Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

skkn một số trò chơi giúp học sinh khiếm thính lớp dự bị phát triển ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.09 KB, 14 trang )

1

MỘT SỐ TRÒ CHƠI GIÚP HỌC SINH KHIẾM THÍNH
LỚP DỰ BỊ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, giao tiếp là một nhu cầu rất quan trọng và không thể
thiếu đối với đời sống của con người. Thông qua giao tiếp giúp cho con người hiểu
biết lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm, thu nhận thông tin từ thế giới bên ngoài qua đó
mở rộng tầm hiểu biết và nâng cao đời sống tình cảm cho bản thân, … Nhưng để
có thể giao tiếp được chúng ta cần có một phương tiện và đó chính là ngôn ngữ.
Tất cả những trẻ em bình thường khi đến trường các em đều có vốn ngôn ngữ
nhất định (ngôn ngữ tiền học đường). Nhưng đối với trẻ khiếm thính thì hầu như
không có. Ngôn ngữ của các em là những cử chỉ, hành động tự nhiên nhằm truyền
tải những nhu cầu, mong muốn của mình với mọi người xung quanh. Tuy nhiên,
những cử chỉ đó cũng chỉ giúp mọi người hiểu được những nhu cầu đơn giản. Vì
thế trẻ khiếm thính rất cần được đến trường để lĩnh hội ngôn ngữ và những kỹ năng
để có thể giao tiếp trong cộng đồng xã hội và dạy học cho trẻ khiếm thính là dần
trao cho các em công cụ giao tiếp quan trọng này. Trẻ bị khiếm khuyết trong các
chức năng tâm lý vì sự rối loạn chức năng thính giác làm cho trẻ trở nên nhút nhát,
thiếu tự tin, thiếu những cảm xúc tinh tế, … đó là những vấn đề đặt ra cho chúng ta
trong kế hoạch giáo dục cần phải đề cập đến. Là giáo viên dạy học sinh khiếm
thính lớp dự bị nhiều năm tôi luôn trăn trở về khả năng ngôn ngữ của các em. Làm
thế nào để có thể phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tự nhiên và hiệu quả? Trong
năm học 2011- 2012, tôi mạnh dạn áp dụng “Một số trò chơi giúp học sinh khiếm
thính lớp dự bị phát triển ngôn ngữ” và đó cũng chính là lý do của đề tài tôi chọn
để thực hiện.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Trẻ khiếm thính
Trẻ khiếm thính được các nhà nghiên cứu nhìn nhận ở rất nhiều góc độ khác
nhau.


- Dưới góc độ y học: Trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm một phần hay
mất hoàn toàn chức năng nghe.
- Dưới góc độ tâm lý học: Trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm sức nghe
ở nhiều góc độ khác nhau dẫn đến khó khăn trong giao tiếp và ảnh hưởng nhiều
đến quá trình nhận thức. Người ta chia ra các mức độ khiếm thính như sau.
Mức độ 1: Điếc nhẹ (20-40 dB). Trẻ nghe được hầu hết âm thanh nhưng
không nghe được tiếng nói thầm.
Mức độ 2: Điếc vừa (40-70 dB). Có thể nghe được những âm thanh to nhưng
không nghe hết được tiếng nói chuyện bình thường.
Mức độ 3: Điếc nặng (70-90 dB). Chỉ nghe được tiếng nói rất to ở sát tai.
Mức độ 4: Điếc sâu > 90 dB. Hầu như không nghe được trừ một số âm thanh
thật to như: Tiếng sấm, tiếng trống, …
Nhìn chung khiếm thính ảnh hưởng lên trẻ theo 4 cách cơ bản:
2

- Khiếm thính làm chậm quá trình phát triển các kỹ năng tiếp thu và diễn đạt
thông tin.
- Khiếm thính gây mất cân bằng ngôn ngữ dẫn đến những khó khăn về học
tập và tiếp thu làm giảm học lực.
- Khiếm thính làm các kỹ năng giao tiếp không phát triển thường dẫn đến sự
cô lập về mặt xã hội và khả năng tư duy kém.
- Khiếm thính ảnh hưởng quá trình nghề nghiệp, cơ hội hoà nhập vào xã hội
của trẻ sau này.
1.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ ở trẻ khiếm thính.
Ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kỹ năng giao
tiếp, nó được coi như là một phương tiện chủ yếu trong giao tiếp. Vì vậy mức độ
phát triển ngôn ngữ ảnh hưởng rất lớn đối với khả năng giao tiếp của trẻ khiếm
thính.
Trẻ nghe bình thường ngay từ khi sinh ra trẻ đã phải học để hiểu được những
âm thanh mà chúng nghe thấy, trẻ có thể nhận ra giọng nói của mẹ và những người

