Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phép nhân cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.04 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trong quá trình học của mỗi học sinh ở phổ thông, thì bậc học đầu tiên là bậc
học tiểu học, bậc học quan trọng nhất, mang tính toàn diện ở tất cả các môn học, là
cơ sở nền tảng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Giáo viên cung cấp
những tri thức ban đầu về tự nhiên xã hội phát triển năng lực về hoạt động nhận
thức và nhận thức thực tiễn. Bồi dưỡng và phát triển tình cảm, thói quen đức tính
tốt đẹp của con người.
Bên cạnh các môn học khác như: Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên xã hội thì môn
học Toán chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Toán học giúp
con người nhận thức và tri giác thế giới xung quanh về hình dạng và kích thước
các sự vật, hiện tượng. Toán học là bộ môn khoa học lý thú nhiều bí ẩn, muốn
chiếm lĩnh nó đòi hỏi con người phải đầu tư rất nhiều trí tuệ. Ngược lại, khi đã
chiếm lĩnh được nó rồi thì nâng được trí tuệ của con người lên một tầm cao mới.
Nhất là trong thời đại hiện nay, khi khoa học phát triển mạnh thì ứng dụng của toán
học cho sự phát triển của thế giới ngày càng có ảnh hưởng to lớn. Có thể nói tương
lai của đất nước giờ đây đang đặt vào khối óc của thế hệ trẻ.
Vậy để có một khối óc năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển đi lên
của xã hội, không có cách nào khác là đầu tư cho giáo dục.
Toán học, bên cạnh việc giúp học sinh chiếm lĩnh một số kiến thức, kĩ năng
phục vụ cho việc học tập và đời sống nó còn góp phần giáo dục và hình thành, phát
triển khả năng tư duy lôgic, hợp lý, óc trừu tượng, khái quát, phân tích, liên tưởng,
phán đoán, tổng hợp mà toán học còn khơi dậy học sinh phát triển ngôn ngữ, giáo
dục tình cảm, khả năng làm việc độc lập. Thông qua môn toán mỗi học sinh tiểu
học được trang bị một hệ thống kiến thức cơ bản về nhận thức, điều đó rất cần thiết
cho đời sống sinh hoạt và lao động. Bên cạnh đó học sinh tiểu học qua việc học
toán sẽ phát huy trí tưởng tượng, các kỹ năng, kỹ xảo về tính toán. Cũng qua môn
toán giúp các em tiếp thu tốt kiến thức của các môn học khác và sáng tạo trong
việc học tập ở bậc học sau.
Chương trình toán tiểu học chủ yếu cung cấp kiến thức và kĩ năng thực hiện
các phép tính cơ bản ( cộng, trừ, nhân, chia), về các số tự nhiên, số thập phân và


phân số. Chương trình toán lớp hai là một bộ phận của chương trình toán tiểu học
và là sự tiếp tục của chương trình toán lớp một. Trong đó, phép nhân là một trong
các phép tính mà học sinh cảm thấy khó khăn nhất. Vì đây là một kiểu tính toán
các em chưa hề gặp ở gia đình hay mẫu giáo và ở lớp 1. Khi học sinh bắt đầu lên
lớp 2 thì các em phải làm quen với cách học phép nhân trong bảng cửu chương.
Tính nhân là một trong những kỹ năng tính toán cơ bản và quan trọng trong các kỹ
năng thực hành tính toán, khi học toán không chỉ ở bậc tiểu học mà ở các lớp, các
cấp cao hơn. Nó cũng là công cụ tính toán theo các em trong suốt cuộc đời.

1


Trong quá trình dạy học ở tiểu học tôi nhận thấy rằng khi hình thành phép nhân
thì học sinh còn rất lúng túng, chưa hiểu rõ ý nghĩa của phép nhân. Chỉ khoảng
60% học sinh nắm được cách hình thành phép nhân. Dẫn đến khi lập các bảng
nhân cũng chỉ 60% học sinh có khả năng lập được các công thức trong bảng nhân.
Số học sinh còn lại các em chỉ “học thật thuộc” bảng nhân và vận dụng “máy móc”
để tính kết quả phép tính mà chưa nắm rõ bản chất của phép nhân cũng như ý
nghĩa quan trọng khi sử dụng phép nhân, nguyên tắc lập bảng nhân, quy luật hình
thành ở các bảng nhân. Vấn đề đặt ra là làm sao ngay từ đầu học sinh nắm vững
được phép nhân hình thành như thế nào? Nguyên tắc lập bảng nhân? Để từ đó học
sinh có thể vận dụng phép nhân trong bảng một cách thành thạo để tính kết quả
phép nhân theo nhiều dạng, giải toán liên quan đến phép nhân … đạt yêu cầu khi
học xong nội dung phép nhân ở lớp 2, nâng cao chất lượng môn Toán lớp 2 và là
tiền đề hình thành kỹ năng, kỹ xảo tính nhân cho học sinh khi học các lớp tiếp
theo. Vì vậy, với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp nâng
cao chất lượng dạy học phép nhân cho học sinh lớp 2.”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
a. Mục tiêu đề tài:
* Mục tiêu tổng quát:

Nâng cao chất lượng dạy học môn toán nói chung và chất lượng dạy học phép
nhân cho học sinh lớp 2 nói riêng.
* Mục tiêu cụ thể:
- 100% học sinh hiểu bản chất của phép nhân được hình thành từ phép tính
cộng các số hạng giống nhau và nắm được các thành phần trong phép nhân.
- 100% học sinh hình thành được bảng nhân, thuộc bảng nhân và vận dụng vào
thực hành.
b. Nhiệm vụ đề tài:
Tìm hiểu cơ sở lí luận, đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu. Tìm ra giải
pháp thích hợp cho vấn đề nghiên cứu.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Để làm rõ được mục đích ở trên, tôi đã nghiên cứu các nội dung, phương pháp
dạy học mảng kiến thức “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phép
nhân cho học sinh lớp 2 ” theo chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn,
sách nâng cao toán 2 rồi tiến hành dạy thực nghiệm ngay lớp 2L trường Tiểu học
Trung Tiến để đánh giá khả quan về chất lượng của đề tài mình viết.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này tôi đã thực hiện các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu những tài liệu liên quan đến
những vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập thông tin, khảo sát thực tế.
- Phương pháp quan sát điều tra: Phân tích hệ thống hóa tài liệu thu thập được.
1

2


- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức dạy thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi và
hiệu quả của việc dạy học phép nhân ở lớp 2 qua các tiết học.


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1

3


Như chúng ta đã biết, mục tiêu giáo dục là quốc sách hàng đầu. Xuất phát từ
mục tiêu giáo dục bậc Tiểu học là góp phần đào tạo những con người lao động
thông minh, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo và thích ứng. Bậc Tiểu học là
nền tảng của giáo dục phổ thông và cũng là nền tảng của dân trí. Trên cơ sở đổi
mới phương pháp dạy học phù hợp với xu thế chung của cả nước về yêu cầu giáo
dục hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Toán nói riêng
là cần thiết.
Phân môn Toán trong chương trình giảng dạy Toán lớp 2 chiếm một vị trí quan
trọng trong bậc Tiểu học. Nó là nền tảng cho việc học tốt môn Toán ở các lớp tiếp
theo của bậc Tiểu học và Trung học sau này.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình Toán lớp 2. Từ những hạn chế
của tâm lý lứa tuổi. Từ tình hình thực tiễn, trình độ nhận thức của học sinh tiểu học
nói chung, của lớp tôi nói riêng, các em đa số “ thực hành phép nhân” còn yếu vì
nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là:
Tri giác: Tri giác mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và tri giác mang tính
không chủ định. Khi tri giác, sự phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc ở học
sinh lớp đầu còn yếu. Ở đầu cấp, tri giác của trẻ thường gắn với hành động, hoạt
động thực tiễn của trẻ.
Chú ý: Chú ý có chủ định còn yếu, chú ý không chủ định phát triển. Những gì
mang tính mới mẻ, rực rỡ, bất ngờ, khác thường dễ dàng lôi cuốn sự chú ý của học
sinh.
Trí nhớ: Trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic.

