Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Thực trạng và một số giải pháp góp phần cải thiện hoạt động khám chữa bệnh tại bệnh viện chăm pa sắc nam lào ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 169 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI


BỘ Y TẾ

Xaly SATHATHONE

THùC TR¹NG Vµ MéT Sè GI¶I PH¸P GãP PHÇN C¶I THIÖN
HO¹T §éNG KH¸M CH÷A BÖNH T¹I BÖNH VIÖN §A KHOA
TØNH CH¡M PA S¾C - NAM LµO

Chuyên ngành

: Y tế công cộng

Mã số

: 62720301

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2014


2

CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN HIẾN
2. TS. VŨ DIỄN

Phản biện 1: GS.TS. Phạm Huy Dũng
Phản biện 2: PGS. TS. Phạm Ngọc Đính
Phản biện 3: PGS. TS. Bùi Thanh Tâm
Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng họp tại Trƣờng Đại học Y Hà
Nội.
Vào hồi......giờ......ngày.......tháng......năm............

Có thể tìm hiểu luận án tại:


3

NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

1.

Xaly Sathathone, Nguyễn Văn Hiến, Vũ Diễn (2011), "
",
N0

2.

2/2011.


Xaly Sathathone, Nguyễn Văn Hiến, Vũ Diễn (2012), "Thực trạng hoạt động lập kế hoạch,
giám sát và đánh giá của các khoa, phòng bệnh viện tỉnh Chăm Pa Sắc Nam Lào năm 2008",
Tạp chí Nghiên cứu Y học,

0

3C

7/2012.


4

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó có các dịch vụ y
tế, mô hình sức khỏe, bệnh tật của nhân dân cũng đã có những thay đổi theo
thời gian. Sự tiến bộ không ngừng của khoa học, kỹ thuật đã tạo cơ hội cho y
học ngày càng phát triển. Trên thực tế các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã đƣợc
ứng dụng vào nhiều lĩnh vực của y học và y tế. Nhờ những đổi mới của nền
kinh tế, xã hội, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và sự quan tâm của toàn xã
hội, trong những năm gần đây việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân Lào đã
có những cải thiện rõ rệt trên phạm vi toàn quốc [1], [2], [3].
Qua hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Lào đã và đang đạt đƣợc
nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó có y tế.
Đời sống của ngƣời dân đang dần đƣợc cải thiện và mức sống từng bƣớc nâng
cao. Trong thời kỳ này, ngành y tế Lào đã có những bƣớc chuyển biến quan
trọng. Mặc dù phải đứng trƣớc những thử thách to lớn, nhất là khi chuyển
sang nền kinh tế thị trƣờng, nhƣng ngành y tế đã từng bƣớc phát triển với cơ
chế mới, nhằm nâng cao chất lƣợng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Tuy nhiên, so với nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao, các cơ sở y tế

của Lào hiện nay vẫn đứng trƣớc các thử thách cần đƣợc cải tiến, nâng cấp
nhiều mặt, đặc biệt là chất lƣợng khám chữa bệnh rất cần đƣợc nâng cao.
Chăm Pa sắc là một tỉnh ở Nam Lào, tỉnh có đƣờng biên giới với Căm
Pu chia và Thái Lan. Kinh tế xã hội của Chăm Pa sắc có tốc độ phát triển
nhanh trong những năm gần đây. Tình hình sức khỏe, bệnh tật của nhân dân
tỉnh Chăm Pa Sắc cũng có những thay đổi đáng kể. Nhu cầu của ngƣời dân về
chăm sóc sức khoẻ tăng lên, đòi hỏi hoạt động chăm sóc sức khỏe nói chung
và khám chữa bệnh của các bệnh viện nói riêng tại tỉnh Chăm Pa Sắc cần
đƣợc quan tâm, đổi mới để đáp ứng nhu cầu thực tế.


5

Đến nay cũng đã có một số báo cáo và nghiên cứu về hoạt động khám
chữa bệnh tại một số khu vực của Lào, tuy nhiên vẫn chƣa có một nghiên cứu
nào phân tích một cách chi tiết về thực trạng hoạt động khám chữa bệnh ở
bệnh viện tỉnh Chăm Pa Sắc và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lƣợng
hoạt động khám chữa bệnh của bệnh viện một cách hợp lý, góp phần nâng cao
sức khoẻ cho nhân dân tỉnh Chăm Pa Sắc.
Bệnh viện Chăm Pa Sắc là một bệnh viện của một tỉnh lớn ở Nam Lào.
Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân thì cần có các
nghiên cứu góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động của bệnh viện, nhất là
công tác khám chữa bệnh. Năm 2004 khi thấy bệnh viện hoạt động hiệu quả
không cao, đặc biệt công tác quản lý của bệnh viện không đƣợc tốt, sở y tế
tỉnh đã quyết định thu gọn bệnh viện, giảm số giƣờng để tập trung nâng cấp
chất lƣợng bệnh viện. Hiện nay bệnh viện vẫn đang tập trung vào thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh cho nhân dân
trong tỉnh.
Vấn đề đặt ra là có thể can thiệp các biện pháp quản lý để nâng cao chất
lƣợng bệnh viện đƣợc không và bằng cách nào? để đáp ứng nhu cầu khám,

chữa bệnh ngày càng tăng và phù hợp với mô hình bệnh tật mới của bệnh
nhân đến khám chữa bệnh tại bệnh viện?. Góp phần giải quyết vấn đề trên,
chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và một số giải pháp góp
phần cải thiện hoạt động khám chữa bệnh tại bệnh viện Chăm Pa Sắc Nam Lào”.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng hoạt động khám chữa bệnh tại bệnh viện tỉnh
Chăm Pa Sắc - Nam Lào từ năm 1995 đến 2012.
2. Đánh giá một số giải pháp can thiệp quản lý góp phần cải thiện công
tác khám chữa bệnh ở bệnh viện tỉnh Chăm Pa Sắc.