thân trong gia đình của trẻ và rất nhiều những âm thanh khác của cuộc sống bên
ngoài.
Đối với trẻ khiếm thính bị mất đi sức nghe ngay từ khi mới sinh ra, trẻ sẽ
không hiểu được lời nói vì trẻ không nghe được, từ đó mất đi tiến trình học ngôn
ngữ đầu tiên này, mất đi thời kì thuận lợi nhất của việc học ngôn ngữ . Do vậy,
việc phát triển ngôn ngữ và bổ sung vốn ngôn ngữ cho trẻ là vô cùng quan trọng và
cấp thiết để sớm bù đắp vốn ngôn ngữ thiếu hụt cho học sinh khiếm thính.
1.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nói của trẻ khiếm thính.
Ở trẻ bình thường, ngôn ngữ nói được phát triển trong quá trình giao tiếp.
Nhờ thính giác, trẻ tiếp nhận tiếng nói của những người xung quanh. Đến 4-5 tuổi,
trẻ nghe rõ và phát ra đúng phần lớn các âm, nắm được quy tắc cơ bản, có số lượng
từ đáng kể.
Ngôn ngữ nói của trẻ điếc có một số đặc điểm như sau:
- Trẻ điếc không nghe được tiếng nói của người xung quanh, không biết cách
sử dụng cách ngắt quãng luồng khí, cách thở khi phát âm. Vì thế dạy phát âm là
một kỹ năng rất quan trọng để hình thành ngôn ngữ cho trẻ điếc.
- Sức nghe còn lại đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành ngôn ngữ nói ở
trẻ điếc, đặc biệt với những em sức nghe còn lại trong dải tần từ 512-1024 Hz và
1024-2048 Hz, các em có thể phân biệt được các nguyên âm, do vậy việc rèn kỹ
năng nghe là nhiệm vụ cần được ưu tiên hàng đầu đối với trẻ khiếm thính.
- Sự hình thành tiếng nói của trẻ điếc chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện
giáo dục có tổ chức đặc biệt, dưới sự hướng dẫn của giáo viên bao gồm:
o Rèn luyện cách thở trong khi nói
o Luyện giọng
o Dạy phát âm
o Đọc hình miệng
o Luyện từ ngữ
3

o Hình thành cấu trúc ngữ pháp

o Làm giàu vốn từ
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ viết của trẻ khiếm thính.
Theo quan điểm tâm lý học, ngôn ngữ viết là một dạng ngôn ngữ phức tạp và
khó hơn ngôn ngữ nói. Chữ cái là phương tiện thực hiện ngôn ngữ viết. Việc tiếp
thu ngôn ngữ viết dựa vào việc nắm cấu trúc ngữ pháp và biết phân tích tổng hợp
âm thanh. Ngôn ngữ viết có thể hình thành và phát triển trên cơ sở ngôn ngữ nói và
ngược lại, ngôn ngữ viết góp phần hoàn thiện ngôn ngữ nói.
Đối với trẻ khiếm thính, ngôn ngữ viết ở một vài mặt có ưu thế hơn ngôn ngữ
nói. Để tiếp nhận nó, trẻ không cần đến thính giác mà dùng cơ quan thị giác và cơ
quan vận động. Trong việc tiếp thu, ngôn ngữ viết ở trẻ khiếm thính diễn ra song
song với ngôn ngữ nói hoặc đi trước một chút ít.
1.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ kí hiệu của trẻ khiếm thính.
Ngôn ngữ kí hiệu là thế mạnh của trẻ khiếm thính, các em nắm bắt ngôn ngữ
này rất nhanh. Do các em bị mất sức nghe, từ khi mới sinh ra để có thể giao tiếp và
diễn đạt ý của mình các em đã phải dùng tới ngôn ngữ cơ thể, nét mặt cử chỉ, điệu
bộ, … và những điều này là tiền đề của ngôn ngữ kí hiệu.
1.3. Thực tế việc học ngôn ngữ của trẻ khiếm thính lớp dự bị.
Qua những hiểu biết về tâm lý học lứa tuổi và đặc điểm phát triển ngôn ngữ
của trẻ khiếm thính. Căn cứ vào cơ sở lý luận, kinh nghiệm nhiều năm dạy lớp dự
bị tôi nhận thấy trẻ khiếm thính do những khiếm khuyết về thính giác dẫn đến việc
tiếp thu ngôn ngữ gặp rất nhiều hạn chế và khó khăn cụ thể như: khó khăn trong
viêc bắt chước để phát âm, khó khăn trong việc tư duy và tưởng tượng, … Nhưng
với những phương pháp và hình thức dạy học đơn thuần giáo viên giảng học sinh
lắng nghe thì không thu hút được sự chú ý của trẻ, không mang lại được sự hứng
thú trong khi học, sự tự tin, mạnh dạn, tinh thần đoàn kết trong lớp cho trẻ.
Hơn nữa khả năng tập trung của các em rất kém do độ tuổi nhỏ nên cần có
những hoạt động vui nhộn, có những hoạt động nhẹ đối với chân tay “qua học mà
chơi, qua chơi mà học” như vậy việc tiếp thu ngôn ngữ mới có hiệu quả cao.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
2.1. Nội dung