Ghi nhớ máy móc chiếm ưu thế. Học sinh không xác định được mục đích ghi nhớ,
không biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa. Những thông tin mà học sinh được tiếp
xúc từ nhiều giác quan sẽ giúp các em ghi nhớ nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
Tư duy: Tư duy cụ thể mang tính chất hình thức, dựa vào đặc điểm của đồ
dùng trực quan. Học sinh thường dựa vào những đặc điểm bề ngoài của sự vật,
hiện tượng để khái quát hoá. Hoạt động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, chủ yếu
được tiến hành khi tri giác trực tiếp các đối tượng trực quan.
Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em thường vội vàng hấp tấp, nên đôi khi
chưa hiểu kỹ đề bài đã vội vàng làm bài, dẫn đến kết quả chưa cao.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán là một môn học độc lập, khó và
mang nặng tính tư duy, trừu tượng. Trong chương trình học của học sinh thì môn
Toán chiếm phần lớn thời gian. Việc dạy môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học
sinh biết vận dụng những kiến thức về Toán, được rèn luyện phương pháp suy luận
logic, thao tác tư duy và kĩ năng thực hành với những yêu cầu cần được thể hiện
một cách phong phú.
Việc nâng cao chất lượng dạy học phép nhân trong môn Toán ở Tiểu học nói
chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp
còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để nâng cao chất lượng thực hiện phép nhân
1

4


cho học sinh lớp 2, bản thân tôi cần phải nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp giảng
dạy thích hợp, giúp các em thực hành phép nhân một cách vững vàng; mặt khác
giúp các em có phương pháp suy luận logic thông qua cách trình bày ngắn gọn,
sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM.
a. Mặt mạnh:

* Học sinh:
Đa số các em học sinh có ý thức học tập tốt, có khả năng thực hiện phép nhân.
100% học sinh học 2 buổi/ngày.
Có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập.
* Phụ huynh
Nhiều phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình như: tạo điều
kiện về thời gian học tập của con, kèm con học ở nhà, mua sắm điều kiện cần thiết
để phục vụ việc học tập của con em…
* Cơ sở vật chất nhà trường:
- Đủ phòng học cho học sinh học 2 buổi/ngày. Nhà trường trang bị khá đầy đủ
mọi điều kiện thiết yếu phục vụ cho việc dạy - học của giáo viên và học sinh.
* Đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên được phân công dạy học lớp 2 có trình độ chuyên môn vững
vàng, có kinh nghiệm trong giảng dạy.
100% giáo viên được tham gia các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy
học. Có lòng nhiệt huyết với nghề, có trách nhiệm cao dạy học.
b. Mặt yếu:
* Về phía học sinh:
- Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không nhận được sự quan
tâm của gia đình, phó mặc việc học của con cho nhà trường. Một số học sinh tính
hiếu động, mải chơi, thiếu tập trung trong giờ học.
- Đa số học sinh chỉ “học thật thuộc” bảng nhân và vận dụng “máy móc” để
tính kết quả phép tính mà chưa nắm rõ bản chất của phép nhân cũng như ý nghĩa
quan trọng khi sử dụng phép nhân, nguyên tắc lập bảng nhân, quy luật hình thành
ở các bảng nhân.
Mặc dù mục tiêu chương trình giáo dục tiểu học hiện nay luôn quan tâm đúng
mức đến việc rèn luyện khả năng diễn đạt, ứng xử, giải quyết các tình huống có
vấn đề, song bản thân các em phần đa là người dân tộc Thái, ít được giao tiếp nên
còn rụt rè, thiếu tự tin, kĩ năng diễn đạt mạch lạc yếu. Các em chưa có nhiều sân
chơi cho lứa tuổi Tiểu học để được bộc lộ thể hiện mình. Từ đó dẫn đến trình độ

đại trà của các em có phần hạn chế so với các bạn cùng lứa tuổi ở miền xuôi.
* Về phía giáo viên:

1

5


- Một số giáo viên hình thành kiến thức mới cho học sinh chưa sâu, chưa phát
triển tư duy, sáng tạo cho học sinh.
c. Nguyên nhân của những hạn chế trên:
* Nguyên nhân khách quan:
- Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh: thiếu chú ý, thiếu tập trung, còn mải
chơi, nhanh nhớ, nhanh quên.
- Do điều kiện gia đình một số học sinh còn khó khăn nên ít có điều kiện quan
tâm đến việc học của con.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Nhiều em học sinh ngại học toán, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Giáo viên ngại đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh.
Từ nhu cầu thực tế đặt ra tôi nhận thấy việc nghiên cứu “ Một số biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học phép nhân cho học sinh lớp 2” tại trường Tiểu học
Trung Tiến là một việc làm cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng dạy học của
môn toán.
Chính vì thế ngay từ khi nhận lớp tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh
đầu năm của lớp và thu được kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát xếp loại năng lực đầu năm cụ thể như sau:
Lớp
2L


Số
HS
10

Hoàn thành tốt
Số lượng
Tỉ lệ
1
10%

Hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
5
50%

Chưa hoàn thành
Số lượng Tỉ lệ
4
40%

Để khắc phục những hạn chế và tìm ra “ Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học phép nhân cho học sinh lớp 2” tôi đã đưa ra một số giải pháp,
biện pháp sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Biện pháp 1: Điều tra, phân loại đối tượng học sinh.
* Mục tiêu: Nắm được từng đối tượng học sinh để có biện pháp dạy học phù
hợp.
Qua khảo sát, điều tra đầu năm, tôi tiến hành phân loại những em còn yếu về
tính nhân để từ đó tôi có biện pháp kịp thời kèm cặp các em. Lớp tôi vẫn đang còn

một số em thực hành phép nhân còn chậm. Các em thường sợ làm các phép tính
nhân. Các em không biết cách nhân, hay thực hiện nhân sai. Tôi luôn quan tâm
động viên các em học sinh để các em chăm học, tích cực làm bài, các em tự tin vào
khả năng của mình để suy nghĩ, phán đoán tìm cách nhân cho đúng. Trong các giờ
lên lớp tôi luôn động viên cho các em suy nghĩ tìm ra cách nhân. Tôi thường xuyên
kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để củng cố kiến
thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng lời nhận xét nếu các em có cố gắng
1