6

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tổng quan về bệnh viện và hoạt động của bệnh viện
1.1.1. Định nghĩa và vai trò của bệnh viện
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) bệnh viện là một bộ phận của một tổ
chức mang tính chất y học và xã hội, có chức năng đảm bảo cho nhân dân
đƣợc săn sóc toàn diện về y tế cả chữa bệnh và phòng bệnh. Công tác ngoại
trú của bệnh viện toả tới tận gia đình đặt trong môi trƣờng của nó. Bệnh viện
còn là trung tâm giảng dạy y học và nghiên cứu sinh học xã hội [4].
Bệnh viện đóng một vai trò quan trọng trong công tác khám, chữa bệnh
cho nhân dân vì bệnh viện có thày thuốc giỏi lâm sàng, có trang thiết bị, máy
móc hiện đại nên có thể thực hiện đƣợc công tác khám bệnh, chẩn đoán và
điều trị tốt nhất. Bệnh viện không chỉ đơn thuần làm công tác khám chữa
bệnh mà còn thực hiện các chức năng khác trong chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ nhân dân nhƣ giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức
khoẻ tại nhà, đồng thời còn là trung tâm đào tạo cán bộ y tế và tiến hành các

nghiên cứu y học, y tế, về các hoạt động khám chữa bệnh và phòng bệnh.
1.1.2. Những bộ phận tổ chức chính của bệnh viện đa khoa
- Bộ phận hành chính lãnh đạo gồm: Ban giám đốc và các phòng quản
lý chức năng nhƣ phòng Tổ chức cán bộ, phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng
Hành chính quản trị, phòng Tài chính kế toán, Y tá trƣởng bệnh viện.
- Bộ phận chuyên môn gồm có các khoa lâm sàng và cận lâm sàng. Tùy
theo quy mô của mỗi bệnh viện mà các khoa lâm sàng và cận lâm sàng đƣợc
tổ chức để đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh.


7

- Bộ phận phục vụ gồm: các kho, bộ phận sửa chữa, bảo vệ, nhà giặt…
Các bộ phận này có thể nằm trong phòng vật tƣ trang thiết bị y tế.
- Biên chế cán bộ và số giƣờng bệnh của bệnh viện do Bộ y tế, Uỷ ban
kế hoạch Nhà nƣớc, Uỷ ban nhân dân các cấp, các bộ, các ngành liên quan ấn
định và căn cứ vào:
+ Nhiệm vụ của bệnh viện.
+ Dân số trong khu vực phụ trách của bệnh viện.
+ Tình hình bệnh tật ở địa phƣơng.
+ Khả năng điều trị ở các cơ sở tuyến trƣớc.
- Các khoa của bệnh viện đƣợc tổ chức căn cứ vào:
+ Nhiệm vụ và số giƣờng của bệnh viện.
+ Nhu cầu điều trị của bệnh tật.
+ Nguyên tắc phân công trong bậc thang điều trị.
+ Tình hình cán bộ, trang thiết bị.
- Cơ cấu giƣờng của các khoa đƣợc ấn định và thay đổi căn cứ vào:
+ Cơ cấu bệnh tật của địa phƣơng.
+ Nhu cầu điều trị nội trú và thời gian điều trị trung bình của các bệnh.
+ Nhiệm vụ đặc biệt của bệnh viện.

+ Khả năng kỹ thuật của cán bộ chuyên môn.
+ Tuyến của bệnh viện.
1.1.3. Nhiệm vụ của bệnh viện
Hiện nay bệnh viện không chỉ là nơi khám và điều trị bệnh nhân mà
còn làm các nhiệm vụ khác nhau của một cơ quan quản lý chăm sóc sức khỏe
tích cực. Bệnh viện có những nhiệm vụ sau:
- Cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh.
- Đào tạo cán bộ y tế.
- Nghiên cứu khoa học về y học và y tế.


8

- Chỉ đạo tuyến dƣới về chuyên môn kỹ thuật.
- Phòng bệnh.
- Hợp tác quốc tế.
- Quản lý kinh tế trong bệnh viện.
Có thể thấy với quan niệm hiện nay thì bệnh viện đảm nhiệm rất nhiều
nhiệm vụ chứ không chỉ nhƣ quan niệm trƣớc đây là bệnh viện chỉ tập trung
vào nhiệm vụ khám chữa bệnh đơn thuần.
1.1.4. Các nội dung quản lý chính trong bệnh viện
Với nhiều chức năng, nhiệm vụ quan trọng nên bệnh viện cần quan tâm
đặc biệt đến công tác quản lý để đảm bảo bệnh viện hoàn thành nhiệm vụ và
không ngừng nâng cao chất lƣợng hoạt động. Hoạt động quản lý bệnh viện
phức tạp, tuy nhiên các lĩnh vực quản lý sau đây có vai trò quan trọng trong
công tác bệnh viện:
- Quản lý kế hoạch: thu thập thông tin bệnh viện phục vụ lập kế hoạch
chung của bệnh viện, lập kế hoạch khám, chữa bệnh và các hoạt động bệnh
viện khả thi, thực hiện kế hoạch, đánh giá việc thực hiện kế hoạch.
- Quản lý nhân lực và chuyên môn: xây dựng và thực hiện quy hoạch

tuyển cán bộ, phân công nhiệm vụ, đề bạt, đào tạo và thực hiện chính sách
cán bộ. Quản lý thực hiện tốt các chế độ và nguyên tắc, quy định chuyên môn
trong công tác bệnh viện.
- Quản lý tài chính: Đảm bảo hệ thống quản lý, theo dõi các nguồn thu,
chi rõ ràng, sử dụng hợp lý và hiệu quả tất cả các nguồn tài chính của bệnh
viện để thực hiện các nhiệm vụ của bệnh viện.
- Quản lý hệ thống thông tin báo cáo: Đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp
thời, chính xác các thông tin theo yêu cầu chung và các yêu cầu thông tin cho
quản lý bệnh viện. Cần ứng dụng công nghệ thông tin trong trong công tác
quản lý, thống kê, báo cáo của bệnh viện.


