Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số trò chơi giúp học sinh học tốt phần đại lượng môn toán lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.16 KB, 17 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chon đề tài.
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo nên những con người
mới, con người phát triển toàn diện. Cơ sở nền móng của sự phát triển này là
học sinh cấp tiểu học. Việc giáo dục học sinh tiểu học được thực hiện chủ yếu
thông qua các môn học trong nhà trường, trong đó môn toán giữ một vị trí quan
trọng góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Toán học với tư cách là môn khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới
hiện thực cả một hệ thống khái niệm quy luật và phương pháp riêng. Hệ thống
này luôn phát triển trong quá trình nhận thức thế giới và đưa ra kết quả là những
tri thức toán học. Học sinh trong quá trình học tập ở nhà trường cần nắm vững
các tri thức cơ bản và những phương pháp nhận thức, từ đó trang bị cho mình
một công cụ cần thiết để nhận thức thế giới, thông qua đó nhân cách của mỗi
học sinh được hình thành và phát triển.
Như vậy với tư cách là môn học trong nhà trường thì môn toán giúp trang
bị cho học sinh một hệ thống tri thức và phương pháp riêng để nhận thức thế
giới và làm công cụ cần thiết để học tập các môn học khác tốt hơn.
Trong chương trình toán ở tiểu học, cùng với việc học các kiến thức về số
học, hình học … học sinh cũng được học các kiến thức về đại lượng. các kiến
thức về đại lượng ở tiểu học không phải được dạy và học thành môn riêng mà nó
là một bộ phận gắn bó mật thiết với các kiến thức số học, hình học, giải toán tạo
thành một môn học thống nhất. các kiến thức này hỗ trợ bổ sung cho nhau góp
phần phát triển toàn diện năng lực toán học cho học sinh.
Như chúng ta đó biết “Đại lượng và đo đại lượng” lại gắn liền với thực
tiễn trong đời sống của học sinh.
Tóm lại: “Đại lượng và đo đại lượng” với vai trò là một trong những nội
dung cơ bản của môn toán ở tiểu học. trong các môn học, môn toán là môn học
đặc biệt quan trọng, thời gian dành cho môn toán chiếm 1 phần lớn trong mối
quan hệ với các môn học khác của chương trình trong suốt 5 năm học từ lớp 1
đến lớp 5 của bậc tiểu học. chương trình soạn thảo sách giáo khoa phần mạch
kiến thức. “ Đại lượng và đo đại lượng” có mặt ở tất cả các lớp theo cấu tạo


đồng tâm, lớp sau cao hơn lớp trước và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau.
Trong mạch kiến thức “ Đại lượng và đo đại lượng ” có giá trị đặc biệt
quan trọng gắn liền với cuộc sống thực tiễn. Vì vậy trong quá trình dạy học môn
toán ở tiểu học hình thành khái niệm đơn vị đo ứng dụng thực tiễn cách ước
lượng,đong, đo, đếm, các bài toán về chu vi, diện tích, thể tích ... Các bài toán
về thời gian, chuyển động ... Qua sự phân bố của chương trình ta thấy rằng các
bài toán về đại lượng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình môn
toán ở tiểu học.
- Khi dạy mạch kiến thức này giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng dạy
1


theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn. Vì vậy, giáo
viên thường làm việc một cách máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả
năng sáng tạo của học sinh.
- Cả giáo viên và học sinh đều phụ thuộc vào các tài liệu có sẵn. Dạy học
theo phương pháp như vậy đang cản trở việc đào tạo những con người lao động,
năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn
ra hằng ngày.
Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 5, tôi nhận thức được điều
đó qua thực tế dạy học. Tôi luôn băn khoăn: Làm thế nào để tổ chức cho học
sinh củng cố, hệ thống kiến thức và làm được bài tập có hiệu quả?
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn nghiên cứu đề tài : “Một số trò chơi
Giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 5”
1. 2. Mục đích nghiên cứu
“Một số trò chơi giúp học sinh học tốt môn toán lớp 5”
1.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Thực trạng dạy và học môn toán của giáo viên và học sinh khối 5 trường Tiểu
học Trung Tiến - Quan Sơn - Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

- Tìm hiểu thực tế.
- Giảng dạy hàng ngày.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tài liệu bồi dưỡng.
- Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn.
- Phương pháp thống kê thu thập và sử lý số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.

2


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Từ mục tiêu đề ra đối với môn toán và đặc biệt là mạch kiến thức“ Đại
lượng và đo đại lượng” ở chương trình toán lớp 5 tôi nhận thấy việc thiết kế trò
chơi góp phần đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng dạy học môn
toán nói chung và môn toán lớp 5 nói riêng, đặc biệt là mạch kiến thức “ Đại
lượng và đo đại lượng” là rất cần thiết.
Trò chơi toán học nhằm đáp ứng sự hiếu động ham chơi, ham hiểu biết,
thích cái mới lạ, kích thích tính tò mò, muốn tìm hiểu khám phá. Thông qua hoạt
động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập phù hợp với nhận thức của học
sinh tiểu học. Trong dạy học toán, đặc biệt là dạy học về “Đại lượng và đo đại
lượng”, cần có các trò chơi có tác dụng như: Giúp học sinh thay đổi loại hình
hoạt động làm cho giờ học bớt căng thẳng tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu, học
sinh tiếp thu một cách nhẹ nhàng, hứng thú trong học tập, tạo cơ hội để học sinh
được thể hiện mình, học sinh có cách ứng xử tốt nhất, thích nghi với điều kiện
đổi mới của xã hội.
Qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học Trung Tiến và cũng tìm hiểu
thêm một số trường bạn về việc thực dạy môn toán trong chương trình tiểu học
nói chung và chương trình toán lớp 5 nói riêng: Nhìn chung việc dạy học môn