6


(mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn tượng sợ phép
nhân.
Về nhà: Tôi yêu cầu các em làm lại các phép tính vừa nhân ở lớp để các em
chưa hoàn thành nắm vững lại cách nhân. Lần sau gặp loại bài tập như thế là có thể
làm được ngay. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách
nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các em làm lại đầy đủ bài tập cô giao. Ngoài
ra tôi còn giao cho những em giỏi toán ở lớp mỗi em giỏi giúp một em kém. Lập
thành đôi bạn cùng tiến bằng cách: Giờ truy bài kiểm tra bài làm của bạn. Nếu bạn
thực hiện sai thì hướng dẫn nhân lại cho bạn nắm được phương pháp.
2. Biện pháp 2:Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học.
* Mục tiêu: Học sinh được cung cấp đầy đủ nội dung bài, vận dụng tốt trong
thực hành.
Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng
luyện tập thực hành các phép tính nhân đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong
khi dạy, tôi luôn bảo đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách:
+ Chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài trước một tuần để có thêm
thời gian nghiên cứu, hiểu kỹ yêu cầu nội dung của bài học.
+ Khi soạn bài, tôi luôn tìm hướng giảng bài mới một cách dễ hiểu nhất đối với

trò mà vẫn phát huy được tư duy của trò, lấy "học sinh làm trung tâm". Vì vậy, kết
hợp với khâu chuẩn bị bài của học sinh, trong mỗi tiết dạy bài mới, tôi cung cấp đủ
nội dung bài, đồng thời khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức đã học có liên
quan thực hiện phương châm "ôn cũ, học mới".
Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà
đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng trong thực hiện
phép nhân sẽ linh hoạt, không bị gò ép phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quen
chủ động tích cực trong tính toán.
3. Biện pháp 3: Hình thành khái niệm phép nhân
* Mục tiêu: 100% học sinh nắm được khái niệm phép nhân, cách thực hiện
phép nhân, nắm được tên gọi các thành phần trong phép nhân.
* Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Dựa vào cách dạy Toán theo phương pháp mới đó là cho học sinh hình thành
phép nhân, nắm vững tên gọi thành phần phép nhân, kết quả phép nhân sau đó mới
chuyển sang thành lập các bảng nhân (bảng nhân 2, 3, 4, 5).
Muốn học sinh học tốt về phép nhân cũng như vận dụng phép nhân thực hành
tính toán, trước hết yêu cầu các em phải nắm vững kỹ năng tính cộng, đặc biệt là
cộng nhiều số hạng bằng nhau. Vì cơ sở của phép tính nhân chính là phép tính
cộng. Gấp một số lên một số lần thì ta có được phép tính nhân. Trong toán học
phép nhân được giới thiệu qua cách cộng các số hạng bằng nhau. Như vậy giáo
viên cần giúp học sinh thao tác nhiều lần để các em có thể hình dung một cách rõ
ràng mối quan hệ giữa phép tính cộng và phép tính nhân.
1

7


3. 1: Giai đoạn chuẩn bị:
Học sinh phải nắm được cách tính tổng của nhiều số đặc biệt là tính tổng các số
hạng bằng nhau để từ đó khi hình thành phép nhân học sinh thực hiện chuyển tổng

các số hạng bằng nhau thành phép nhân. Khi dạy bài “Tổng của nhiều số” tôi sẽ
giúp học sinh phân tích và nắm thật chắc các dạng bài tập cộng các số hạng bằng
nhau, chú ý kỹ thuật tính tổng của nhiều số. Vì đây là cơ sở cho học sinh hình
thành phép nhân.
* Ví dụ 1:Bài tập 1,trang 91 SGK Toán 2
Ở tổng: 6 + 6 + 6 + 6 = ? tôi giúp học sinh phân tích để nhận biết:
? Tổng “6 + 6 + 6 + 6” có mấy số hạng? (4 số hạng)
? Em có nhận xét gì về các số hạng ? (các số hạng đều bằng nhau, mỗi số hạng
đều là 6).
Sau đó tôi yêu cầu học sinh tính nhanh tổng: 6 + 6 + 6 + 6 = 24.
* Ví dụ 2: Bài tập 3, trang 91 SGK Toán 2
Tôi yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ, điền số và tính kết quả:

5l

5l

5l

+

5l

5l

+

5l

5l


+

5l

= …. l

- Học sinh quan sát hình vẽ, điền và tính nhanh kết quả:
5l + 5l + 5l + 5l = 20 (lít)
- Giáo viên khai thác:
? Tổng “5l + 5l + 5l + 5l “có mấy số hạng? (có 4 số hạng).
? Em hãy nhận xét về các số hạng của tổng trên? (các số hạng đều bằng nhau,
mỗi số hạng là 5).
? Tên đơn vị được tính ở tổng trên là gì? (lít).
Phần bài tập tùy theo đối tượng học sinh của lớp mình giảng dạy mà giáo viên
có thể thay đổi hình thức khác nhau. Nhưng về phần nội dung vẫn cho học sinh
luyện tập hoặc nâng cao hơn kỹ thuật tính tổng của nhiều số hạng, chú ý hơn cách
tính tổng của nhiều số hạng bằng nhau. Đây sẽ là tiền đề giúp học sinh hình thành
khái niệm phép nhân cũng như sau khi học xong phép nhân các em sẽ vận dụng
tính toán và giải được các bài toán về tính độ dài đường gấp khúc, trong trường
hợp trong bài toán có các số đo độ dài trong đường gấp khúc bằng nhau.
3. 2: Hình thành khái niệm phép nhân:
* Cách hình thành:
+ Giới thiệu hình ảnh trực quan.
+ Chuyển tổng các số hạng bằng nhau thành phép nhân.
1

8



+ Tính kết quả của phép nhân bằng cách tính tổng.
* Ví dụ 1: Bài tập 3b trang 91 SGK Toán 2
Tôi tiếp tục dùng trực quan của bài tập 3b trang 91 SGK Toán 2 để giúp học
sinh hình thành khái niệm phép nhân. Học sinh quan sát trực quan trên bảng. Giáo
viên gợi ý để học sinh nêu thành một bài toán có lời văn.
+ Muốn biết 4 can có bao nhiêu lít dầu ta thực hiện phép tính gì?
( Ta thực hiện phép cộng 5l + 5l +5l + 5l )
+ Nêu nhận xét về các số hạng trong tổng này ?
( Các số hạng trong tổng này đều bằng nhau )
+ Có mấy số hạng trong tổng này ?
( Có 4 số hạng )
Kết quả tổng 5l + 5l + 5l + 5l bằng bao nhiêu ?
( Bằng 20 l )
Giáo viên kết luận : Vậy với phép cộng các số hạng bằng nhau thì ta có thể chuyển
thành phép nhân như sau:
Viết là : 5 x 4 = 20
Đọc là : Năm nhân bốn bằng hai mươi. Trong đó các số 5, số 4 được gọi là thừa số,
số 20 được gọi là tích. Dấu x được gọi là dấu nhân.
Học sinh ghi nhớ phép nhân là phép tính viết gọn của phép tính cộng để chuyển
đổi thành thạo giữa phép cộng và phép nhân. Từ đó vận dụng để thành lập các
bảng nhân sau.
Tôi cũng dùng một bài toán cụ thể khác để giới thiệu phép tính mới dựa trên phép
cộng như sau:
* Ví dụ 2: “Ánh lấy một lần 2 que tính, và lấy tất cả 3 lần. Hỏi Ánh lấy tất cả
bao nhiêu que tính ?”
- Song song với việc sử dụng trực quan trên bảng tôi cũng sẽ cho học sinh thao
tác lấy que tính theo bài toán để học sinh dễ hình dung.
- Tôi gắn lần lượt que tính lên bảng theo hình và giúp học sinh nhận biết:

+ Muốn biết Ánh lấy bao nhiêu que tính em thực hiện phép tính gì?