Trong thực tế có rất nhiều phương pháp, hình thức để bổ sung vốn từ và phát
triển ngôn ngữ cho học sinh khiếm thính lớp Dự bị nhưng trong đề tài này, tôi chú
trọng vào một số nội dung chủ yếu sau:
o Luyện cho trẻ phát âm đúng
o Làm giàu vốn từ cho trẻ
o Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp
Để thực hiện tốt những nội dung trên tôi đã linh hoạt tổ chức, lồng ghép vào
một số trò chơi sau:
o Trò chơi phát triển thính giác ngôn ngữ
o Trò chơi luyện cơ quan phát âm
4

o Trò chơi phát triển chú ý thính giác
2.2. Biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Trong công tác luyện cho trẻ phát âm đúng lại bao gồm nhiều nội dung, có
liên quan chặt chẽ vơi nhau. Ta thấy trẻ khiếm thính nhỏ tuổi thường phát âm
không chính xác. Trẻ muốn phát âm đúng thì trước tiên trẻ phải rèn cho trẻ kỹ năng
chú ý lắng nghe, nghe đúng và chính xác lời nói của người khác thì trẻ mới có cơ
hội và điều kiện để bắt chước cách nói của những người xung quanh. Tuy nhiên
việc trẻ nghe đúng không thôi cũng chưa đủ để trẻ phát âm đúng, nếu cơ quan phát
âm của trẻ hoạt động không linh hoạt, nhanh nhạy và chính xác. Vì vậy ta cần phải
luyện tai nghe để trẻ nghe thấy được âm thanh và âm thanh ngôn ngữ, luyện cơ
quan phát âm để trẻ có thể điều khiển một cách linh hoạt, nhịp nhàng. Ngoài ra, khi
trẻ nhỏ ngắt quãng, thở hổn hển, ngừng nghỉ không đúng lúc, nói quá to hoặc quá
nhỏ. Đấy là do trẻ chưa biết điều chỉnh hơi thở ngôn ngữ và giọng nói.
Tất cả những nội dung trên phải được tiến hành thường xuyên với trẻ. Tuy
nhiên, việc thực hiện các nội dung này thường khô khan, ít hấp dẫn, làm trẻ chóng
chán. Vì vậy ta cần thực hiện chúng dưới dạng các trò chơi đơn giản, có yếu tố thi
đua, bắt chước để kích thích sự chú ý và luyện tập tốt.
2.2.1 Trò chơi phát triển thính giác ngôn ngữ.

Trò chơi 1: Bắt chước tiếng kêu của các con vật.
Mục đích:
- Giúp trẻ biết chơi luân phiên.
- Biết giả tiếng kêu của các con vật.
- Rèn cơ quan phát âm.
Đồ dùng:
- Hình các con vật.
Cách chơi 1:
- Giáo viên cho cả lớp ngồi hình vòng cung, giáo viên phát cho mỗi
em một xấp hình các con vật (gà trống, gà con, gà mái, mèo, chó, …). Giáo viên
cho học sinh nhìn. Giáo viên nói gà trống, học sinh tìm hình gà trống và đồng thời
đáp lại cô là „„ò, ó, o” cùng cô đếm 1, 2, 3 đưa hình gà trống lên và phát âm “gà
trống”.
Cách chơi 2: Giáo viên gọi trẻ lên cho nhìn một con vật, sau đó xuống nói tiếng
kêu của con vật đó các bạn khác nói tên của con vật.
Ví dụ: Giáo viên cho một trẻ lên nhìn hình con mèo, trẻ trở về chỗ và nói: “meo,
meo, meo”. Học sinh khác nói tên “con mèo”.
Lưu ý: Giáo viên thường xuyên thay đổi người quản trò để rèn cho học sinh kỹ
năng chơi và làm chủ trò chơi.
5



Hình minh họa trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật
Trò chơi 2: Chim bay - Cò bay
Mục đích:
- Làm theo hiệu lệnh.
- Trẻ tăng thêm một số vốn từ.
- Rèn kĩ năng nghe.
Cách chơi:

- Cô và trẻ đứng thành hình vòng tròn. Khi cô hô. „„Chim bay‟‟(cò
bay, máy bay bay, …) thì trẻ dang hai tay ra vẫy vẫy. Nếu cô nói „„nhà bay‟‟ (hoặc
ô tô bay, …) thì trẻ phải đứng im.
Lưu ý: Giáo viên phải nói chậm, to, rõ, chuẩn hình miệng, giáo viên có thể thay đổi
nhiều từ như: bướm bay, chuồn chuồn bay, cào cào bay, diều bay, dơi bay, …và
một số từ không trái nghĩa biểu thị không bay được như: giường, tủ, bàn, ghế, cây,
ti vi, xe máy, …Tuy nhiên những từ giáo viên đưa ra cho trẻ chơi, trẻ phải được
hiểu nghĩa những từ đó trước. Khi học sinh đã hiểu luật chơi giáo viên nên thay đổi
cho học sinh làm quản trò để phát huy tính tự tin, mạnh dạn, làm chủ cuộc chơi.

6



Hình minh họa trò chơi chim bay, cò bay

Trò chơi 3: Vỗ tay theo yêu cầu
Mục đích:
- Củng cố các biểu tượng về số lượng.
Cách chơi 1:
- Giáo viên cho trẻ ngồi hình vòng cung. Một trẻ nêu tên một số (1,
2, 3, …,10 ). Giáo viên vỗ tay theo đúng số lượng trẻ vừa nêu. Các trẻ khác chú ý
lắng nghe xem có đúng không. Giáo viên thỉnh thoảng cố tình vỗ tay không khớp
với số được nêu để kích thích sự chú ý của trẻ.
Cách chơi 2: Giáo viên đổi lại giáo viên nêu số chỉ học sinh vỗ tay.
Lưu ý: Trò chơi này được chơi khi các em đã biết số từ 1 đến 10.
Trò chơi 4: Bắt bóng
Mục đích:
- Trẻ làm theo hiệu lệnh.
- Biết nói từ „„nóng - lạnh‟‟.

- Rèn phát âm, luyện kĩ năng nghe.
Đồ dùng:
- Bóng
Cách chơi:
- Trẻ đứng hoặc ngồi thành hình vòng tròn, chuyền bóng cho nhau.
Nếu trẻ nói „„nóng‟‟ thì bạn ngồi bên cạnh không được đụng vào bóng, nếu nói
„„lạnh‟‟ thì được chạm bóng và chuyền cho người kế tiếp. Ai làm sai phải ngồi vào
giữa vòng.
Lưu ý: Trước khi chơi giáo viên cho học sinh phát âm từ „„nóng‟‟ và từ „„lạnh‟‟ và
giải thích nghĩa của hai từ trên để trẻ hiểu và dễ dàng chơi trò chơi.

7














Hình minh họa trò chơi bắt bóng
Trò chơi 5: Trò chơi làm theo hiệu lệnh.
Mục đích:
- Học sinh khắc sâu khái niệm về toán.

- Rèn kĩ năng phát âm
Cách chơi:
- Giáo viên cho học sinh đứng theo hình vòng cung. Giáo viên „„to‟‟(
hoặc nhỏ, cao, thấp, dài hoặc ngắn, ít hoặc nhiều, ) tất cả học sinh làm động tác
tương ứng. Giáo viên cho từng học sinh quản trò, học sinh nói các từ „„to‟‟(nhỏ,
cao, thấp, …) giáo viên và các bạn còn lại làm động tác.
Lưu ý: Học sinh đã được học các khái niệm trên và biết các kí hiệu.













Hình minh họa trò chơi làm theo hiệu lệnh



8

Trò chơi 6: Tìm đúng số nhà
Mục đích:
- Giáo viên giúp học sinh củng cố về số, số lượng.
- Làm theo hiệu lệnh.

Đồ dùng:
- Các số từ 1 đến 10.
- Bìa cát tông vẽ hình nhà mang các số.
Cách chơi 1:
- Giáo viên cùng học sinh chơi tham quan vườn hoa, giáo viên hô
„„trời mưa‟‟ học sinh chạy về nhà theo số mà mình có.
Cách chơi 2: Giáo viên có thể linh động đổi số thành các chữ cái, các loại hoa, các
loại quả, …
Ví dụ: Tìm nhà có hoa hồng.
Tìm nhà có chữ cái a.