toán đều thực hiện đổi mới phương pháp và hình thức dạy học đúng theo đặc
trưng của bộ môn.
Về phía học sinh, các em đều ham thích phân môn này, với phương pháp,
hình thức dạy học mà giáo viên đưa ra. Song để các em củng cố lại nội dung
kiến thức, mạch kiến thức đó đôi khi còn hạn chế, chưa phong phú và thực sự lôi
cuốn họcsinh dẫn đến vẫn còn một số học sinh chưa ham thích học môn học này.
2.2.Thực trạng dạy học môn toán mạch kiến thức “Đại lượng - đo đại
lượng” của trường Tiểu học Trung Tiến - Quan Sơn - Thanh Hóa.
2.2.1. Đội ngũ giáo viên thực dạy lớp 5 - năm học: 2017 - 2018.
Nhận xét : - Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình có tâm huyết với nghề,
hết lòng vì sự nghiệp giáo dục, có tuổi đời và tuổi nghề công tác lâu năm.
- Trình độ đào tạo chuẩn và trên chuẩn, giáo viên đều là những người có năng
lực thực sự, nhiều năm liền đạt kết quả cao trong các kì thi giáo viên giỏi cấp
huyện và cấp tỉnh, có nhiều học sinh đạt kết quả cao trong các kì giao lưu học
sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh.
2.2.2. Điều tra thực trạng dạy:
* Điều tra việc chuẩn bị của giáo viên:
Để nắm được từ tổng thể đến chi tiết thực trạng dạy học lớp 5 của trường,
tôi đã tiến hành điều tra trên nhiều phương diện.
3


* Điều tra công việc chuẩn bị bài dạy của giáo viên.
Việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp là điều kiện tất yếu của người giáo
viên là khâu quan trọng đầu tiên góp phần cho sự thành công của mỗi tiết dạy.
Được sự đồng ý của ban giám hiệu trường Tiểu học Trung Tiến tôi đã việc
chuẩn bị dạy học cho môn toán.
Qua điều tra nghiên cứu tôi nhận thấy :
- Trước khi lên lớp giáo viên có sự chuẩn bị giáo án đầy đủ theo từng đơn
vị kiến thức của bài và đúng theo phân phối chương trình.

- Việc chuẩn bị đồ dùng trực quan (tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho tiết
dạy ít, điều này gây khó khăn không nhỏ đến việc tiếp thu bài của học sinh).
* Thực trạng dạy học đo đại lượng:
Qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy ở trường bản thân tôi nhận thấy các
hình thức dạy học nói chung và mạch kiến thức “Đại lượng - đo đại lượng” nói
riêng về việc sử dụng trò chơi toán học còn nghèo nàn, chưa chú trọng, có
những đồng chí giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa, tác dụng trò chơi trong giờ học
toán. Như chúng ta biết lớp 5 là lớp cuối cấp tiểu học thuộc vào giai đoạn tập
trung nhiều thời gian, chủ yếu củng cố hoàn thiện đủ các kiến thức trong đó có
mạch kiến thức về “ Đại lượng và đo đại lượng”. Học xong lớp 5 nếu các em
có hoàn cảnh khó khăn không thể theo học được thì các em cũng biết tình toán,
biết tính thời gian, khối lượng độ dài, diện tích, thể tích, dung tích một cách
hoàn thiện. Nhưng trong thực tế thực trạng dạy học mạch kiến thức này học sinh
hiểu nhưng chưa sâu, hay nhầm lẫn với mối quan hệ giữa các đại lượng lại khác
nhau. Chính vì vậy cần phải cho học sinh tiếp nhận mạch kiến thức này một
cách nhẹ nhàng nhất và đạt hiệu quả cao nhất thông qua trò chơi toán học.
Qua thời gian dài đứng lớp tại trường Tiểu học Trung Tiến và tìm hiểu ở
lớp 5 trong một số giờ toán tôi có đưa một số trò chơi vào dạy học thì thấy học
sinh có hứng thú học.
Khảo sát chất lượng trong một số giờ học toán có trò chơi và giờ học toán
không có trò chơi ở tại lớp tôi thực dạy và một số lớp học dưới tôi nhận thấy các
lớp được học giờ toán có thiết kế trò chơi các em thực sự hứng thú và hăng say
tìm hiểu và khám phá kiến thức hơn. Qua khảo sát kết quả như sau:
Giờ học không thiết kế trò
chơi