2 +
2
+
2
(phép cộng: 2 + 2 + 2)
+ Em có nhận xét gì về tổng này?
(Các số hạng đều bằng nhau.
+ Có mấy số hạng ?
( Có 3 số hạng).
2 + 2 + 2 =2x3
* Như vậy 2 được lấy 3 lần.
1

9


* Yêu cầu học sinh nhẩm kết quả tổng: 2 + 2 + 2 = 6.
* Với phép cộng các số hạng bằng nhau như vậy ta có thể chuyển nhanh thành
phép nhân như sau:
* Viết: 2 x 3 = 6.
* Đọc: Hai nhân ba bằng sáu. Dấu “ x ” gọi là dấu nhân.
Tôi cho học sinh nhận xét để nhận biết rằng: “ Phép cộng các số hạng bằng
nhau có thể chuyển thành phép nhân. Hay phép nhân được hình thành trên phép
cộng các số hạng bằng nhau ”.
Tôi giúp cho học sinh nắm rõ: khi viết 2 x 3 thì:
* 2 là số hạng của tổng.
* 3 là các số hạng của tổng. ( Tức là giá trị của một số hạng, còn 3 chỉ là “đã
lấy 3 số hạng” lấy 3 lần 2).
3. 3 : Củng cố khái niệm mới hình thành:
Tôi sẽ giúp học sinh luyện tập chắc chắn khái niệm phép nhân mới hình thành

qua các dạng bài tập:
a. Thay phép cộng thành phép nhân:
* Ví dụ 1: 4 + 4 = 4 x 2 = 8 (4 lấy 2 lần được 8)
và 2 + 2 + 2 + 2 = 2 x 4 = 8 (2 lấy 4 lần được 8)
Qua đây học sinh nắm vững hơn về ý nghĩa và cách ghi của phép nhân.
Ở dạng bài tập chuyển tổng các ví dụ với số hạng lớn hoặc có nhiều số hạng, điều
này khiến học sinh mất nhiều thời gian tính toán mà không nắm được ý nghĩa của
phép nhân.
Trong quá trình luyện tập tôi sẽ giúp học sinh nắm chắc rằng: “ Chỉ có các số
hạng bằng nhau mới có thể chuyển phép cộng thành phép nhân ”.
* Ví dụ 2: 3 + 3 + 3 + 3 = 3 x 4 nhưng 3 + 3 + 3 + 2 thì không thay bằng phép
nhân được.
b. Để giúp học sinh củng cố và nắm chắc ý nghĩa của phép nhân tôi sẽ đưa
dạng bài tập so sánh các giá trị biểu thức:
* Ví dụ 1: 3 x 2 □ 3 x 2
;
2+3□3x2
c. Dạng bài tập thay thế phép nhân bằng phép cộng:
Sau khi học sinh đã hiểu ý nghĩa của phép nhân tôi sẽ cho học sinh luyện tập
dạng bài tập thay thế phép nhân bằng phép cộng. Hay nói cách khác học sinh có
thể tìm kết quả của phép nhân qua việc chuyển và tính tổng các số hạng bằng nhau.
* Ví dụ 1: Muốn tính 2 x 3 ta phải tính tổng:
2 + 2 + 2 = 6 vậy 2 x 3 = 6
Qua đó học sinh không những nắm vững cách hình thành phép nhân bằng cách
chuyển tổng các số hạng bằng nhau (ý nghĩa của phép nhân) mà từ phép nhân học
sinh còn suy ra tính được tổng. Điều này giúp học sinh nắm vững mới quan hệ
giữa phép nhân và phép cộng (cộng các số hạng bằng nhau). Chuẩn bị cho việc xây
dựng bảng nhân.
1


10


3. 4 : Giúp học sinh nắm vững tên gọi thành phần, kết quả phép nhân:
Sau khi đã hình thành được phép nhân, giáo viên giúp học sinh nắm chắc tên
gọi thành phần và kết quả của phép nhân:
2

x

5

Thừa số

=

10

Thừa số

Tích

Trong phép nhân: 2 x 5 = 10 (2, 5 gọi là thừa số, 10 gọi là tích) tôi cho học sinh
nắm rõ thừa số thứ nhất (2), thừa số thứ hai (5). Điều này sẽ giúp học sinh dễ dàng
nắm được qui luật khi xây dựng bảng nhân.
Và:
Thừa số
thừa số
2


x

5

=

10

Tích
Tích
( 2 x 5 cũng gọi là tích )
Ở phần này tôi sẽ cho học sinh tự tìm phép nhân, rồi tự xác định và nêu tên gọi
thành phần, kết quả của phép nhân. Nâng cao hơn tôi cho học sinh xác định không
theo thứ tự để học sinh nắm và xác định chắc chắn tên gọi thành phần và kết quả
của phép nhân mà không còn lẫn lộn nữa.
* Ví dụ 1: Bài tập 2a trang 94 SGK Toán 2
5 x 2 = 10
Trong phép nhân 5 x 2 = 10:
+ Nêu thừa số thứ hai? (2)
+ Nêu tích? (10) hoặc 5 x 2 cũng gọi là một tích.
+ Nêu thừa số thứ nhất? (5)
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh nắm rõ : Trong phép tính nhân, vị trí của hai
thừa số có thể thay đổi cho nhau mà kết quả của phép tính vẫn không hề thay đổi.
* Ví dụ 2 : Bài tập 2 a, trang 94 SGK Toán 2
5 x2
2x5
Trong trường hợp này, giáo viên cần đưa ra ví dụ cụ thể để học sinh tự phát
hiện các đặc điểm của các thừa số, phân tích rõ đâu là thừa số thứ nhất và đâu là
1


11


thừa số thứ hai, đâu là tích thấy được. ‘‘ Khi thay đổi chỗ cho các thừa số trong
phép nhân thì tích không thay đổi. ’’
5 x 2 = 10
2 x 5 = 10
Suy ra 5 x 2 = 2 x 5
Như vậy vị trí của các thừa số trong phép nhân là có thể đổi chỗ cho nhau mà
không làm thay đổi kết quả chung của phép tính. Ngoài ra học sinh sẽ được luyện
tập, củng cố qua các dạng bài tập sau:
* Dạng1:
* Ví dụ 1 : Bài tập 1, trang 94 SGK Toán 2
Viết tổng sau dưới dạng tích:
9+9+9 =9x4
Học sinh chuyển tổng thành tích rồi tính tích bằng cách tính tổng tương ứng.
(9 được lấy 3 lần nên viết 9 x 3 sau dấu “ = ” )
Tính tích 9 x 3 ta lấy 9 + 9 + 9 = 27
Vậy 9 x 3 = 27
9 + 9 + 9 = 9 x 3; 9 x 3 = 27
* Dạng 2:
* Ví dụ 2 : Bài tập 2, trang 94 SGK Toán 2
Viết tích dưới dạng tổng:
5 x 2 = 5 + 5 = 10
- Hướng dẫn học sinh chuyển tích thành tổng các số hạng bằng nhau rồi tính
tích đó. Việc tính tổng lúc này phải trở thành kỹ năng.
- Học sinh sẽ được đọc lại phép nhân và nêu tên gọi thành phần và kết quả của
phép nhân.
* Dạng 3:
* Ví dụ 3 : Bài tập 3a, trang 94 SGK Toán 2

Cho các thừa số là 8 và 2, tích là 16. Viết phép nhân.
Tôi hướng dẫn học sinh xác định rõ các thừa số (8, 2), tích (16).
Sau đó viết thành phép nhân:
8 x 2 = 16
Khi tính tích tôi sẽ cho học sinh nhẩm các tổng tương ứng.
Qua từng dạng bài tập, trong quá trình nhận xét, chữa bài tôi sẽ cho học sinh
đọc lại phép nhân và nêu tên gọi từng thành phần ( thừa số) và kết quả ( tích) của
phép nhân.
Học sinh nắm vững tên gọi thành phần, kết quả của phép nhân thì khi bước
sang lập bảng nhân cũng như tìm một thừa số của phép nhân học sinh sẽ không bị
lúng túng mà dễ dàng xác lập được phép tính và tính kết quả.
4. Biện pháp 4: Lập bảng nhân

1

12


* Mục tiêu: 100% học sinh thành lập được bảng nhân và thuộc bảng nhân, vận
dụng thực hành làm toán có hiệu quả.
* Biện pháp:
4. 1 : Cách lập bảng:
Dựa trên kiến thức về phép tính nhân và mối quan hệ giữa phép tính nhân và
phép tính cộng, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập các bảng nhân vì bảng
nhân được lập dựa vào khái niệm phép nhân là phép cộng các số hạng bằng nhau.
* Qui trình lập bảng:
+ Giáo viên giới thiệu đồ dùng trực quan.
+ Hình thành phép nhân (trên cơ sở cộng các số hạng bằng nhau).
+ Tính tích (bằng cách tính tổng tương ứng).
+ Thành lập bảng.