2.2.2 Trò chơi luyện cơ quan phát âm.
Trò chơi 1: Mèo liếm sữa
Mục đích:
- Rèn luyện cơ lưỡi.
Cách chơi:
- Cô cho trẻ xem tranh hoặc nói. Các con đã thấy con mèo liếm sữa
bao giờ chưa? Nó ăn sữa dính đầy cả hai mép. Nó bèn lấy cái lưỡi liếm cho sạch.
Các em bắt chước mèo liếm sữa xem nào. Cô làm mẫu cho trẻ xem, cô chậm rãi
đưa lưỡi liếm vòng tròn từ môi trên xuống môi dưới và ngược lại. Cho trẻ bắt
chước theo cô.
Trò chơi 2: Thổi chong chóng
Mục đích:
- Giúp trẻ biết điều tiết lượng hơi khi thổi.
Đồ dùng:
- Chong chóng.
Cách chơi:
- Giáo viên phát cho mỗi trẻ một cái chong chóng. Cho trẻ ngồi hình
vòng cung, giáo viên thổi mẫu cho cả lớp cùng xem sau đó giáo viên cho cả lớp
thổi chong chóng thi ai thổi hơi dài hơn.

Trò chơi 3: Bé đánh răng
Mục đích:
- Rèn luyện cơ lưỡi.
Cách chơi:
- Giáo viên hỏi trẻ? Buổi sáng ngủ dậy các con có đánh răng không?
Đánh bằng gì? Bây giờ chúng ta thử đánh răng nhưng không phải bằng bàn chải
mà bằng lưỡi. Các con xem cô làm nhé. Giáo viên lấy lưỡi rà sát vào phía trong
hàm răng trên và dưới, miệng há to. Cô yêu cầu trẻ làm tập thể và cá nhân làm 1
đến 2 lần.
9

Trò chơi 4: Dừng ngựa
Mục đích:
- Rèn luyện cơ môi.
Cách chơi:
- Giáo viên nói các con có thấy người ta làm gì khi muốn ngựa dừng
lại không? Khi đó người ta chỉ cần làm thế này. Giáo viên ngậm miệng lại và rung
môi kéo dài rồi đột ngột ngắt quãng. Cô làm cho trẻ xem rồi yêu cầu trẻ làm theo.
Trò chơi 5: Bé phun mưa
Mục đích:
- Rèn luyện cơ môi.
Cách chơi:
- Giáo viên hỏi trẻ đã thấy em bé phun mưa bao giờ chưa? Cô làm
cho trẻ xem. Hai môi khép lại và phì hơi để môi rung lên. Sau đó cô yêu cầu trẻ bắt
chước theo em bé.
2.2.3 Trò chơi phát triển chú ý thính giác.
Trò chơi 1: Trò chơi phát hiện âm thanh có/ không.
Mục đích:
- Rèn sự chú ý lắng nghe, phát hiện có hoặc không có âm thanh.
Đồ dùng:

- Trống, chuông, còi, trống lắc, kèn, …
- Ngôi sao màu xanh, đỏ.
Cách chơi: - Giáo viên cho trẻ ngồi hình vòng cung, phát cho trẻ hai ngôi sao
(xanh, đỏ). Giáo viên quy định màu, màu xanh khi nghe âm thanh và màu đỏ là
không nghe âm thanh. Giáo viên gõ trống hoặc các đồ dùng khác. Học sinh nhìn
sau đó chọn ngôi sao tương ứng, giáo viên cũng chọn một ngôi sao. Sau đó giáo
viên đếm 1, 2, 3 tất cả học sinh và giáo viên cùng mở tay ra. Và ghi lại kết quả
đúng sai của từng học sinh. Sau khi học sinh đã hiểu cách chơi và biết cách chọn
màu phù hợp giáo viên cho trẻ cúi đầu lắng nghe (thuần nghe) và chọn màu.
Lưu ý: Khi chọn màu học sinh phải giữ kín, không để các bạn khác nhìn thấy kết
quả của mình. Giáo viên cùng tham gia trò chơi này với học sinh, kết quả của giáo
viên là kết quả đúng để học sinh đối chiếu với kết quả của mình. Trò chơi này giáo
viên chơi với nhiều loại âm thanh khác nhau, kể cả âm thanh ngôn ngữ (lời nói, tùy
vào kĩ năng của trẻ ở mức độ nào).










Hình minh họa trò chơi phát hiện âm thanh


10

Trò chơi 2: Phân biệt âm thanh (Âm thanh là gì?)