Lớp Sĩ số

5p


15

Giờ học thiết kế trò chơi

Số học sinh Số học sinh Số học sinh Số học sinh
thích
học không
thích thích
học không
thích
môn toán
học môn toán
môn toán
học môn toán
SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

5


33,3%

10

66,7%

15

100% 0

TL
0%
4


Nhìn chung hầu hết các học sinh được học giờ học toán có thiết kế trò
chơi đạt kết quả cao hơn so với số học sinh học tiết toán không được thiết kế trò
chơi: (trong thời gian không có sử dụng trò chơi) cụ thể như sau:
Lớp

5B


số

16

Hoàn thành
tốt


Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

SL

SL

TL

SL

TL

10

62,5%

6

37,5%

0

TL

Ghi chú

Từ nhu cầu thực tế đặt ra tôi nhận thấy việc thiết kế trò chơi góp phần đổi

mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung và
môn Toán lớp 5 nói riêng và đặc biệt là mạch kiến thức “ Đại lượng và đo đại
lượng” là rất cần thiết.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
* Thứ nhất: Dựa vào mục đích trò chơi.
Củng cố những kiến thức cơ bản về mạch kiến thức“ Đại lượng và đo đại
lượng” đọc và viết các đơn vị đại lượng dưới các đơn vị nhỏ hơn và lớn hơn,
đặc biệt là viết đúng dưới dạng số thập phân, cách tính thể tích, diện tích các
hình, làm 4 phép tính với số đo thời gian, cách tính quãng đường, thời gian, vận
tốc… Rèn luyện kỹ năng đọc, viết, đo, tính toán một cách thành thạo.
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, tinh mắt, khéo tay khi chơi để dành
phần thắng.
- Yêu thích môn toán đặc biệt là mạch kiến thức “ Đại lượng và đo đại
lượng” biết áp dụng vào thực tế cuộc sống.
* Thứ hai : Yêu cầu của trò chơi.
- Trò chơi phải thiết thực với nội dung tiết học vừa sức với các đối tượng
học sinh.
- Trò chơi không quá dễ cũng không quá khó, qúa cầu kỳ, giúp học sinh
ôn tập và ứng dụng các kiến thức môn toán đã học, người chơi nắm vững kiến
thức cơ bản về mạch kiến thức “Đại lượng và đo đại lượng” vận dụng linh hoạt
các kiến thức ngày một sáng tạo hơn, hiệu quả hơn.
* Thứ ba: Dựa vào nguyên tắc thiết kế.
* Nguyên tắc vừa sức dễ thực hiện.
Mỗi trò chơi phải củng cố được một nội dung toán học cụ thể trong
chương trình. mạch kiến thức “ Đại lượng và đo đại lượng” ở lớp 5 chia thành
các nội dung:
- Viết các số đo độ dài dưới dạng số thập phân.
5



- Viết số đo khối lượng dưới dạng số thập phân.
- Bảng đơn vị đo diện tích, viết các số do diện tích dưới dạng số thập
phân.
- Tính diện tích một số hình tam giác, hình thang, hình tròn.
- Thể tích, bảng đơn vị đo thể tích, viết các số đo thể tích dưới dạng số
thập phân
- Bốn phép tính với các số đo thời gian.
- Các bài toán về chuyển động đều.
Vì vậy các trò chơi được xây dựng từ các bài tập có chọn lọc trong các tiết
học có trong nội dung của mạch kiến thức, nội dung trò chơi gây được sự hứng
thú, củng cố mạch kiến thức.
Các trò chơi phải phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng tính toán, phát huy
trí óc phân tích, tư duy, sáng tạo của học sinh.
Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian, thích hợp với môi trường học
tập.
* Nguyên tắc khai thác và thực hành.
Sử dụng triệt để yêu cầu nội dung kiến thức cơ bản cũng như đồ dung dạy
học của giáo viên, học sinh.
Các đồ dùng giáo viên tự làm được khai thác từ những vật liệu gần gũi có
ở xung quanh ta, như: gậy, thùng, tre, gỗ, chai lọ, vỏ hộp bánh kẹo sao cho đồ
dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thẩm mỹ nhưng ít tốn kém
có thể tận dụng được.
Từ các nguyên tắc trên tôi căn cứ vào thời gian công tác, thực tế dạy
học,mục đích, yêu cầu ở mỗi tiết học cũng như đối tượng học sinh, môi trường
học tập của các em để thiết kế trò chơi.
* Một số trò chơi giúp học sinh học tốt môn toán lớp 5.
Trò chơi thứ 1: Tiếp sức.
a. Mục tiêu: Học sinh củng cố về đơn vị đo, mối quan hệ giữa các đơn vị,
viết các đơn vị đo đại lượng dưới dạng thập phân với đơn vị lớn hơn hoặc nhỏ
hơn rèn luyện cho học sinh tư duy tốt, tác phong nhanh nhẹn, sự phối hợp nhịp

nhàng giữa các bạn trong nhóm, rèn luyện tình cảm thân thiện sạch sẽ trong mỗi
học sinh.
b. Đối tượng: Học sinh lớp 5, mỗi nhóm 4 - 5 học sinh chơi, thời gian
chơi 5 - 6 phút cuối tiết học.
c. Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 2 tờ giấy vẽ hình tượng trưng một ngôi
sao 5 cánh. Trên các cánh sao được ghi tên đơn vị đó, giữa ngôi sao và cánh sao
được nối với nhau bởi dấu bằng.
6