9

- Quản lý cơ sở vật chất - trang thiết bị - thuốc: lập kế hoạch, dự trù,
mua sắm trang thiết bị thuốc men theo quy định. Thƣờng xuyên theo dõi, bảo
dƣỡng, thay thế các loại máy máy móc, trang thiết bị để đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh và đảm bảo thực hiện mọi nhiệm vụ bệnh viện.
1.2. Tổng quan về công tác lập kế hoạch khám chữa bệnh
1.2.1. Khái niệm về lập kế hoạch
Lập kế hoạch là một trong các chức năng cơ bản của quản lý và thƣờng
luôn đƣợc thực hiện trƣớc các chức năng quản lý khác. Trình độ quản lý đƣợc
thể hiện trong lập và thực hiện kế hoạch. Trong một bệnh viện, lập kế hoạch
là lựa chọn một trong những phƣơng án hành động trong một giai đoạn thời
gian nhất định của bệnh viện. Lập kế hoạch khám chữa bệnh là lựa chọn một
trong những phƣơng án thực hiện các hoạt động khám, chữa bệnh cho bệnh
nhân đến bệnh viện trong một giai đoạn thời gian cụ thể [5].
Lập kế hoạch là dựa trên các cơ sở thông tin, thực tế, nguồn lực để các
nhà quản lý xác định đƣợc những việc cần làm và làm việc đó bằng cách nào,
ai làm, khi nào làm, làm ở đâu, sử dụng nguồn lực, chi phí bao nhiêu là hợp

lý… để có thể đạt đƣợc hiệu quả cao và phù hợp với khả năng sẵn có về các
nguồn lực. Lập kế hoạch phải đảm bảo cơ sở khoa học và có tính khả thi,
nghĩa là khi lập kế hoạch phải tuân thủ theo các nguyên tắc, nguyên lý, các
bằng chứng, trình tự các bƣớc và cần phải phù hợp với thực tiễn về nhu cầu
ƣu tiên chăm sóc sức khỏe [5], [6].
Lập kế hoạch hoạt động khám chữa bệnh của bệnh viện là một quá
trình hệ thống hoá và hợp lý hoá toàn bộ các giải pháp, hoạt động hỗ trợ, cũng
nhƣ hoạt động khám chữa bệnh, lựa chọn các hoạt động ƣu tiên và dự kiến
các bƣớc triển khai hoạt động này tại bệnh viện. Việc lập kế hoạch gồm xác
định, lựa chọn vấn đề, xây dựng mục tiêu, lựa chọn các hoạt động, giải pháp,
xắp xếp bố trí lịch trình, phân công nhiệm vụ, trách nhiệm, tổ chức thực hiện,
theo dõi giám sát và cuối cùng là đánh giá kết quả đạt đƣợc so với các mục
tiêu đề ra [5].


10

1.2.2. Các loại kế hoạch
Trên thực tế mỗi cơ sở y tế hay mỗi bệnh viện có thể có nhiều loại kế
hoạch và có các cách phân loại kế hoạch khác nhau.
* Phân loại kế hoạch theo thời gian:
- Kế hoạch dài hạn hay kế hoạch chiến lƣợc: thƣờng từ 3 đến 5 năm, có
thể 10 năm hoặc dài hơn.
- Kế hoạch trung hạn thƣờng là kế hoạch cho 1 đến 2 năm.
- Kế hoạch ngắn hạn thƣờng là kế hoạch 6 tháng (đầu và cuối năm), kế
hoạch quý, tháng.
* Phân loại kế hoạch theo nội dung công việc:
- Kế hoạch tài chính.
- Kế hoạch hoạt động khám chữa bệnh.
- Kế hoạch nhân lực: trong đó có kế hoạch đào tạo, tiếp nhận, đề bạt

cán bộ…
- Kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm vật tƣ trang thiết bị, duy
tu bảo dƣỡng máy móc…
* Phân loại kế hoạch theo cách lập kế hoạch:
- Lập kế hoạch theo chỉ tiêu: đó là cách lập kế hoạch từ trên đƣa xuống,
nghĩa là cấp trên đƣa chỉ tiêu thực hiện kế hoạch cho cho cấp dƣới và cấp
dƣới lấy đó là mục tiêu xây dựng kế hoạch của mình. Cách làm kế hoạch này,
cấp dƣới thƣờng bị động thực hiện và có mổ số trƣờng hợp chỉ tiêu cấp trên
đƣa xuống có thể không phù hợp với thực tế của tuyến dƣới.
- Lập kế hoạch từ dƣới lên: còn đƣợc gọi là lập kế hoạch theo định
hƣớng vấn đề hay lập kế hoạch theo nhu cầu. Lập kế hoạch từ dƣới lên ngƣợc


11

với kiểu lập kế hoạch theo chỉ tiêu trên giao. Cấp dƣới (hay tuyến dƣới) lập kế
hoạch trƣớc, cấp trên (hay tuyến trên) lập kế hoạch tổng hợp sau và căn cứ
vào các kế hoạch của cấp dƣới (tuyến dƣới) để xây dựng kế hoạch của mình
và phê chuẩn kế hoạch của tuyến dƣới [5], [7].
Phƣơng pháp lập kế hoạch từ dƣới lên có rất nhiều ƣu điểm. Trƣớc hết
nó gắn chặt với trách nhiệm của cấp dƣới (tuyến dƣới) vào việc lập kế hoạch
và thực hiện kế hoạch. Cấp dƣới luôn chủ động trong soạn thảo và thực hiện
kế hoạch và đặc biệt là kế hoạch rất sát thực với điều kiện thực tế của cấp
dƣới, tuyến dƣới. Với phƣơng pháp này bản kế hoạch của các cấp từ dƣới cơ
sở tới trung ƣơng luôn đảm bảo tốt về nhiều phƣơng diện, đặc biệt là đáp ứng
đƣợc nhu cầu giải quyết các vấn đề ƣu tiên phù hợp với địa phƣơng.
1.2.3. Nội dung chính của bản kế hoạch
* Phân tích đánh giá tình hình y tế đại phương:
Để biết đƣợc tình hình y tế và các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động y tế
cần phân tích, đánh giá:

- Các chỉ số kinh tế xã hội: đặc biệt các chỉ số về mật độ dân số, đặc
điểm kinh tế, xã hội, môi trƣờng, nghề nghiệp. Các chỉ số này liên quan mật
thiết tới sức khoẻ, tới nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của ngƣời dân. Đồng thời
nó cũng liên quan đến nguyên nhân, yếu tố thuận lợi của các bệnh tật.
Điều kiện kinh tế, xã hội kém sẽ là nguyên nhân, yếu tố thuận lợi cho các
bệnh nhiễm trùng, suy dinh dƣỡng... Ngƣợc lại điều kiện công nghiệp hoá,
chuyên môn hoá cao lại là yếu tố thuận lợi cho các bệnh tật không nhiễm
trùng, các bệnh tim mạch, tâm thần và bệnh chuyển hoá. Phát triển công
nghiệp, giao thông mà không kèm theo các biện pháp phòng tai nạn thƣơng
tích thì tai nạn sẽ tăng. Vì vậy để có đƣợc một kế hoạch phù hợp cần phải
phân tích các đặc điểm kinh tế xã hội.


12

- Tình hình bệnh tật, sức khoẻ và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân
+ Các phương pháp nghiên cứu mô hình bệnh tật:
Nghiên cứu mô hình bệnh tật trong cộng đồng: Trong nghiên cứu bệnh
tật tại cộng đồng ngƣời ta thƣờng sử dụng các kỹ thuật thu thập thông tin là
phỏng vấn (phỏng vấn nhóm, phỏng vấn cá nhân), quan sát trực tiếp, khám
lâm sàng, xét nghiệm các yếu tố của môi trƣờng hoặc sử dụng số liệu sẵn có.
Nghiên cứu mô hình bệnh tật trong bệnh viện (BV): Nghiên cứu mô
hình bệnh tật trong BV chủ yếu dựa vào hồ sơ lƣu trữ tại các BV. Các kết quả
thống kê hồi cứu thƣờng phụ thuộc vào ngƣời làm công tác thống kê ghi chép,
sắp xếp mã số, do đó có thể có một số khác biệt về chất lƣợng giữa các BV,
đặc biệt giữa các BV trung ƣơng và địa phƣơng. Ở các BV Trung ƣơng số
liệu thƣờng đầy đủ hơn, ngƣời ghi chép, thống kê thƣờng có chất lƣợng
chuyên môn tốt hơn nên số liệu ở đây cũng chính xác hơn ở địa phƣơng.
Do điều kiện hạn hẹp về cơ sở vật chất, các BV chỉ có thể tiếp nhận
một số lƣợng bệnh nhân giới hạn, nhiều bệnh chỉ điều trị ngoại trú nên mô

hình bệnh tật tại BV không phản ánh hết thực chất tình hình sức khoẻ của
nhân dân tại cộng đồng, nhƣng nghiên cứu này vẫn có ý nghĩa tham khảo tốt.
Mô hình bệnh tật theo gánh nặng bệnh tật của cộng đồng
Từ những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, WHO và Ngân hàng
thế giới (WB) đã đề xuất các phép đo lƣờng mới, quan tâm tới đánh giá gánh
nặng bệnh tật của cộng đồng. Gánh nặng bệnh tật đo lƣờng bởi các chỉ số:
DALY (Disability Adjusted Life Years): Số năm sống điều chỉnh theo
mức độ tàn tật.
YLD (Years of Life with Disability): Số năm sống chung với bệnh tật.
YLL (Years of Life Lost): Số năm sống tiềm tàng bị mất đi.


13

DALY biểu thị số năm của cuộc sống bị mất đi do ngƣời bệnh bị tö
vong (TV) và cả số năm sống trong tàn tật. Nếu không tính khấu hao tuổi và
hệ số tỷ trọng tuổi, DALY có thể tính theo công thức:
DALY= YLD + YLL
+ Phân loại bệnh tật: Các số liệu về mô hình bệnh tật, phân loại bệnh
tật là các loại thông tin rất cần thiết cho xây dựng kế hoạch cho các hoạt động
y tế nói chung và các hoạt động của bệnh viện nói riêng.
Phân loại bệnh tật theo xu hƣớng bệnh tật: Theo xu hƣớng bệnh tật
mô hình bệnh tật đƣợc chia thành 3 nhóm chính [8], [9]:
- Bệnh lây nhiễm.
- Bệnh không lây.
- Tai nạn, ngộ độc, chấn thƣơng.
Cách phân loại này khá đơn giản, nó cho chúng ta có cái nhìn bao quát
tổng thể về bệnh tật của từng vùng, miền hoặc của cả nƣớc. Cách phân loại
này giúp chúng ta có thể dự báo xu hƣớng bệnh tật trong tƣơng lai, từ đó
hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô và từ đó có các kế hoạch tổng thể để

phòng chống các nhóm bệnh tật chủ yếu phù hợp với những xu hƣớng của các
nhóm bệnh này.
Ở Lào, trong tiến trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế,
mô hình bệnh tật đang từng bƣớc có các thay đổi, khuynh hƣớng tiến tới gần
giống với mô hình bệnh tật của các nƣớc phát triển. Bệnh lây năm 1976 chiếm
50,2% số mắc và 40,4 % số chết thì đến năm 2003 chỉ chiếm 20,6% số mắc
và 13,2% số chết. Ngƣợc lại bệnh không lây tăng lên từ 31,53% số mắc và
34,17% số chết năm 1976 lên đến 53,46% số mắc và 53,23% số chết năm
2003. Nhóm bệnh tai nạn, ngộ độc, chấn thƣơng tăng lên từ 3,52% tỷ lệ mắc
và 4,15% số chết năm 1976 lên đến 13,49% số mắc và 27,82% số chết năm
2003 [1], [10], [11].