Sau khi các em đã có kĩ năng để phát hiện sự xuất hiện của âm thanh, giáo
viên cho trẻ chơi trò chơi này.
Mục đích:
- Giúp trẻ phân biệt hai loại âm thanh với nhau.
- Rèn kĩ năng nghe.
Đồ dùng:
- Trống, tiếng vỗ tay,
Cách chơi:
- Tổ chức chơi tương tự trò chơi 1, nhưng khác nhau về việc quy
định màu. (Màu xanh là tiếng trống; màu đỏ là tiếng vỗ tay, …).
Lưu ý: Trò chơi này có thể chơi với nhiều loại âm thanh khác nhau, kể cả âm thanh
ngôn ngữ, số lượng âm thanh trong một bài nghe có thể nhiều hơn.
Ví dụ: Cho trẻ phân biệt giữa tiếng trống với tiếng còi, tiếng chuông với tiếng vỗ
tay. Tùy thuộc khả năng nghe của các em và việc quy định màu.
Trò chơi 3: Trò chơi nhận biết âm thanh
Mục đích:
- Giúp trẻ nhận biết các âm thanh khác nhau.
- Rèn kĩ năng nghe.
Đồ dùng:
- Trống, tiếng vỗ tay.
Cách chơi:
-Thực hiện tương tự cách chơi 1, nhưng khi trẻ đưa ra kết quả đồng
thời nói tên của âm thanh đó.
Phát triển ngôn ngữ là một phần quan trọng trong hệ thống giáo dục trẻ khiếm
thính. Việc sử dụng trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ là một trong những phương
pháp hiệu quả. Qua thực tế nhiều năm dạy trẻ khiếm thính lớp Dự bị tôi thấy việc
áp dụng trò chơi cho trẻ phát triển ngôn ngữ vô cùng quan trọng. Ngoài việc bổ
sung và phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính, qua trò chơi giúp rèn luyện được
thêm nhiều kỹ năng cơ bản như: Rèn kỹ năng nghe, rèn kỹ năng phát âm, rèn kỹ
năng giao tiếp, rèn kỹ năng phối hợp luân phiên, rèn kỹ năng ghi nhớ, khắc sâu và

củng cố kiến thức bài học, … Bên cạnh đó, vui chơi còn là cơ hội giúp trẻ khiếm
thính xóa dần mặc cảm tự ti, rụt rè và tự tin mở rộng giao tiếp với mọi người xung
quanh.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Qua một năm áp dụng thực hiện trò chơi vào việc học cho học sinh khiếm
thính lớp dự bị thu được kết quả như sau:
- Nhìn chung số vốn từ của học sinh trong lớp được tăng lên.
- Kỹ năng phát âm chuẩn xác hơn.
- Kỹ năng nghe và kỹ năng giao tiếp tiến bộ rõ.
So sánh mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ khiếm thính lớp Dự bị trước và
sau khi sử dụng trò chơi.
11

Bảng 1:
Học lực môn Tiếng Việt trước và sau khi sử dụng trò chơi.
Lớp
Độ
tuổi
TSHS/nữ
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Dự
bị
Từ
5 đến
8
10/4

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu năm


2
20%
4
40%
4
40%
Cuối năm
3
30%
4
40%
3
30%



Nhìn vào bảng so sánh mức độ đầu và cuối năm môn Tiếng Việt lớp Dự bị ta
thấy sự tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ học sinh yếu không có bên cạnh đó trẻ khá giỏi tăng cao
50%.

Kỹ năng giao tiếp của các em tiến bộ đáng kể, các em mạnh dạn, tự tin hơn rất
nhiều, vốn từ của các em được tăng lên đáng kể.
Đánh giá này là đánh giá trên sự tiến bộ của học sinh khiếm thính, tùy vào
khả năng của từng em và tùy vào chương trình thực tế giáo viên áp dụng với đối
tượng trẻ.
Bảng 2:
So sánh vốn từ của trẻ khiếm thính trước và sau khi sử dụng trò chơi.
STT
Họ và tên trẻ
Trƣớc khi tác
động trò chơi
(từ)
Sau khi tác động
trò chơi
(từ)
1
Nguyễn Huỳnh Tuấn Anh
Khoảng 30 (từ)
Khoảng 230 (từ)
2
Nguyễn Linh Hằng
Khoảng 25 (từ)
Khoảng 150 (từ)
3
Trần Trung Hiếu
Khoảng 20 (từ)
Khoảng 100 (từ)
4
Phan Tuấn Kiệt
Khoảng 15 (từ)

Khoảng 100 (từ)
5
Trần Thành Nhân
Khoảng 30(từ)
Khoảng 160 (từ)
6
Nguyễn Thanh Phương
Khoảng 30 (từ)
Khoảng 130 (từ)
7
Cù Duy Tân
Khoảng 10 (từ)
Khoảng 50 (từ)
8
Đỗ Thị Phương Thanh
Khoảng 10 (từ)
Khoảng 60 (từ)
9
Nguyễn Thanh Anh Thy
Khoảng 20 (từ)
Khoảng 100 (từ)
10
Nguyễn Minh Trí
Khoảng 20 (từ)
Khoảng 120 (từ)

Sau một năm áp dụng một số trò chơi giúp học sinh khiếm thính lớp Dự bị
phát triển ngôn ngữ vốn từ của trẻ nhìn chung tăng lên đáng kể. Trẻ tăng nhiều
nhất khoảng 200 từ trẻ tăng ít nhất khoảng 40 từ, trẻ đã nói được câu với số lượng
tiếng dài hơn.