d. Luật chơi: Chọn 2 nhóm chơi, mỗi nhóm 5 em, các bạn còn lại trong
lớp làm ban giám khảo 2 nhóm được xếp hàng trước lớp theo vị trí của mình.
Các em đặt tên nhóm, giáo viên ghi tên nhóm, các em điểm số từ 1 - 5. Khi
nghe hiệu lệnh của giáo viên hô bắt đầu em thứ nhất điền kết quả vào một trong
năm cánh sao, làm xong chạy nhanh về đứng ở cuối hàng, bạn có số thứ tự 2
phải thật nhanh lên điền kết quả vào 1 trong 4 cánh sao còn lại cứ lần lượt như
thế cho đến hết thời gian chơi.
Khi giáo viên hô thời gian đó hết nếu các bạn chưa làm xong thì phải
dừng lại, nếu bạn nào còn tiếp tục điền thì kết quả đó không được tính điểm.
Ban giám khảo đánh giá nhận xét điểm của từng nhóm theo qui định.
Điểm nhanh:

Điểm đúng:

Điểm đẹp:

Tổng điểm:

Nhóm nào có số điểm nhiều hơn thì thắng cuộc.
(trò chơi này có thể sử dụng ở 1số tiết: viết số đo độ dài, đo khối lượng dưới

dạng số thập phân trang 67 đến trang 70, các tiết luyện tập... ).
Trò chơi 2: Về đúng nhà mình.
a. Mục tiêu: Học sinh củng cố cách viết số đo độ dài dưới dạng số thập
phân từ đơn vị lớn sang đơn vị bé và ngược lại. Rèn luyện tính nhanh nhẹn, sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các bạn trong nhóm.
b. Đối tượng: Học sinh lớp 5 - mỗi nhóm 5 em. Thời gian chơi 5 - 7
phút.
c. Chuẩn bị:
+ Các mảnh bìa catton được ghi các đại lượng cho sẵn ( bảng 1)
+ Các mảnh bìa ghi các đại lượng tương ứng cân đối ( bảng 2)
+ Hai bảng cài, kích thước các mảnh bìa 12cm x 6 cm.
ví dụ: Tiết luyện tập của bài ( viết các số đo độ dài dưới dạng số thập phân).
Bài tập 4: Viết số thích hợp vào chỗ chấm.
Giáo viên chuẩn bị sẵn các mảnh bìa ghi số cài sẵn ở bảng cài.
( bảng 1)
nhóm 1

nhóm 2

7,690 m

=.....................cm

5,2km

=.....................m

6,042m

=.....................mm


0,850km

=.....................cm

8,15dm

=.....................mm

6,8m

=.....................cm

16,35m

=.....................dm

0,8m

=.....................mm

Và các mảnh bìa có ghi các số tương ứng.
7


(bảng 2)
nhóm 1

nhóm 2


796,0

5200

6042

85000

815

680

163,5

800
Giải:

nhóm 1

nhóm 2

7,690 m

= 769 cm

5,2km

=

5200m


6,042m

=

6042 mm

0,850km

=

85000cm

8,15dm

=

815mm

6,8m

=

680cm

16,35m

=

163,5dm


0,8m

=

800mm

d. Luật chơi: Chọn hai đội chơi (chọn các nhóm có đối tượng tương ứng)
mỗi đội 4 em đứng thành từng nhóm đếm từ 1đến 4.
Học sinh còn lại là cổ động viên cho các bạn tham gia chơi.
Mỗi nhóm được cô giáo treo bảng cài với các thẻ đó ghi số và đơn vị đo.
( bảng 1) sau đó phát cho mỗi em trong một nhóm thẻ tương ứng với các đề bài
cô giáo treo trên bảng.
Các nhóm quan sát yêu cầu của nhóm mình và quan sát tấm bìa của mình
có trong tay để định hình. khi giáo viên hô trò chơi bắt đầu thì 2 bạn số 1 của hai
nhóm lên cài nhanh tấm bìa của mình sao cho thẻ cài bằng số tương ứng của
mình cài. Yêu cầu các em làm nhanh, phát hiện đúng số mình cần cài. thời gian
kết thúc nhóm nào xong trước đúng hết thì thắng cuộc. Nếu xong trước nhưng
sai 1 bìa thì vẫn bị thua. Kết thúc trò chơi giáo viên tuyên dương các em hoàn
thành nhanh, đúng, tuyên dương nhóm bằng những tràng vỗ tay của các bạn,
hoặc thưởng cho các bạn vở, bút chì, thước kẻ.
Trò chơi thứ 3: Hỏi hoa học tập.
a. Mục tiêu: Học sinh nhớ các công thức tính diện tích, chu vi, hình tam
giác, diện tích hình tròn từ đó vận dụng linh hoạt kết hợp với kỹ năng tính nhẩm
để tính chu vi, diện tích với số đo của các cạnh cho trước.
Phát triển kỹ năng diễn đạt rừ ràng mạch lạc, phát triển tư duy trừu tượng cho
các em.
8



b. Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị cành cây được cắm trong chậu, treo sẵn
trên cây các bông hoa được cắm bằng giấy, trong đó có ghi các nội dung câu hỏi
( tuỳ theo bài học).
ví dụ: Khi dạy bài “ Luyện tập chung” trong sgk Toán 5 trang 139” phần kết
thúc chương giáo viên có thể chọn một trong các nội dung sau:
1. Nêu quy tắc và công thức tính diện tích hình tam giác.
2. Tính diện tích hình tam giác có cạnh đáy là 4cm và chiều cao là 3cm.
3. Nêu quy tắc tính diện tích hình thang, ngoài quy tắc này em còn biết quy
tắc truyền miệng nào dễ nhớ không?
4. Một hình tròn có bán kính bằng 5cm. hãy tính chu vi, diện tích hình tròn.
5. Một hình chữ nhật có chu vi 40 cm, vậy khi chiều rộng, chiều dài bằng
bao nhiêu thì hình đó có diện tích lớn nhất, nhỏ nhất (số đo của các cạnh
là số tự nhiên khác 0)
Giải:
1. Quy tắc và công thức tính diện tích hình tam giác : Diện tích tam giác bằng
độ dài cạnh đáy nhân với chiều cao, rồi chia tất cả cho 2
S = (a x h ) : 2
2. Diện tích hình tam giác là :
(4 x 3 ) : 2 = 6 (cm2)
3. Quy tắc tính diện tích hình thang là : Diện tích hình thang bằng tổng độ dài
hai đá nhân với chiều cao rồi chia cho 2 (cùng đơn vị đo)
*Ngoài quy tắc trên, còn quy tắc truyền miệng là :
Muốn tìm diện tích hình thang
Đáy lớn đáy bé ta mang cộng vào
Cộng vào nhân với chiều cao
Chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra.
4. Chu vi hình tròn là :
5 x 2 x 3,14 = 31,4 (cm)
Diện tích hình tròn là :
5 x 5 x 3,14 = 78,5 (cm2)

5. Nửa chu vi hình chữ nhật là :
40 : 2 = 20 (cm)
Diện tích lớn nhất khi hiệu giữa chiều dài và chiều rộng nhỏ nhất
9


Vậy chiều dài là 11 cm, chiều rộng là 9cm thì diện tích hình chữ nhật lớn
nhất
Diện tích nhỏ nhất khi hiệu giữa chiều dài và chiều rộng lớn nhất
Vậy chiều dài là 19 cm, chiều rộng là 1 cm thì diện tích hình chữ nhật nhỏ
nhất
c. Luật chơi: Chơi thi đua giữa các cá nhân học sinh xung phong (được cô
giáo chỉ định) lên hái hoa và khi hái hoa cần đọc to rõ ràng nội dung câu hỏi cho
cả lớp nghe, sau đó bạn hái hoa trả lời chính xác diễn đạt trôi chảy thì được
thưởng một tràng pháo tay và kèm theo một điểm tốt.
Nếu bạn nào trả lời chưa to, chưa rõ ràng nhưng đúng thì cũng được hoan
hô khuyến khích bạn.
Nếu bạn nào trả lời chưa đầy đủ, cô giáo có thể gợi ý, hoặc bạn khác xung
phong bổ sung, còn bạn nào không trả lời được có thể phạt bằng hình thức lặc lò
cò về chỗ.
Kết thúc trò chơi giáo viên nhận xét đánh giá, có thể thưởng hay trao giải
cho nhóm thắng cuộc.
Trò chơi 4: Nhanh mắt nhanh tay.
a. Mục tiêu: Củng cố kiến thức kỹ năng tính diện tích, thể tích, thể tích xung
quanh, diện tích toàn phần của hình chữ nhật, hình lập phương
Rèn cho học sinh tính nhanh nhẹn, nhanh mắt nhanh tay.
b. Đối tượng : Học sinh lớp 5
c. Thời gian chơi: 5 - 7 phút
d. Chuẩn bị: Một ti vi bằng gỗ hoặc bằng bìa cứng, 3 băng giấy có ghi câu
hỏi đáp án để chiếu lên màn.

ví dụ: Cuối tiết “Luyện tập chung” hình hộp chữ nhật”, giáo viên chọn
nội dung được ghi trong băng giấy ( băng giấy được cắt rộng 20cm, dài phụ
thuộc vào nội dung câu hỏi, câu trả lời)
Giáo viên chuẩn bị sẵn: các lời giải vào các băng giấy khác nhau.
Bài tập: Cho hình hộp có các kích thước là :50cm; 30 cm; 10cm
Câu 1: tính chu vi, diện tích mặt đáy
Giải: Chu vi mặt đáy là: ( 50 + 30 ) x 2 = 160 ( cm )
Diện tích mặt đáy là: 50 x 30 = 1500( cm2 )
Câu 2: Diện tích xung quanh hình hộp
Giải :Diện tích xung quanh là : 160 x 10 = 1600 ( cm2 )
Câu 3: Diện tích toàn phần hình hộp
10