14

Phân bố bệnh trong các năm gần đây ở Lào nhƣ sau:
Bảng 1.1. Phân bố bệnh tật ở Lào năm 2009 đến 2012
TT

Năm

Bệnh nhiễm trùng

Bệnh không lây

Tai nạn, chấn thƣơng

1

2009


62,5%

36,57%

0,93%

2

2010

61,8%

37,1%

1,1%

3

2011

59,1%

39,7%

1,2%

4

2012


58,4%

40,23%

1,37%

Nguồn số liệu: Bộ Y tế nước CHDCND Lào
Phân loại bệnh theo tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất: ngƣời ta đƣa ra
thứ tự của các bệnh thƣờng gặp cũng nhƣ mức độ nguy hiểm của một số bệnh
có tỷ lệ mắc cao nhất, và tỷ lệ tử vong (TV) cao nhất, từ đó có những chính
sách, kế hoạch đầu tƣ thích hợp nhằm can thiệp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ
lệ TV của các bệnh đó. Có thể phân chia bệnh theo từng lứa tuổi, tuỳ thuộc
vào một số tác giả và yêu cầu nghiên cứu các số liệu cần có. Đây là cách phân
loại đơn giản, dễ thực hiện, dễ áp dụng nhất là ở những nơi có mật độ dân số
thấp, số lƣợng khám chữa bệnh không quá lớn để phân loại chi tiết, những nơi
chƣaáp dụng quản lý cơ sở dữ liệu bằng máy tính.
Nhƣợc điểm của cách phân loại này là không cho chúng ta cái nhìn
toàn diện về mô hình bệnh tật, không đánh giá đƣợc chính xác sự tiến triển và
biến động của mô hình bệnh tật tổng thể chung [12].
Một số tác giả dùng phân loại mang tính chuyên khoa sâu, cách phân
loại này thƣờng chỉ áp dụng ở một số nƣớc có nền y học phát triển và trình độ
khoa học kỹ thuật cao, do tính chất phức tạp của chẩn đoán các bệnh chuyên sâu
đã đƣợc thực hiện [13], [14].


15

Phân loại bệnh tật theo ICD [15]: cách phân loại đƣợc WHO khuyến
khích sử dụng trên toàn thế giới và là báo cáo bắt buộc của các quốc gia cho

WHO. Qua nhiều lần sửa đổi đến nay, sau lần hiệu đính thứ 10, ICD - 10
đƣợc đƣa ra sử dụng ngày càng rộng rãi và đã chứng minh đƣợc tính ƣu việt
của nó.
Đặc điểm nổi bật của phân loại theo ICD là phân loại theo từng
chƣơng bệnh, trong mỗi chƣơng lại chia ra từng nhóm bệnh. Từ mỗi nhóm
bệnh chia nhỏ thành bệnh và cuối cùng là các bệnh chi tiết theo nguyên nhân
hay tính chất đặc thù của bệnh. Nhƣ vậy một bệnh theo ICD đƣợc mã hoá bởi
3 ký tự chính và ký tự thứ 4 mã hoá bệnh chi tiết (không bắt buộc nếu không
đủ điều kiện).
Với Lào và một số nƣớc đang phát triển, WHO chỉ yêu cầu mã hoá đến
tên bệnh (3 ký tự), các chuyên khoa sâu có thể vận dụng hệ thống mã hoá 4
ký tự để phân loại chi tiết hơn, phù hợp với từng chuyên khoa.
Phân loại theo ICD giúp ngƣời quản lý dễ dàng có thể so sánh, đánh giá
mô hình bệnh tật giữa các quốc gia, các vùng miền, các BV, từ đó đƣa ra các
hoạch định chính sách, kế hoạch cũng nhƣ có sự đầu tƣ sát hợp hơn, đồng thời
quyết định các chƣơng trình hành động thiết thực nhằm cải thiện tình trạng
của từng bệnh lý cụ thể, nhất là khi kinh phí chi cho ngành y tế còn eo hẹp,
chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tiễn.
Đây là cách phân loại khá chi tiết, đòi hỏi ngƣời làm công tác thống kê
phải có trình độ nhất định để tránh nhầm lẫn cũng nhƣ đòi hỏi các bác sĩ làm
công tác tổng hợp phải đào tạo, tập huấn cho những ngƣời trực tiếp mã hoá
bệnh và cũng cần nâng cao trình độ cho bác sĩ lâm sàng.


16

+ Tình hình nghiên cứu mô hình bệnh tật
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở Brunei, một trong những nƣớc có thu nhập bình quân đầu ngƣời cao
nhất thế giới và đầu tƣ cho y tế lớn nhất thế giới, trong mƣời bệnh hàng đầu

hay gặp, chỉ có một bệnh nhiễm khuẩn là nhiễm khuẩn đƣờng hô hấp, còn lại
chủ yếu là bệnh tim mạch, đái đƣờng, hen... (những bệnh không lây) [16].
Ngƣợc lại ở Cam Pu Chia, một đất nƣớc còn nghèo, các bệnh thƣờng
gặp lại là sốt rét, lao, tiêu chảy cấp, sốt xuất huyết, nhiễm khuẩn hô hấp cấp...
là các bệnh lây truyền phổ biến ở các nƣớc đang phát triển. Rõ ràng là các
thông tin có đƣợc từ cách phân loại bệnh tật này rất cần thiết cho các nhà lập
kế hoạch xây dựng chính sách và kế hoạch phòng, chống bệnh tật đáp ứng tốt
hơn với nhu cầu thực tế.
Ở Việt Nam, mô hình bệnh tật có xu hƣớng giảm dần các bệnh lây
nhiễm, tăng các bệnh về tai nạn thƣơng tích, bệnh tim mạch và bệnh chuyển
hoá. Năm 2007 tỷ lệ mắc các bệnh viêm phổi là 0,41%, viêm phế quản và
viêm tiểu phế quản cấp là 0,27%, ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc
nhiễm khuẩn là 0,26%, tăng huyết áp nguyên phát là 0,24%, viêm dạ dày tá
tràng 0,17%, tai nạn giao thông là 0,16%, viêm cấp đƣờng hô hấp trên là 0,14%,
gẫy các phần khác nhau của chi: do tai nạn lao động và tai nạn giao thông là
0,14%. Tỷ lệ mắc và tử vong theo chƣơng năm 2007 là: bệnh hệ hô hấp tỷ lệ
mắc 18,54%, tỷ lệ tử vong 10,01%; chửa đẻ và sau đẻ 13,04% tỷ lệ tử vong
0,65%; bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh vật có tỷ lệ mắc11,29%, tỷ lệ tử vong
14,75%; vết thƣơng, ngộ độc và di chứng của nguyên nhân bên ngoài có tỷ lệ
mắc 9,42%, tỷ lệ tử vong là 18,89%, bệnh hệ tiêu hoá có tỷ lệ mắc 8,88%, tỷ lệ
tử vong là 4,99%, bệnh hệ tuần hoàn có tỷ lệ mắc 7,45%, tỷ lệ tử vong là 19,69%
[17], [18]. Năm 2010 tỷ suất sinh thô 1,71%, tỷ suất chết trẻ em dƣới 1 tuổi là