Ví dụ: Đầu năm học khi đến lớp gặp cô trẻ chỉ có thể nói “dạ”, “xe”,… Nhưng đến
cuối năm học trẻ đã nói được :
- Em chào cô em mới đến.
- Em chào cô em về.
- Em có ô tô màu đỏ, màu đen.
- Nhà em có cây mận, cây xoài.
12

- Em thích uống nước ngọt màu đỏ.
- Con mèo kêu meo, meo, meo.

Kỹ năng ghi nhớ từ của các em có sự tiến bộ rõ rệt, qua trò chơi đã phát huy
rõ tính tích cực của các em. Trò chơi đã giúp cho học sinh phát huy tinh thần đoàn
kết, sự gắn kết thân thiện gần gũi giữa cô và trò.
Bảng 3:
Kỹ năng nghe trước và sau khi sử dụng trò chơi.
STT
Họ và tên trẻ
Trƣớc khi tác
động trò chơi
Sau khi tác động trò
chơi
Số lƣợng âm
thanh, số lƣợng từ
nghe đƣợc
Số lƣợng âm thanh, số
lƣợng từ nghe đƣợc
1
Nguyễn Huỳnh Tuấn Anh
(có máy trợ thính)

Khoảng 10
Khoảng 110
2
Nguyễn Linh Hằng
(không có máy trợ thính)
Khoảng 5
Khoảng 5
3
Trần Trung Hiếu
(không có máy trợ thính)
Khoảng 5
Khoảng 5
4
Phan Tuấn Kiệt
(có máy trợ thính)
Khoảng 10
Khoảng 70
5
Trần Thành Nhân
(không có máy trợ thính)
Khoảng 5
Khoảng 5
6
NguyễnThanh Phương
(có máy trợ thính)
Khoảng 10
Khoảng 50
7
Cù Duy Tân
(không có MTT)

Khoảng 5
Khoảng 5
8
Đỗ Thị Phương Thanh
(có máy trợ thính)
Khoảng 10
Khoảng 50
9
Nguyễn Thanh Anh Thy
(có máy trợ thính)
Khoảng 10
Khoảng 55
10
Nguyễn Minh Trí
(không có máy trợ thính)
Khoảng 5
Khoảng 5

Sau khi áp dụng trò chơi vào dạy học, kỹ năng nghe của các em được nâng
lên rất nhiều, các em ngoài việc nghe được âm thanh như: tiếng trống, tiếng
chuông, tiếng kèn, tiếng gõ hai thanh gỗ, tiếng vỗ tay, còn nghe được âm thanh
ngôn ngữ như: tên học sinh, tên các loại đồ dùng, tên các loại hoa, quả, con vật,
Sức nghe của các em tăng lên, em nghe được nhiều nhất là 100 từ, em thấp nhất là
5 từ còn trẻ không có máy trợ thính thì sức nghe vẫn giữ nguyên như hồi đầu năm.
Điều quan trọng là qua trò chơi giúp các em rất hứng thú và chủ động trong việc
nghe.


13


Bảng 4:
Kỹ năng phát âm trước và sau khi sử dụng trò chơi.
STT
Họ và tên trẻ
Trƣớc khi tác động
trò chơi
Sau khi tác động
trò chơi
Số lƣợng âm thanh, số
lƣợng từ nghe đƣợc
Số lƣợng âm
thanh, số lƣợng
từ nghe đƣợc
1
Nguyễn Huỳnh Tuấn Anh
Khoảng 10
Khoảng 170
2
Nguyễn Linh Hằng
Khoảng 10
Khoảng 90
3
Trần Trung Hiếu
Khoảng 5
Khoảng 70
4
Phan Tuấn Kiệt
Khoảng 10
Khoảng 60
5

Trần Thành Nhân
Khoảng 10
Khoảng 95
6
Nguyễn Thanh Phương
Khoảng 20
Khoảng 60
7
Cù Duy Tân
Khoảng 5
Khoảng 20
8
Đỗ Thị Phương Thanh
Khoảng 5
Khoảng 15
9
Nguyễn Thanh Anh Thy
Khoảng 10
Khoảng 40
10
Nguyễn Minh Trí
Khoảng 10
Khoảng 40