Diện tích toàn phần hình hộp là: 1600 +50 x 30 x 2 = 4600 ( cm2 )
Câu 4 : Tính thể tích hình hộp chữ nhật .
Giải: thể tích hình hộp là: 50 x 30 x 10 =15000 ( cm3 )
Câu 5: Hỏi hộp đó chứa bao nhiêu không khí biết rằng 1 dm3 nặng 1, 3 g
Giải: Đổi 15000 cm 3 = 15 dm3
Hộp đó chứa số không khí là: 15 x 1.3 = 19.5 (g)
câu hỏi

lời giải

câu hỏi

lời giải

câu hỏi


lời giải

d. Luật chơi: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội từ 3 đến 5 em cho các em ngồi vào
bàn đầu của lớp, mỗi đội cử ra một nhóm trưởng, một thư ký, mỗi nhóm có giấy
nháp, bút, cô giáo chuẩn bị cho mỗi đội một con xắc. các bạn còn lại cùng cô
giáo làm ban giám khảo, cô giáo là người điều khiển ti vi. Giáo viên quy định
thời gian cho từng bài, 1 phút làm xong thì được 20 điểm, sang phút thứ 2 thì
được 15 điểm, nếu hết thời gian thì không được điểm nào.
Khi cô giáo cho xuất hiện trên màn hình nội dung câu hỏi, các nhóm quan
sát đọc nội dung câu hỏi, giáo viên ra hiệu làm bài. các nhóm bắt đầu làm, nhóm
nào xong trước thì rung lớn hiệu trả lời, đúng thì được điểm, nếu trả lời sai thì
đội khác có quyền trả lời sau đó cô giáo cho đáp án, trò chơi cứ tiếp tục như thế
cho đến lúc hết dữ kiện và thời gian quy định.
Trò chơi thứ 5: Nhanh trí
a. Mục tiêu: Học sinh củng cố mối quan hệ giữa các đơn vị đo trong từng
bảng đo. rèn luyện khả năng quan sát diễn đạt mạch lạc.
b. Chuẩn bị: Các băng giấy có ghi đơn vị đo.
Học sinh chuẩn bị các thẻ màu đỏ, màu xanh.
c. Đối tượng: Học sinh lớp 5

Thời gian 5 - 7 phút

d. Luật chơi: Giáo viên chọn 3 đội chơi, chọn bạn thư ký, giám khảo, các
bạn còn lại làm cổ động viên chơi thi đua giữa các đội.
Giáo viên lần lượt cho xuất hiện các băng số.
ví dụ:
Sau tiết “ luyện tập chung” trang 78 sách giáo khoa Toán lớp 5. Giáo viên
ghi bảng:
5,253 km = 5253m
11



5,253 km2 = 5253m2
8,20m2

= 820cm2

8,20m2 = 820000cm2
Mỗi lần xuất hiện một băng giấy các đội quan sát nội dung khi có tín hiệu
các em giơ thẻ lên, nếu đúng giơ thẻ đỏ, nếu sai giơ thẻ xanh.
Giáo viên có thể gọi một em bất kỳ trong nhóm trả lời đúng giải thích tại
sao nó đúng, tại sao nó sai. (nhắc lại mối quan hệ giữa các đơn vị đo trong bảng
đo) Giáo viên cùng đưa ra đáp án bằng cách dùng thẻ... sau mỗi lần đúng thì thư
ký tổng hợp điểm, mỗi lần đúng thì được 10 điểm nếu sai trừ 2 điểm. Đội nào
đạt điểm cao thì thắng, đội nào thắng thì sẽ được nhận quà: phấn, bút chì, nhãn
vở...
Trò chơi thứ 6: Vượt chướng ngại vật.
a. Mục tiêu: Rèn luyện kỹ năng thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân,
chia số đo thời gian, cũng cố mối quan hệ giữa các đơn vị đo thời gian.
b. Đối tượng: Học sinh lớp 5

Thời gian: 5 - 7 phút

c. Chuẩn bị: Chuẩn bị bảng phụ hoặc tờ giấy rô ki có vẽ hay cắt dán
tượng trưng đề gắn hoa, một số bông hoa như hình vẽ.
Đội hoa mai

Đội hoạ mi

(có thể sử dụng sau tiết dạy bài luyện tập trang 168).

Đội hoa mai:

Đề 1: 2 giờ 13 phút x 6
Đề 2: ( 20 phút 40 giây - 16 phút 50 giây ) : 5

Đội hoạ mi:

Đề 1: 3 giờ 27 phút x 6
Đề 2: ( 4 giờ 36 phút + 5 giờ 20 phút ) : 4
Đề 3 : Chung cho cả 2 đội:

Bác Lan đóng 3 cái ghế mất 4 giờ 6 phút. Bác Hai đóng 3 ghế cùng loại
mất 3 giờ 54 phút. Hỏi trung bình bác Lan đóng một cái ghế cùng loại lâu hơn
bác Hai bao nhiêu phút?
Giải:
Đội hoa mai: Đề 1: 2 giờ 13 phút x 6 = 12 giờ 78 phút hay 13 giờ 18 phút.
Đề 2: ( 20 phút 40 giây - 16 phút 50 giây ) : 5 = 46 giây.
Đội họa mi:

Đề 1: 3 giờ 27 phút x 6 = 18 giờ 162 phút hay 20 giờ 42 phút.
Đề 2: ( 4 giờ 36 phút + 5 giờ 20 phút ) : 4 = 2 giờ 29 phút.
Đề 3: Chung cho cả 2 đội:

12


Giải
Trung bình bác Lan đóng một cái ghế hết số thời gian là.
4 giờ 6 phút : 3 = 1 giờ 33 phút.
Trung bình bác Hai đóng một cái ghế hết số thời gian là.