17

1,58%, tỷ lệ suy dinh dƣỡng là 17,5%, bệnh lây truyền là 19,82%, bệnh không
lây là 71,56%, tỷ lệ tai nạn, ngộ độc, chấn thƣơng là 8,63% [19].
Các nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình bệnh tật ở các nƣớc đã phát triển
có sự khác biệt rõ rệt với các nƣớc đang phát triển [20], [21], [22]. Ở các nƣớc

đang phát triển, bệnh nhiễm khuẩn và suy dinh dƣỡng vẫn còn phổ biến, tuy
nhiên các bệnh này có xu hƣớng ngày càng giảm, các bệnh không lây nhƣ tim
mạch, ung thƣ, dị tật bẩm sinh, di truyền, chuyển hoá, béo phì, tai nạn, chấn
thƣơng, ngộ độc... có xu hƣớng tăng lên khá rõ rệt. Những xu hƣớn phát triển
của bệnh tật ở mỗi nƣớc, mỗi khu vực cần đƣợc nghiên cứu để có thể chủ
động trong lập kế hoạch phòng chống, trong đó có kế hoạch khám chữa bệnh
của bệnh viện.
Nhiều nƣớc đã tiến hành nghiên cứu mô hình bệnh tật dựa trên gánh nặng
bệnh tật. Đi đầu trong nghiên cứu này là nƣớc Hoa Kỳ, Australia, Canada... [16].
Tình hình nghiên cứu mô hình bệnh tật tại Lào.
Các nghiên cứu có tính hệ thống về mô hình bệnh tật của Lào hiện nay
chƣa có. Tuy nhiên, hệ thống báo cáo, thống kê về tình hình bệnh tật đã đƣợc
thiết lập từ lâu, công tác báo cáo, thống kê về tình hình bệnh tật đƣợc chấn
chỉnh cũng ngày một tốt hơn.
Dựa vào các báo cáo thống kê tình hình bệnh tật ở các bệnh viện và số
liệu thống kê của ngành Y tế, cho thấy, trong 15 năm qua cơ cấu bệnh tật của
nƣớc Lào đã thay đổi, các bệnh truyền nhiễm đã giảm, tỷ lệ mắc các bệnh cao
huyết áp nói riêng, tim mạch nói chung và các bệnh ung thƣ tăng, tỷ lệ TV
của các bệnh này cũng tăng lên đáng kể.
Ở Lào, trƣớc năm 1976 các bệnh truyền nhiễm chiếm 50 - 56% các
trƣờng hợp mắc bệnh và tử vong. Tới năm 1997 tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm
đã hạ thấp xuống 27%. Tuy nhiên nhiều bệnh tật mới nhƣ tai nạn, chấn


18

thƣơng, ngộ độc, bệnh ung thƣ, bệnh tim mạch lại gia tăng. Tỷ lệ tử vong do
những nguyên nhân trên từ 2% năm 1976 lên 22% trong năm 1997 [10].
Tỷ lệ chấn thƣơng đặc biệt cao ở bệnh viện tỉnh Chăm Pa Sắc. Năm 2010
số bệnh nhân chấn thƣơng chiếm đến 42,90%, năm 2012 tỷ lệ chấn thƣơng cũng

chiếm 31,10%. Mặc dù các bệnh lây truyền vẫn còn chiếm tỷ lệ cao nhƣng tỷ lệ
bệnh lây cũng đã dần giảm xuống và các bệnh không lây dần tăng lên, năm 2009
tỷ lệ bệnh không lây là 26,63%, năm 2012 tỷ lệ này là 27,14%.
Theo sở y tế tỉnh Chăm Pa sắc, gánh nặng bệnh tật hàng đầu ở tỉnh
Chăm Pa sắc là tai nạn, bệnh nhiễm trùng, bệnh chu sinh. Trong các loại
hình tai nạn, đuối nƣớc (ngã sông) là gặp nhiều nhất, các khu vực khác tai
nạn giao thông đứng hàng đầu [23].
Thực tế trên đã chỉ ra rằng về cơ bản mô hình bệnh tật của nƣớc Lào
vẫn là mô hình bệnh tật của một nƣớc đang phát triển.
- Tình hình nguồn lực y tế: con ngƣời, tài chính, trang thiết bị.
+ Nguồn nhân lực
Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất, các thông tin về nguồn nhân lực rất
cần thiết cho công tác lập kế hoạch và quản lý nguồn nhân lực. Mục đích của quản
lý nhân lực là tạo ra đội ngũ cán bộ (CB) nhân viên có phẩm chất, đạo đức tƣ cách,
sức khỏe và năng lực chuyên môn kỹ thuật, đồng thời làm cho đội ngũ CB đó hoạt
động đồng bộ nhịp nhàng, đạt kết quả cao.
Ở các BV tỉnh của Lào bình quân có 01 cán bộ y tế (CBYT) cho 1 giƣờng
bệnh, trong đó nhân lực khối lâm sàng chiếm 42%, cận lâm sàng 8,3%, quản lý
20%, hậu cần 5% (quản lý và phục vụ là 16%). Theo Bộ y tế nƣớc CHDCND Lào
(1995), thông tƣ số 2635/BYT ngày 12/12/1995 hƣớng dẫn thực hiện quyết định số
52/CP, đối với BV 250 giƣờng tỷ lệ này là: lâm sàng 64%, cận lâm sàng 4 - 8%,
dƣợc 11%, quản lý phục vụ 20 - 25%. Điều này cho thấy các BV tỉnh đã tập trung
chủ yếu cho hệ lâm sàng [24].