Sau khi áp dụng trò chơi, kỹ năng phát âm của học sinh tiến bộ rõ, biểu hiện
là sự linh hoạt của cơ quan phát âm, sự bật luồng hơi, kỹ năng đặt cấu âm, trẻ có
kỹ năng nhìn hình miệng và kỹ năng bắt chước cách phát âm, bên cạnh đó số lượng
âm, từ học sinh phát âm được cũng tăng cao, tăng nhiều nhất khoảng 160 âm, từ
tăng ít nhất khoảng 10 từ. Tuy nhiên trong quá trình trẻ bắt chước giáo viên cần
chú ý để chỉnh sửa lỗi cho trẻ.

IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Qua một năm thực hiện việc sử dụng trò chơi vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ
khiếm thính lớp Dự bị. Tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
1. Đối với giáo viên
- Chọn chủ đề chơi phù hợp với trẻ có yếu tố kích thích, sống động, màu sắc và thu
hút trẻ.
- Lập mục tiêu dựa trên mức độ giao tiếp của trẻ. Cần nắm được tâm lý, kĩ năng,
trình độ của từng em.
- Quan sát và linh hoạt lồng ghép, đan xen các từ ngữ vào trong trò chơi. Phát triển
ngôn ngữ cho các em mọi lúc, mọi nơi, thông qua tất cả các hình thức và hoạt
động.
- Ưu tiên hàng đầu cho việc nghe, tận dụng sức nghe còn lại của trẻ (luyện kỹ năng
nghe mọi lúc mọi tình huống), thường xuyên chỉnh âm cho trẻ.
- Không áp đặt và quá gò ép việc học vào trò chơi. Nên cho trẻ chơi tự nhiên qua
đó giáo dục trẻ.
- Giáo viên là quản trò đồng thời là một người bạn của trẻ.
- Cần động viên khuyến khích trẻ kịp thời. Tạo cho trẻ tính tự tin chủ động trong
khi chơi.
- Khi chọn trò chơi cần xem xét đến việc lấy trẻ làm trung tâm.
14

2. Đối với phụ huynh
- Phụ huynh cần quan tâm đến việc tổ chức trò chơi cho trẻ tại gia đình.
- Thường xuyên tạo môi trường giao tiếp cho trẻ.
- Chú ý nhiều đến việc chỉnh sửa phát âm cho trẻ.
- Thường xuyên tạo ra tình huống để rèn luyện kĩ năng nghe cho trẻ một cách tự
nhiên.
- Mua nhiều đồ chơi và cùng chơi với trẻ, chú ý đến việc để trẻ làm chủ trò chơi.
3. Đối với các cấp quản lí
- Đầu tư thêm về cơ sở vật chất, đồ chơi, tranh ảnh, … các phòng hỗ trợ phục hồi

chức năng cho học sinh.
- Tăng cường phương tiện dạy học.
- Tổ chức các buổi trao đổi, giao lưu, học tập kinh nghiệm với các trường bạn.
4. Kết luận
Để khắc phục những hạn chế trong giao tiếp, làm phong phú thêm vốn ngôn
ngữ cho học sinh khiếm thính là một việc làm không dễ, nhưng không phải là vô
vọng, nếu chúng ta có được những phương pháp tốt, những hình thức dạy học thu
hút, những giáo viên kinh nghiệm cũng như sự quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa từ
phía quý thầy cô, quý phụ huynh, các nhà lãnh đạo toàn thể xã hội thì chắc chắn
rằng khả năng giao tiếp của trẻ khiếm thính được cải thiện đáng kể.
Trên đây là một số kinh nghiệm được rút ra sau nhiều năm dạy trẻ khiếm
thính lớp dự bị nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ của tôi. Trong khi thực hiện
không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự góp ý tận tình của toàn thể
quý thầy cô giáo, hội đồng xét duyệt. Tôi xin chân thành cảm ơn.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyển tập trò chơi phát triển ngôn ngữ Bộ giáo dục và đào tạo, Trường
Cao Đẳng Sư Phạm Mẫu Giáo Trung Ương III, Tài liệu lưu hành nội bộ. Nguyễn
Thị Phương Nga.
2. Phƣơng pháp dạy phát âm cho trẻ khiếm thính.Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội, Trần Thị Thiệp (2006)
3. Đặc điểm tâm lý cuả trẻ khuyết tật, trung tâm đào tạo và phát triển giáo
dục đặc biệt, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Nguyễn Quang Uẩn (2004).

Biên Hòa, ngày 28 tháng 4 năm 2012.
NGƢỜI THỰC HIỆN



Lê Thị Huệ

×