* Ví dụ 1: Hướng dẫn học sinh thành lập bảng nhân 2.
Trước hết tôi đưa ra một ví dụ nhằm nhắc lại: “Phép nhân được hình thành dựa
trên phép cộng các số hạng bằng nhau”.
Gắn mẫu hai chấm tròn lên bảng, cho học sinh nhận biết: Có hai chấm tròn. Giáo
viên tiếp tục gắn thêm 4 nhóm, mỗi nhóm có 2 chấm tròn nữa theo hình sau:

..

..

..

..

..

2
+
2
+
2
+
2
+
2
= 2 x 5 = 10
Hỏi: Có tất cả mấy chấm tròn ? (10 chấm tròn vì 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10)
Giáo viên yêu cầu học sinh chuyển thành phép nhân: 2 x 5 = 10.
Giáo viên kết luận : Như vậy ta đã tìm được kết quả của phép nhân nhờ phép cộng
các số hạng bằng nhau. Nhưng mỗi lần cứ phải cộng như thế thật không tiện. Bởi

vì cách tính kết quả của phép tính cộng rõ ràng là lâu hơn. Do đó ta xây dựng bảng
nhân dựa trên mối quan hệ giữa phép tính nhân và phép tính cộng. Khi lập xong
bảng nhân các em sẽ vận dụng bảng nhân để nói nhanh kết quả một phép tính nhân
(nhân trong bảng) mà không cần tính kết quả qua việc tính tổng các số hạng bằng
nhau.
Sau đó tôi bắt đầu hướng dẫn học sinh xây dựng bảng nhân từ 2 x 1 đến 2 x 10.
Trên cơ sở học sinh đã nắm ở mục trên, tôi hướng dẫn học sinh nắm rõ mỗi phép
tính nhân trong bảng đều được xây dựng trên cơ sở phép cộng các số hạng bằng
nhau tương ứng. Như vậy học sinh sẽ nắm chắc được nguyên tắc lập bảng và dễ
dàng lập được bảng nhân.
* Ví dụ 2:
2 x 2 = 2 + 2 = 4.
Như vậy 2 x 2 = 4.
2 x 3 = 2 + 2 + 2 = 6.
Như vậy 2 x 3 = 6.
2 x 4 = 2 + 2 + 2 + 2 = 8. Như vậy 2 x 4 = 8.
1

13


.........
Những trường hợp sau tôi cho học sinh tự hình thành, sau đó báo kết quả để
hoàn thành bảng nhân.
Tính nhân thực chất là phép tính viết gọn của phép tính cộng, do vậy khi hình
thành bảng nhân, giáo viên cần giúp học sinh nắm cấu tạo của bảng. Nhất là giúp
các em biết cách chuyển đổi thuần thục giữa phép tính nhân và phép tính cộng,
kiểm tra sự chính xác giữa các phép tính .
* Ví dụ 3 : Chuyển đổi giữa phép tính nhân ( một tích ) và phép tính cộng
( tổng các số hạng bằng nhau)

2x4=8
Nghĩa là 2 lấy 4 lần bằng 8. Chuyển sang phép cộng ta có :
2+2+2+2=8
Nếu học sinh nắm vững cấu tạo này thì sẽ dễ dàng kiểm tra được tính chính
xác của các kết quả về bảng nhân .
Mặt khác dựa trên quy tắc này học sinh sẽ biết cách thành lập các bảng nhân
một cách tuần tự do vậy sẽ giúp các em học các bảng chia thuận lợi hơn sau này.
* Ví dụ 4:
2 x 3 = 6 v ậy thì 2 x 4 sẽ bằng kết quả 2 x 3 lấy thêm một lần
2x4=8
Việc học như vậy sẽ có kết quả vững chắc hơn.
Riêng trường hợp 2 x 1 thì được coi 2 được lấy 1 lần.
Ngoài ra nếu học sinh quên kết quả của phép tính nhân: 2 x 4 = ? thì giáo viên
có thể sử dụng hai cách sau để giúp học sinh khôi phục kết quả.
+ Cách 1: Giáo viên yêu cầu học sinh tính tích dưới dạng tổng ( cách ban đầu
đã xây dựng )
2 x 4 = 2 + 2 + 2+ 2 = 8. Như vậy 2 x 4 = 8
+ Cách 2: Lấy tích liền trước (2 x 3 = 6) cộng thêm cho 2 : 6 + 2 = 8
8 chính là kết quả của: 2 x 4
Hoặc lấy tích liền sau ( 2 x 5 = 10) trừ cho 2 : 10 - 2 = 8.
8 chính là kết quả phép tính nhân : 2 x 4
Tương tự như thế ở các bảng nhân sau (3, 4, 5...) học sinh cũng cần nắm chắc
nguyên tắc lập bảng cũng như quy luật của bảng nhân đó.
4. 2 : Tổ chức cho học sinh ghi nhớ bảng nhân:
- Có nhiều hình thức giúp học sinh ghi nhớ bảng nhân: Tổ chức cho học sinh
đọc nhiều lần, đọc to, đọc thầm, đọc theo thứ tự, không theo thứ tự, tổ chức dạng
trò chơi “truyền điện”, ho ặc trò chơi ‘’ Trò chơi với học sinh ’’...
Minh họa một cuộc trò chuyện:
Giáo viên : Trong các bảng nhân đã học em thích nhất bảng nhân mấy ?
Học sinh : Thưa cô, em thích bảng nhân 4 ạ.