19

Quản lý nhân lực y tế cho BV tỉnh phải đảm bảo trình độ kỹ năng đáp
ứng đƣợc nhiệm vụ và có đủ cán bộ các loại cho toàn bộ BV.
+ Trang thiết bị y tế

Trang thiết bị (TTB) y tế là những máy móc, dụng cụ, vật tƣ thiết bị
dùng để khám, chẩn đoán và điều trị bệnh. Khi TTB càng hiện đại, càng đòi
hỏi kiến thức sử dụng cao và cũng từ đó nâng cao tay nghề của ngƣời thầy
thuốc. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các trang thiết bị y tế
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lƣợng khám bệnh,
chẩn đoán và điều trị.
Đặc biệt, ngày nay các kỹ thuật mới, kỹ thuật cao đã và đang tạo ra
những thành tựu mới về y học. Việc triển khai các kỹ thuật cao có sự đóng
góp rất lớn của các máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại, giúp tạo ra những
bƣớc đột phá mới trong chẩn đoán, điều trị, can thiệp các bệnh lý mà trƣớc
đây không giải quyết đƣợc nhƣ can thiệp tim mạch, máy tạo nhịp, lọc thận
nhân tạo, mổ bằng laser, mổ nội soi… đã đạt kết quả tốt.
Ngày nay, một bệnh viện hiện đại không thể chỉ có đội ngũ cán bộ y tế
có trình độ cao mà còn phải là bệnh viện có trang thiết bị hiện đại, triển khai
đƣợc các kỹ thuật cao.
Tại BV tỉnh Chăm Pa Sắc Lào, từ những năm 1990 trở lại đây, TTBYT
đƣợc mua sắm mới chiếm khoảng 18% yêu cầu. Đặc biệt năm 1994, kinh phí
đƣợc cấp gần 5 tỷ kip để năng cấp TTBYT.
Những năm gần đây, sau Hội nghị Trung ƣơng Đảng Nhân dân cách
mạng Lào (2001), Đại hội lần thứ VII tại thủ đô Viêng Chăn, kinh phí về
TTBYT trong chƣơng trình chống xuống cấp bệnh viện đƣợc quan tâm hơn.
Cùng với các nguồn viện trợ, BHYT, thu viện phí, kinh phí địa phƣơng đóng
góp cho mua sắm mới nên các TTBYT tại các BV tỉnh đã đƣợc cải thiện từng
bƣớc. Hiện nay, các BV tỉnh đều có máy chụp X-quang, điện tim, các máy xét


20

nghiệm thông thƣờng và tới 90% BV có máy siêu âm. Những năm gần đây
máy chạy thận nhân tạo, máy nội soi và nhiều máy móc hiện đại dần đƣợc

trang bị cho bệnh viện, đã góp phần nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh.
Với sự đầu tƣ này của Nhà nƣớc, chất lƣợng các hoạt động khám chữa
bệnh đã đƣợc cải tiến. Tuy nhiên, so với nhu cầu, TTBYT còn cần đƣợc đầu
tƣ hơn nữa. Đồng thời việc đào tạo cho các cán bộ sử dụng các TTBYT này
cũng cần đƣợc chú ý, có nhƣ vậy mới góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt
động bệnh viện.
+ Số liệu về nguồn lực tài chính
Các số liệu về nguồn lực tài chính cho biết kinh phí cho hoạt động y tế
từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó ngân sách nhà nƣớc cấp vẫn đóng vai trò
quan trọng nhất.
Trên thế giới có 3 hình thức phân bổ ngân sách:
- Theo định mức: dựa theo định mức/ngƣời, giƣờng bệnh...
- Theo dự toán đƣợc duyệt: dựa trên kinh phí quyết toán năm trƣớc
cộng với chi phí hoạt động mới, song song với việc phân bổ ngân sách theo
dự án, chƣơng trình mục tiêu.
- Theo chƣơng trình thỏa thuận.
Tại Lào hình thức thứ nhất đƣợc áp dụng chủ yếu hiện nay.
Hình thức thứ 2 đã và đang đƣợc áp dụng chính ở một số quốc gia
Châu Á nhƣ Malaysya, Singapore.
Hình thức thứ 3 chỉ các nƣớc tiên tiến mới áp dụng nhƣ Anh, Mỹ... vì
nó đòi hỏi hệ thống kế toán hiện đại, trình độ công nghệ cao.
Để đảm bảo kinh phí cho mọi hoạt động y tế trong tỉnh, các cơ sở y tế
trong toàn tỉnh phải mở rộng đƣợc các nguồn thu. Lãnh đạo, những ngƣời
quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính phải luôn luôn đặt câu hỏi “làm thế nào
để tăng thêm các nguồn kinh phí?”