3 giờ 54 phút : 3 = 1 giờ 18 phút.
Trung bình bác Lan đóng một cái ghế lâu hơn bác Hai là.
1 giờ 33 phút - 1 giờ 18 phút = 15 phút.
Đáp số: 15 phút.
Học sinh chuẩn bị 3 tờ giấy ô li, bút, keo gián.
d. Luật chơi: Giáo viên chọn hai đội chơi mỗi đội 3 em, các bạn đặt tên
cho đội của mình khi giáo viên có hiệu lệnh bắt đầu chơi, mỗi đội chơi lần lượt
rút đề đọc hội ý, giải, ghi kết qủa nhanh vào giấy các đội bắt đầu giải từ đề 1.
Giải xong đề 1 thì diền kết quả lên đỉnh núi số 1 sau đó tiếp tục giải đề thứ 2, đội
nào xong trước thì có quyền giải đề số 3, nếu cả hai đội xong cùng một lúc thì
giáo viên có thể cho cả hai đội giải cùng lúc bằng cách đọc đề hoặc treo đề cho
cả hai đội quan sát để giải, đội nào giải đúng cả 3 đề thì là đội chinh phục đỉnh
cao. đội nào thắng cuộc được thưởng nhiều hơn đội thua.
Phần thưởng: vở, bút chì, phấn…
Trò chơi thứ 7: Hãy sửa sai.
a. Mục Tiêu: Củng cố kiến thức về đổi đơn vị đo thời gian, đơn vị đo diện
tích, rèn luyện học sinh kĩ năng nhanh mắt, nhanh tay.
b. Đối tượng: Học sinh lớp 5.

Thời gian: 5 - 7 phút

c. Chuẩn bị: bảng phụ hoặc giấy roky đó viết được kẻ sẵn nội dung sau:
2 giờ 10 phút = 2.10 giờ
2 giờ 42 phút = 162 phút
360 mm

= 3.6 m

1m 4mm


= 1004mm

3600m2

= 3.6 km2

1m2

= 0.0001ha

Đổi lại cho đúng phần sai.
Giải
2 giờ 10 phút = 2.10 giờ

(S)

Chữa lại : 2 giờ 10 phút = 2giờ
2 giờ 42 phút = 162 phút

(Đ)
13


360 mm

= 3.6 m

(S)

Chữa lại : 360 mm = 0,36 m

1m 4mm

= 1004mm

(Đ)

3600m2

= 3.6 km2

(S)

Chữa lại : 3600 m2 = 0.0036 km2
1m2

= 0.0001ha

(Đ)

d. Luật chơi: Chơi theo kiểu tiếp sức, mỗi đội 3 em, mỗi em phải giải
quyết 2 ý trong 6 ý đó cho rồi chạy về chỗ cho các bạn khác lên chơi.
Khi giáo viên hô hết thời gian các bạn chưa làm xong cũng phải dừng lại, nếu
tiếp tục thì không được tính điểm (cách đánh giá tương tự trò chơi 2).
2.4. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, với đồng
nghiệp và nhà trường:
Với các phương pháp để rèn cho học sinh như đã nói ở trên, áp dụng thử
nghiệm vào giảng dạy dạng bài so sánh phân số cho học sinh đại trà cũng như
học sinh có khả năng tiếp thu tốt tôi nhận thấy học sinh lớp tôi hứng thú học tập,
ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá
trình học các em đã giải dạng toán này có luận cứ, có hướng đi rõ ràng, khắc

phục được những vướng mắc thường hay mắc phải.
A. Đối với giáo viên:
- Giáo viên đã tạo ra không khí học tập sôi nổi trong học sinh, kích thích
sự tìm tòi và say mê học toán của học sinh.
- Chủ động về mặt thời gian và kiến thức. Tùy theo trình độ của học sinh mỗi
lớp mà giáo viên lựa chọn cách thích hợp để học sinh nắm vững kiến thức và
giải quyết các bài tập liên quan đến so sánh phân số.
- Đánh giá được mức độ hiểu bài của học sinh. Đảm bảo được sự chu đáo
về đồ dùng dạy học.
B. Đối với học sinh:
- Năng lực, trí tuệ của học sinh được nâng lên. Học sinh rất có hứng thú
học tập
- Học sinh chủ động tìm ra kiến thức nên nắm chắc kiến thức, biết phân
tích đặc điểm của dạng toán, lựa chọn phương pháp giải thích hợp để so sánh
được nhanh nhất.
- Củng cố lại được kiến thức đã học.
- Rèn luyện kĩ năng làm bài tập. Lựa chọn, khám phá ra hướng đi đúng,
lời giải đúng và nhanh nhất trong giải toán. Tìm ra được mối liên hệ giữa các bài
14


toán. Hệ thống hoá được kiến thức cần nhớ, tự đề ra các bài toán tương tự, bài
toán tổng quát hay hơn.
Sau gần một năm nghiên cứu áp dụng vào thực tế giảng dạy chất lượng
học sinh học môn toán được nâng lên rõ rệt.
Kết quả khảo sát như sau:
Lớp