Giáo viên : Vì sao em thích bảng nhân 4 ?
1

14


Học sinh : Vì cả gia đình em có 4 người.
Nhà bạn Nam, bạn My bên cạnh nhà em cũng có 4 người cô ạ. Cả 3 gia đình có tất
cả là 12 người.
Giáo viên : Làm thế nào em tính được số người nhanh như vậy ?
Học sinh : Thưa cô, em tính số người của nhà hai bạn : An và Hương là : 4 x 2 = 8
( người )
Sau đó em cộng số người của nhà em vào nữa : 8 + 4 = 12 ( người ) ạ .
Để giúp học sinh không những thuộc mà nắm chắc bảng nhân tôi sẽ áp dụng
cho học sinh đếm thêm 2 (3, 4, 5).
Việc đếm thêm 2 (3, 4, 5) từ 2 (3, 4, 5) đến 20 (30, 40, 50) giúp học sinh học
thuộc bảng nhân và giúp học sinh tìm lại kết quả trong các bảng nhân ( nếu học
sinh quên). Tôi giúp học sinh nắm:
- Thừa số thứ nhất luôn là : 2 (3, 4, 5).
- Thừa số thứ hai lần lượt là : Từ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10.
- Tích chính là các số khi đếm thêm 2 (3, 4, 5) từ 2 (3, 4, 5) đến 20 ( 30, 40, 50)
Yêu cầu học sinh đếm thành thạo thêm 2 (3, 4, 5) nó gần tương đương với việc
học thuộc bảng nhân. Nếu khi đếm thêm học sinh thấy khó khăn, tôi sẽ hướng dẫn
học sinh xòe ngón tay, ví dụ:
- Đếm 2 xòe 1 ngón tay.
- Đếm 4 xòe 2 ngón tay.
- Đếm 6 xòe 3 ngón tay.
- Đếm 8 xòe 4 ngón tay.
Nhìn vào số ngón tay đã xòe ra, chẳng hạn 4 ngón tay học sinh sẽ có ngay phép
tính : 2 x 4 = 8.

4. 3: Vận dụng một số “tính chất” của phép nhân và phép cộng để xây dựng
bảng nhân:
Dạng 1: Ở các bảng nhân sau tôi hướng dẫn học sinh vận dụng “ tính chất giao
hoán” của phép nhân để xây dựng nhanh một số phép tính đầu của bảng mà không
phải xây dựng 10 công thức trong các bảng nhân.
* Ví dụ 1: Ở bảng nhân 5 thì các trường hợp sau coi như đã học:
5 x 2 = 10 và đã học 2 x 5 = 10 ( ở bảng nhân 2)
5 x 3 = 15 và đã học 3 x 5 = 15 ( ở bảng nhân 3)
5 x 4 = 20 và đã học 4 x 5 = 10 ( ở bảng nhân 4).
Còn các trường hợp 5 x 5 cho đến 5 x 10 là những công thức mới cần dựa vào
phép cộng 5, 6, 7, 8, 9, 10 số hạng đều là 5 để tìm kết quả của phép tính nhân.
Cũng trên cơ sở đó từ bảng nhân có thừa số thứ nhất không đổi trong lúc luyện
tập tôi hướng dẫn học sinh vận dụng “ tính chất giao hoán” của phép nhân để
chuyển sang phép nhân có thừa số 2 không đổi.
Nội dung ở lớp 2 chỉ dạy bảng nhân 2 (3, 4, 5) tức là bảng nhân có thừa số 2 (3,
4, 5) đứng trước. Song cũng cần học sinh hiểu rằng từ một bảng nhân đã lập ta có
1

15


thể lập nhanh trước một bảng nhân với thừa số thứ hai không đổi. Đây là yêu cầu
không bắt buộc học sinh nhưng nếu học sinh nắm được thì khi luyện tập khả năng
vận dụng sẽ rộng và chắc chắn hơn.
Chẳng hạn với bảng nhân 5 ta có :
5
5x1=5
1x5=5
5+5
5 x 2 = 10

2 x 5 = 10
5+5+5
5 x 3 = 15
3 x 5 = 15
--------

-----------------Bảng nhân
Khi luyện tập
* Dạng 2: Cũng có thể vận dụng “tính chất kết hợp” của phép cộng để tiến
hành xây dựng các công thức trong bảng nhân.
* Ví dụ 2: 5 x 6 = ? Sau khi đã học xong 5 x 5 = 25, thì có thể “cộng thêm 5”
vào 25. khi đó có thể viết:
5 x 6 = 5 x 5+ 5 = 30, do đó 5 x 6 = 30
Ý nghĩa của việc vân dụng tính chất kết hợp của phép cộng là ở chỗ:
5 x 6 = 5 + 5+ 5 +5 +5 +5 = 25 + 5 = 30 mà : 25 = 5 x 5 nếu có
5x6=5x5+5
4. 4: Tổ chức cho học sinh thực hành:
Song song khi dạy cho học sinh hình thành phép nhân cũng như lập các bảng
nhân tôi sẽ tổ chức cho học sinh:
+ Học xong bảng nhân nào thì học sinh vận dụng chắc chắn các dạng bài tập
theo sách giáo khoa để củng cố, rèn luyện kỹ năng, tăng khả năng vận dụng của
học sinh.
+ Do tính đặc thù của môn toán học hơi khô khan, dễ gây ra sự nhàm chán cho
người học nên giáo viên phải tạo ra cho lớp học có một không khí học tập vui tươi,
thoải mái, kích thích các em học tập. Trong bài giảng giáo viên cần xen kẽ các trò
chơi toán học .Để giờ thực hành nhẹ nhàng và có hiệu quả tôi suy nghĩ và chuyển
các dạng bài tập thành trò chơi học tập.
* Ví dụ 1: Yêu cầu học sinh xác định và thi nói nhanh phép tính với kết quả
tương ứng, tổ chức thi giữa các nhóm.
Giáo viên có thể trình bày trực quan như sau :


4x2

4x5
8

20
21
21
1

45
16


2x4

3x7

5x9

* Ví dụ 2: Bài tập 3 sách giáo khoa trang 97 Toán 2
- Đếm thêm ba số rồi viết số thích hợp vào chỗ trống:
3

6

9

21


30

Tôi sẽ chuyển thành trò chơi theo kiểu “tiếp sức” trong nhóm (hoặc tổ).
Học sinh sẽ nối tiếp nhau đếm thêm 3 và viết nhanh kết quả tiếp theo.
Sau đó yêu cầu học sinh “ bớt 3” từ 30 để các em nắm chắc kết quả của bảng nhân
3.
Tôi cũng sẽ cho học sinh đếm thêm 3 hoặc bớt 3 từ bất kỳ số nào trong dãy số: 3,
6, 9, 12, 15, 18, 21, 24, 27, 30.
5. Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra
* Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố, ghi nhớ, khắc sâu kiến thức đã học.
* Biện pháp:
Công tác kiểm tra đánh giá là việc làm thường xuyên của mỗi giáo viên trong
chương trình giảng dạy. Vì vậy, tôi thường xuyên kiểm tra mức độ ghi nhớ các
bảng nhân đã học của từng cá nhân học sinh, bằng cách cho học sinh tự kiểm tra
theo bàn, nhóm, tổ vào mỗi ngày giúp cho học sinh nắm chắc, ghi nhớ lâu bền các
bảng nhân. Mặt khác, việc kiểm tra, theo dõi sẽ giúp giáo viên đánh giá một cách
chính xác kết quả từng loại đối tượng học sinh nhất là đối với học sinh yếu kém.
Đồng thời, có theo dõi, kiểm tra thường xuyên kết quả học tập của học sinh thì mới
tạo cho các em có thái độ đúng đắn và đạt kết quả tốt.
* Ví dụ 1: Sau khi hình thành cho học sinh phép nhân 2, 3, 4… giáo viên cho
học sinh tự thiết kế các phép nhân bằng cách giao việc cho từng nhóm, mỗi nhóm
trình bày trước lớp.
1 em giỏi – 1 em giơ que tính – 1 em ghi bảng – 1 em đọc.
Giáo viên tổ chức thi đua giữa các nhóm.
Tiếp tục cho các em đọc nối tiếp, đọc theo trình tự lần lượt từ trên xuống dưới rồi
đọc quay lại từ dưới lên, có thể đọc theo quãng bất kỳ, chỉ đến phép nhân nào trong
bảng các em cũng đọc được.
Giáo viên có thể áp dụng thực hiện như vậy đối với bất kỳ bảng nhân nào sẽ giúp
các em học thuộc bảng nhân ngay tại lớp học.


