thẩm chỉ có căn cứ giảm nhẹ hình phạt với A. Theo đó Tòa án cấp phúc
thẩm vẫn có thể sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo. Vậy trong trường hợp
trên tòa án cấp phúc thẩm sẽ có thẩm quyền sửa bản án theo hướng giảm nhẹ hình
phạt với A.
8. Vấn đề 8: Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm , HĐXX xác định hành vi của A phạm
vào khoản 4 điều 134 BLHS (có mức hình phạt tù đến 14 năm) thì giải quyết thế
nào?
Trả lời:
Trường hợp Viện kiểm sát huyện X ra quyết định truy tố A về tội cố ý gây
thương tích theo khoản 3 Điều 134 nhưng Tòa án có căn cứ xác định A phạm tội cố
ý gây thương tích theo khoản 4 Điều 134 thì Tòa án có thể xét xử bị cáo trong
trường hợp này mà không cần trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 298 BLTTHS có quy định về giới hạn của
việc xét xử trong xét xử sơ thẩm: “2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác
với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội



khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.” có nghĩa là với những
hành vi mà VKS truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo
khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật
hay Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã
truy tố, có nghĩa là với những hành vi mà VKS truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo
về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Đối chiếu với giả thiết đưa ra, khi Viện kiểm sát huyện X ra quyết định truy
tố A về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 134 nhưng Tòa án thấy có căn
cứ xác định A phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 4 Điều 134. Trong trường
hợp này, tội phạm mà Viện kiểm sát quyết định truy tố Alà tội có mức hình phạt cao
nhất của khung hình phạt là 10 năm tù – là tội rất nghiêm trọng theo khoản 1 Điều
9 BLHS, còn tội phạm mà Tòa án xác định là tội phạm theo khoản 4 Điều 134 lại là
tội có mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt là 14 năm tù cũng là tội rất
nghiêm trọng. Như vậy, Tòa án có thể xét xử A với tội cố ý gây thương tích theo
khoản 4 Điều 134 BLHS, khác với quyết định truy tố của Viện kiểm sát huyện X.
9. Vấn đề 9: Giả sử sau phiên tòa sơ thẩm, A kháng cáo xin giảm hình phạt, nếu
xét thấy cần tăng nặng hình phạt với A, HĐXX có được sửa bản án sơ thẩm theo
hướng tăng nặng hình phạt với A không?
Trả lời:
Trường hợp 1: không có kháng nghị của Viện kiểm sát:
Trong trường hợp trên ta thấy sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, trong số
những chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt, tuy nhiên Hội đồng xét xử lại xét thấy cần tăng hình phạt với A. Mà căn
cứ vào các quy định tại Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về
những trường hợp được sửa bản án sơ thẩm thì Hội đồng xét xử chỉ có quyền sửa
bản án theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi có kháng cáo,
kháng nghị yêu cầu tăng mức hình phạt cho bị cáo. Trong trường hợp này, sau



phiên tòa sơ thẩm chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt mà không có kháng
nghị của Viện kiểm sát, kháng cáo của bị hại yêu cầu tăng nặng hình phạt với A. Do
đó, nếu xét thấy cần tăng nặng hình phạt với A, thì Hội đồng xét xử không được
sửa bản án theo hướng tăng nặng hình phạt với A. Tuy nhiên thấy cần tăng nặng
hình phạt đối với A, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể kiến nghị người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm về việc cần tăng nặng hình phạt đối với A.
Trường hợp 2: Có kháng nghị của Viện kiểm sát
Thứ nhất: Viện kiểm sát có kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho A. Trong
trường hợp trên ta thấy sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, trong số những chủ thể
có quyền kháng cáo, kháng nghị có cả A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Viện
kiểm sát có kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho A tuy nhiên Hội đồng xét xử lại xét
thấy cần tăng hình phạt với A. Mà căn cứ vào các quy định tại Điều 357 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 quy định về những trường hợp được sửa bản án sơ thẩm thì
Hội đồng xét xử chỉ có quyền sửa bản án theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự
cho bị cáo khi có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu tăng mức hình phạt cho bị cáo.
Trong trường hợp này, sau phiên tòa sơ thẩm có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt và Viện kiểm sát có kháng nghị giảm nhẹ hình phạt cho A mà không có kháng
cáo, kháng nghị nào yêu cầu tăng nặng hình phạt với A. Do đó, nếu xét thấy cần
tăng nặng hình phạt với A, thì Hội đồng xét xử không được sửa bản án theo hướng
tăng nặng hình phạt với A. Tuy nhiên thấy cần tăng nặng hình phạt đối với A, Hội
đồng xét xử phúc thẩm có thể kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm về việc cần tăng nặng
hình phạt đối với A.
Thứ hai: Viện kiểm sát có kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt A. Tại
điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:


“2. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội

đồng xét xử phúc thẩm có thể:
a) Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp
dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;”
Ở đấy ta thấy chỉ cần có Viện kiểm sát có kháng nghị hoặc bị hại có kháng
cáo yêu cầu tăng hình phạt thì nếu xét thấy cần tăng nặng hình phạt thì Hội đồng
xét xử phúc thẩm sẽ có quyền sửa bản án và tăng hình phạt. Trong trường hợp này
mặc dù A có kháng cáo giảm nhẹ hình phạt nhưng Viện kiểm sát lại có kháng nghị
tăng nặng hình phạt với A, mà Hội đồng xét xử phúc thẩm lại xét thấy cần phải tăng
nặng hình phạt với A. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn có quyền sửa
bản án theo hướng tăng nặng hình phạt với A.
10. Vấn đề 10: Khi bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, có căn cứ kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ai có thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng
nghị như thế nào?
Trả lời:
10.1. Thẩm quyền kháng nghị
Tại khoản 3 Điều 344 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về Tòa án
có thẩm quyền xét xử phúc thẩm như sau: “3. Tòa án quân sự cấp quân khu có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị
kháng cáo, kháng nghị”. Như đã trình bày ở câu 1, Tòa án quân sự khu vực có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Do đó trong trường trên, Tòa án quân sự cấp quân khu
sẽ có thẩm quyền xét xử phúc thẩm .
Tại khoản 2 Điều 373 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về những
người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau: “2. Chánh án Tòa
án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.”


Như vậy, trong tình huống trên Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu.
10.2.Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Căn cứ vào Điều 379 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thời
hạn kháng nghị theo thủ tục giám đôc thẩm, trong trường hợp trên thời hạn kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được thính như sau:
Trường hợp 1: Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho A chỉ được tiến
hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp 2: Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho A có thể được tiến
hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp A đã chết mà cần minh oan cho họ.
Trường hợp 3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương
sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự tức là trong thời
hạn 3 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Và trong một số trường hợp đặc
thời hạn kháng nghị có thể kéo dài thêm 2 năm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng Hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2015,

Nxb. Lao động


2.

Trần Văn Biên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm

3.

2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, năm 2017.
Nguyễn Hòa Bình, Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

4.


2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2016.
. Phan Thị Thanh Mai, Một số ý kiến về khởi tố, điều tra,truy tố, xét xử

5.

người phạm nhiều tội, Tạp chí luật học, số 6/2017
Phan Thị Thanh Mai, Một số ý kiến về những điểm mới trong quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về giám đốc thẩm, Tạp chí nghề luật, số
8/2017

6. Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ
Quốc phòng năm 2017



×