5p


Sĩ số

Giờ học có thiết kế trò chơi
Số học sinh thích học
toán

15

Số học sinh không thích học
toán

SL

TL

SL

TL

15

100%

0

0

Và đạt được kết quả cụ thể là:
Lớp


5p


số
15

Học sinh
hoàn thành
tốt

Học sinh hoàn
thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

9

60%

6


40%

0

0%

Học sinh chưa
hoàn thành

Ghi chú

15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học theo chỉ thị của ngành tôi đã cùng các
bạn đồng nghiệp tham mưu với ban giám hiệu, tổ chuyên môn tạo điều kiện cho
công việc giáo dục và giảng dạy. Tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của phụ huynh, các
ban ngành trên địa bàn xã. Hơn nữa bản thân tôi cần cố gắng hết sức mình, nhiệt
tình với công việc, nghiên cứu tham khảo thêm cách tổ chức dạy học sao cho
phự hợp.
Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lòng
nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người thầy với nghề nghiệp là mang lại kết
quả cao trong giảng dạy, là chiếc chìa khoá vàng tri thức để mở ra cho các em
cánh cửa khoa học về một ngày mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của
người giáo viên. Đó cũng là duyên nợ của người thầy. Duyên nợ với người, với
nghề và nợ với mênh mông biển học.
Người giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo

khoa để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như
thế nào?
Dạy toán cũng như hướng dẫn giải toán cho học sinh không thể nóng vội
mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình
thành cho các em một phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy
sáng tạo, tư duy lô gic. Rèn luyện cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong
môn học Toán cũng như giải toán. Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù
hợp, linh hoạt phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu đề tài bản thân tôi nhận thấy đưa hình
thức trò chơi vào dạy học toán ở tiểu học nói chung và dạy Toán lớp 5, mạch
kiến thức
Về “ Đại lượng và đo đại lượng” nói riêng là rất cần thiết, bởi vì sử dụng
trò chơi không chỉ giúp học sinh nắm được và củng cố nội dung kiến thức toán
một cách nhẹ nhàng mà cũng giúp học sinh phát triển tư duy, phát triển trí tưởng
tượng, diễn đạt mạch lạc và nhất là có hứng thú trong học tập, tạo niềm vui, lòng
say mê học tập từ đó rèn luyện đức tính chăm chỉ, tự tin, năng động, sáng tạo,
góp phần rèn luyện phẩm chất, phong cách làm việc của người lao động mới.
3.2. Kiến nghị.
Đổi mới hình thức dạy học là một trong những giải pháp quan trọng để
đổi mới phương pháp dạy học.
Trò chơi học tập là một hình thức dạy học hữu ích đối với học sinh tiểu
học. Vì vậy người giáo viên Tiểu học tự bồi dưỡng để nâng cao hiệu quả giảng
dạy, giáo viên phải biết khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất, vận dụng linh
hoạt những vật liệu vốn có của địa phương những vật liệu đơn giản để tạo ra đồ
16


dùng trực quan, đạo cụ thích hợp sử dụng trong trò chơi để tạo hứng thú học tập
cho học sinh.
Đề nghị ban soạn thảo chương trình tiểu học cần biên soạn các tài liệu

hướng dẫn cách thiết kế trò chơi trong giờ học không chỉ môn toán mà ở tất cả
các môn học và phổ biến rộng rãi để giáo viên tham khảo. Các tài liệu dạy học
môn toán phù hợp với đối tượng học sinh miền núi vùng đặc biệt có hoàn cảnh
khó khăn.
Mặc dù đó rất cố gắng nhưng thời gian nghiên cứu chưa nhiều, kinh
nghiệm và trình độ bản thân còn hạn chế nên trong phạm vi đề tài này tôi chỉ
xây dựng được một số trò chơi trong một mạch kiến thức nhằm góp phần đổi
mới phương pháp nâng cao hiệu quả dạy học. Và đây cũng là việc làm thiết thực
giúp tôi nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho bản thân để tham gia công tác giảng
dạy được tốt hơn. Rất mong được sự góp ý của ban giám hiệu nhà trường, của
bạn bè đồng nghiệp để rút kinh nghiệm lần sau nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng
giảng dạy ở khối lớp 5 của trường Tiểu học Trung Tiến - Quan Sơn - Thanh Hóa
trong năm học 2017 – 2018.
Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô trong hội đồng thẩm định,
các đồng chí nghiên cứu, bổ sung, góp ý thêm giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ
của người giáo viên: Thầy dạy tốt - Trò học chăm.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Trung Tiến, Ngày 15 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không copy của người khác.
Người viết

Dương Văn Hạnh

17




×