1

17


Ngoài ra giáo viên còn áp dụng phân lớp ra từng nhóm đôi học ở nhà, các em
tự dò bảng nhân theo nhóm. Khi giáo viên truy bài các bảng nhân ở mỗi nhóm nếu
có học sinh không thuộc thì sẽ bị trừ điểm thi đua của nhóm đó.
Hoặc khi kiểm tra việc ghi nhớ các bảng nhân của học sinh tôi chú ý cho học
sinh nêu lại cách tính thế nào để có kết quả bất kỳ phép nhân trong bảng.
* Ví dụ 2: Khi kiểm tra học sinh ghi nhớ bảng nhân 3 tôi sẽ kiểm tra bất kỳ
phép tính nào, chẳng hạn 3 x 4.
Giáo viên : Làm thế nào để các em biết kết quả phép tính : Ba nhân bốn bằng 12 (3
x 4 = 12) ?
Học sinh: Thực hiện tính tổng: 3 x 4 = 3 + 3+ 3 + 3 = 12. Vậy 3 x 4 = 12.
Khi tiến hành vận dụng luyện tập tôi cho 1 học sinh làm cá nhân trên bảng lớp,
tất cả các học sinh khác làm vào vở và giáo viên theo dõi. Đây là phần kĩ thuật
thực hành được thực hiện sau khi hình thành kiến thức mới nhằm giúp học sinh
vận dụng các kiến thức vào thực tế.
6. Biện pháp 6: Phát triển, tìm tòi nội dung kiến thức sách giáo khoa.
* Mục tiêu: Khai thác được tư duy của h ọc sinh.
Thông thường giáo viên chỉ chú ý tới việc học sinh làm đủ, làm đúng các bài
tập trong SGK, vở bài tập theo quy định của tiết học, nên đôi khi gặp những trường
hợp khác lạ là học sinh lúng túng, ít tư duy tìm tòi sáng tạo.
Vì thế để học tốt các phép tính nhân ở lớp 2, tôi luôn tìm cách mở rộng ngay
sau một bài tập nào đó trong số bài ôn luyện vào buổi chiều, tuy nhiên ở mức độ
hợp với trình độ học sinh trong lớp, các đối tượng tiếp thu được.
Khi học sinh làm đủ 100% số bài tập quy định chưa hẳn là đã thành thạo cách
nhân, nhất là học sinh ở mức độ hoàn thành trung bình và chưa hoàn thành. Vì vậy,

tôi đã cố gắng đưa nội dung kiến thức vào bài tập thật phong phú, đa dạng dựa vào
bài tập có sẵn, vẫn xoay quanh nội dung bài vừa học hoặc vừa luyện tập. Bài tập
đưa ra dưới các hình thức khác nhau, tôi khai thác được tư duy của học sinh.
7. Biện pháp 7: Từ tư duy đúng, tìm được cách thực hiện đúng giúp các em
trình bày bài làm đúng.
Giáo viên phải đưa ra 1 số câu hỏi đàm thoại gợi ý đối với học sinh ở mức độ
hoàn thành trung bình và chưa hoàn thành nhằm giúp học sinh lựa chọn cách thực
hiện nhân đúng.
8. Biện pháp 8: Kết hợp giải toán và rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh
tính toán đúng tránh nhầm lẫn .
Vì có những em nhiều khi cách nhân đúng nhưng tính toán sai dẫn đến kết quả
phép tính sai. Vậy tôi phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác,
trình bày khoa học rõ ràng. Nếu là tính nhẩm phải học thuộc các bảng nhân để vận
dụng nhanh. Nếu yêu cầu là đặt tính rồi tính các em phải đặt tính cột dọc. Làm ra
nháp cẩn thận, kiểm tra kết quả, đúng mới viết vào bài làm. Cần rèn luyện kỹ năng

1

18


tính nhẩm, tính viết thành thạo cho học sinh trong quá trình tính toán, để hoàn
thiện bài làm.
9. Biện pháp 9: Chấm, chữa bài kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ
năng tính toán.
Học sinh bậc tiểu học có đặc điểm riêng về tâm sinh lý lứa tuổi nên việc chấm
chữa kịp thời của giáo viên đối với trẻ là rất phù hợp, nó tác động ngay tới hành
động của trẻ. Chấm và chữa lỗi theo TT 30 một cách kịp thời của giáo viên trong
giờ học toán là rất quan trọng. Qua chấm chữa, giáo viên nắm được tình hình chất
lượng tiếp thu bài học của học sinh đồng thời bản thân học sinh cũng tự thấy mình

đã làm được ở những phần nào, phần nào chưa làm được cần khắc phục ở những
bài tập sau.
Cụ thể trong tiết toán tôi đã thường xuyên thực hiện như sau: Sau khi học sinh
đã được giáo viên cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyết các
bài tập trong "Vở bài tập toán 2". Tôi luôn cố gắng đảm bảo 100% học sinh trong
lớp làm đủ các bài tập được giao.
Đối với học sinh ở mức độ hoàn thành tốt và hoàn thành khá tốt thì dễ dàng,
còn đối với học sinh ở mức độ hoàn thành trung bình và chưa hoàn thành để làm
đúng 100% số bài tập ngay tại lớp là khó khăn. Vì vậy trong quá trình học sinh
đang làm bài tập, tôi đã quan sát việc làm bài của số học sinh này nhiều hơn, kịp
thời phát hiện những chỗ sai để uốn nắn học sinh theo dõi chữa trên bảng, biết chỗ
sai để học sinh tự chữa; có thể dùng một vài câu hỏi nhỏ gợi ý.
Tuy nhiên gặp những bài khó, nhiều học sinh sai thì tôi yêu cầu học sinh nhận
xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa như thế nào ?
Thường thì tôi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh
làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tôi đã củng cố cho học sinh đó và đồng
thời chữa chung cho nhiều em khác. Còn gặp bài khó, học sinh lúng túng, tôi dùng
câu hỏi gợi ý hoặc dùng học sinh có học lực hoàn thành tốt của lớp tham gia chữa
bài.Trong tiết toán, thời gian chỉ có 30 – 40 phút, tôi chú ý chấm chữa cho học
sinh ở mức độ hoàn thành trung bình và chưa hoàn thành và chú ý tới những lỗi sai
mà học sinh mắc nhiều. Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học
sinh có thói quen làm toán đúng, chủ động tính toán. Tôi cố gắng chữa triệt để
những lỗi sai bằng cách:
+ Học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học
sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được tôi kiểm tra triệt để, cuối cùng phải
chữa đúng mới thôi. Sau đó tôi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của học
sinh.
+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài,
tôi yêu cầu học sinh ngoài việc chữa đúng còn phải trình bày lưu loát, sạch đẹp, rõ
ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh

nhớ rất kỹ bài làm, lần sau gặp các bài tập cùng dạng thì học sinh rất ít sai sót.
1

19


3. 4 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Tháng 3 năm 2018, tôi tiến hành kiểm tra chất lượng học sinh. Kết quả xếp loại
năng lực đạt được như sau:
Lớp

Số HS

2L

10

Hoàn thành tốt
Số lượng
Tỉ lệ
6
60%

Hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
4
40%

Chưa hoàn thành

Số lượng
Tỉ lệ
0
0%

- Giá trị khoa học: Áp dụng cho lớp 2L trong trường Tiểu học Trung Tiến.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm, kết quả từng đợt được tăng lên rõ
rệt. Học sinh hiểu được thực chất của phép nhân được hình thành từ phép cộng các
số hạng bằng nhau. Học sinh đã thành lập được bảng nhân, đặc biệt ở các bảng
nhân sau (bảng nhân 3, 4, 5) hầu hết các em đều có kỹ năng lập một cách nhanh
chóng và chính xác, nắm vững quy luật của từng bảng nhân. Ghi nhớ thuần thục
các phép tính trong bảng nhân. Thực tế cho thấy học sinh nắm chắc về hình thành
phép nhân và bảng nhân. Đa số các em vận dụng rất nhanh khi tính toán. So với
đầu năm lớp 2L chất lượng tăng rõ rệt, học sinh trình bài bài khoa học, nắm tương
đối vững cách thực hiện phép nhân
Với kết quả trên cho thấy việc đưa phương pháp dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, học sinh tự tìm tòi và chiếm lĩnh kiến thức mang lại kết quả khá tốt.
Đa số chất lượng học sinh của lớp tôi được nâng lên, các em phát biểu tốt hơn,
tư duy linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, chất lượng đại trà được nâng lên.
Bước đầu kết quả có nhiều khả quan hơn. Với cách thức tiến hành từng bước
như trên áp dụng vào thực tế ở lớp thì kết quả đạt được cao.
Kết quả trên cho thấy sự rèn luyện và nỗ lực của các em rất lớn. Các bậc phụ
huynh tỏ ra rất vui và hài lòng khi nghe giáo viên thông báo kết quả rèn luyện của
con em mình qua từng kỳ họp. Từ đó về nhà họ đã khích lệ con mình nỗ lực hơn
nữa trong học tập và rèn luyện.

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN :
Bằng kinh nghiệm nhiều năm dạy học lớp 2, trong năm học 2017 – 2018 tôi đã

vận dụng các biện pháp dạy học trên vào dạy học. Qua đó tôi đã đúc kết được bài
học kinh nghiệm trong quá trình dạy học về nội dung phép nhân: Khi hình thành
khái niệm phép nhân và lập bảng nhân như sau:

1

20


- Giáo viên cần nghiên cứu và nắm vững nội dung giảng dạy phép nhân trong
chương trình tiểu học nói chung và nội dung phép nhân trong chương trình lớp 2
nói riêng, cũng như các yêu cầu HS cần đạt được khi học nội dung phép nhân ở
lớp hai.
- Khi chuẩn bị dạy về phép nhân cần rèn luyện cho HS nắm thật chắc chắn các
kỹ năng, kỹ xảo cộng nhiều số hạng, đặc biệt là số hạng bằng nhau.
- Chú trọng cho HS cách chuyển tổng các số hạng bằng nhau thành phép nhân.
- Dạy kỹ và chắc chắn cho HS từng bảng nhân đầu tiên là bảng nhân 2, giúp
cho HS hiểu và nắm vững nguyên tắc lập bảng, quy luật trong từng bảng nhân. các
yêu cầu đó được nâng cao ở các bảng nhân sau ( bảng nhân 3, 4, 5).
- Tăng cường các hoạt động thực hành, luyện tập. Bởi vì, học tính nhân điều
quan trọng là phải thực hành luyện tập nhiều. Chính nhờ qua quá trình luyện tập
mà học sinh thuần thục việc xử lý các con số, thoát ly được việc vừa nhẩm các
bảng tính vừa làm tínhTổ chức cho học sinh được vận dụng nhiều dạng bài tập phù
hợp để củng cố khái niệm phép nhân và bảng nhân mới hình thành.
- Thường xuyên kiểm tra việc nắm bắt, ghi nhớ các bảng nhân của HS bằng
nhiều hình thức. Sau khi học xong bảng nhân, giáo viên dò bảng nhân liên tục
nhưng không dò suông mà khi giáo viên đọc bất kỳ phép nhân nào học sinh cũng
đọc được, không cần nhẩm từ đầu.
- Giáo viên cần trân trọng mọi cố gắng và các ý kiến của HS giúp cho HS chủ
động , tích cực, sáng tạo trong quá trình học. Đối với các học sinh ghi nhớ chưa

tốt, giáo viên cần thường xuyên quan tâm, nhắc nhở, uốn nắn các em kịp thời.
- Giáo viên cần lựa chọn, vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học phù hợp với từng bài, phù hợp với đối tượng học sinh. Hướng dẫn thêm cho
các em về phép tính cộng nhiều các số hạng bằng nhau và cách chuyển sang phép
nhân, cách thành lập các bảng nhân. Giao việc cho các em làm những bài toán có
liên quan đến các phép tính nhân trong phạm vi đã được học.
Bản thân giáo viên phải hết sức kiên trì nỗ lực sử dụng liên tục, hiệu quả các
biện pháp ngay từ khi bước đầu chuẩn bị dạy học nội dung phép nhân nhất định sẽ
rất khả quan, góp phần nâng cao chất lượng môn toán ở lớp hai.
II. KIẾN NGHỊ:
Đối với nhà trường: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học cho
các môn học, đặc biệt là môn Toán hơn nữa.
Đối với giáo viên trực tiếp đứng lớp: Sát sao với học sinh lớp mình phụ trách,
có kế hoạch phân loại từng đối tượng học sinh lớp ngay từ đầu năm học để có các
giải pháp cụ thể và kịp thời. Không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức và kĩ năng,
cải tiến và đổi mới PPDH trong từng tiết dạy, trong mỗi kì và năm học.
Chắc chắn đây chưa phải là những giải pháp hay nhất, mẫu mực nhất nhưng
chắc chắn rằng nó sẽ một tích lũy nho nhỏ giúp cho giáo viên dạy lớp 2 có thêm
một số kinh nghiệm để giảng dạy phần phép nhân nhằm hoàn thành mục tiêu của
1

21


môn học một cách tốt hơn. Vì khả năng của bản thân có hạn, thời gian nghiên cứu
chưa nhiều cho nên sáng kiến này rất khó tránh khỏi những thiếu sót. Với sự cầu
thị của bản thân, tôi kính mong các đồng nghiệp, tổ chuyên môn, Ban Giám hiệu
nhà trường tham khảo và góp ý thêm để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn và
có khả thi áp dụng.
XÁC NHẬN CỦA

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Bùi Thị Phương

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu

1

1
2
2

22


4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG

2
2
3

1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng

3
4

3. Các biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
3.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
2. Kiến nghị:

5
5
6
17
18
18
18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Tạp chí Văn, Toán Tuổi thơ, tạp chí Giáo dục ra từng tháng.
2/ Phương pháp dạy môn toán ở tiểu học (Tác giả: Đỗ Trung Hiệu - Đỗ Đình
Hoan-Vũ Dương Thuỵ-Vũ Quốc Trung - Xuất bản 1995).
3/ Tâm lí học sư phạm (Tác giả: Lê Văn Hồng - 1994).
4/ Giáo trình Phương pháp dạy và học Toán Tiểu học – Vũ Quốc Chung (chủ biên),
Đào Thái Lai, Đỗ Tiến Đạt, Trần Ngọc Lan, Nguyễn Quang Hùng, Lê Ngọc Sơn NXB Đại học Sư phạm
1

23


5/ Giáo trình thực hành phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học – Trần Ngọc Lan –
Đại học Sư phạm, 2009
6/ Phương pháp nghiên cứu KHGD – NXBGD
7/ Sách giáo khoa Toán 2 – NXBGD 2010
8/ Sách giáo viên Toán 2 – NXBGD 2010
9/ Các loại sách tham khảo bài tập Toán lớp 2

1

24



×