21

Ở Lào, định mức hiện tại: 349.362 kip/giƣờng bệnh/năm và theo số

lƣợng giƣờng bệnh đƣợc duyệt. Đó là kinh phí hạn mức thƣờng xuyên hàng
năm của BV [14].
Ngoài ra còn có kinh phí cấp theo chƣơng trình mục tiêu y tế.
Trƣớc thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trƣờng, nguồn tài chính duy nhất
để duy trì hoạt động của ngành y tế là do ngân sách của Chính phủ đảm bảo.
Bƣớc sang thời kỳ kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa
thì tình hình có nhiều biến đổi. Ngân sách Nhà nƣớc (NSNN) dành cho y tế đã
tăng gấp bội, từ năm 1991 - 1997 mức tăng hàng năm khoảng 2% - 6%: Điều
này đã giúp cải thiện đáng kể chất lƣợng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Đặc biệt là các khoản chi cho mua sắm, sửa chữa tài sản cố định cho sự
nghiệp y tế, công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu và các hoạt động khám
chữa bệnh đã tăng khoảng 6 lần.
Bảo hiểm y tế và viện phí:
Để giải quyết yêu cầu bức xúc về tìm nguồn kinh phí bổ sung cho
ngành y tế, từ năm 2002, chế độ thu một phần viện phí chính thức đƣợc thực
hiện và 4 năm sau (2005- 2008) chế độ bảo hiểm y tế (BHYT) đã ra đời.
Nguồn thu từ BHYT đã có vai trò ngày càng lớn trong ngân sách y tế, chiếm
1/5 tổng ngân sách Nhà nƣớc và có xu hƣớng dần dần thay thế nguồn viện
phí. Quỹ BHYT chiếm khoảng 20-22% kinh phí hoạt động tại các cơ sở y tế
tuyến tỉnh và có xu hƣớng tăng lên qua các năm. Nhờ nguồn thu từ quỹ
BHYT, nhiều cơ sở KCB tuyến tỉnh đã có điều kiện đƣợc củng cố và phát
triển sau một thời gian dài thiếu kinh phí hoạt động [25], [26], [27].
Quan trọng nhất là với nguồn tài chính có hạn, làm thế nào để đảm bảo
mọi hoạt động y tế đƣợc tiến hành tốt, đặc biệt là những hoạt động cấp bách
và quan trọng, đảm bảo sức khỏe của nhân dân trong tỉnh không ngừng đƣợc
cải thiện. Cân đối giữa giải quyết các hoạt động trƣớc mắt và những đầu tƣ
mang tính phát triển bền vững, lâu dài.


22


Năm 1986, sau khi có chính sách đổi mới của Đảng Nhân Dân Cách
Mạng Lào, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trƣờng có
sự quản lý của Nhà nƣớc, mạng lƣới dịch vụ y tế (DVYT) ngày càng phát
triển, đội ngũ cán bộ y tế Nhà nƣớc tăng dần, phần ngân sách Nhà nƣớc chi
cho ngành y tế chỉ đủ để chi cho lƣơng cán bộ, phụ cấp cho hành chính, phần
chi cho nghiệp vụ và bệnh nhân ngày càng thấp [26], [28].
Trƣớc tình hình trên, các bệnh viện bắt đầu cho bệnh nhân tự lo phần lớn
thuốc trong điều trị, hoặc có thu một phần nhỏ viện phí để góp phần duy trì
hoạt động của bệnh viện, hoặc có sự đóng góp vốn của cán bộ trong bệnh viện
để tổ chức kinh doanh thuốc trong bệnh viện, hoặc dùng ngân sách Nhà nƣớc
góp phần mua thuốc làm vốn quay vòng thuốc trong bệnh viện.
Để đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tế, Đảng và Nhà nƣớc Lào phải tăng
cƣờng xã hội hoá trong công tác khám chữa bệnh. Hàng loạt các văn bản liên
quan đến vấn đề này đã ra đời.
Quyết định số 1036/BYT của Bộ Y tế về việc cho phép tƣ nhân hoạt
động bán thuốc chữa bệnh đƣợc ban hành ngày 28/8/1988.
Năm 1995, chính sách khám chữa bệnh có thu một phần viện phí ở các
bệnh viện công với từng đối tƣợng đã đƣợc thông qua Quốc hội và giao cho
các bộ, các cấp có liên quan nhanh chóng triển khai.
Quyết định số 52/CP ngày 26/6/1995 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc
thu một phần viện phí và miễn phí là chính sách viện phí đầu tiên của
CHDCND Lào.
Bắt đầu từ năm 1996, hầu hết các bệnh viện lớn (cấp trung ƣơng, cấp
tỉnh) trƣớc khi thực hiện thu viện phí đã tiến hành kiểm tra đánh giá sơ bộ về
chi phí cơ bản, chi phí thƣờng xuyên của các DVYT để xác định giá viện phí,
các biện pháp xác định đối tƣợng miễn phí và đã thực hiện thu một phần viện
phí và miễn phí tại bệnh viện cho các DVYT đó.



23

Ở Lào, việc quản lý nguồn vốn hiện nay đang chuyển dần từ một nguồn
vốn do Nhà nƣớc cấp sang các nguồn vốn khác, trong đó có bảo hiểm y tế
(BHYT). Các khoản thu viện phí (VP) và BHYT ngày càng tăng để thay thế
cho kinh phí đƣợc rót hàng năm của Nhà nƣớc cho hoạt động của bệnh viện.
Việc thực hiện chế độ miễn giảm phí cho bệnh nhân không có khả năng
chi trả cũng đƣợc nâng cao.
Ở bệnh viện tỉnh Chăm Pa Sắc, bảo hiểm y tế ngày càng đóng góp
nhiều cho nguồn thu của bệnh viện. Hình thức thu một phần viện phí cũng
góp phần tăng nguồn thu, qua đó hoạt động của bệnh viện đƣợc tăng cƣờng.
Các dịch vụ y tế cũng có chất lƣợng hơn. Các chế độ về tài chính trong y tế có
ảnh hƣởng rất lớn đến các khoạt động của ngành y tế nói chung và đến chất
lƣợng hoạt động của các bệnh viện nói riêng.
1.3. Thực trạng của hoạt động khám chữa bệnh các bệnh viện của Lào
1.3.1. Tình hình khám chữa bệnh tại bệnh viện tuyến tỉnh
Tuyến tỉnh là tầng thứ 2 trong hệ thống y tế Nhà nƣớc. Bệnh viện tuyến
tỉnh là các BV đa khoa với 250 giƣờng bệnh. Các khoa trong BV bao gồm
một số chuyên khoa chính nhƣ nội khoa, sản phụ khoa, ngoại khoa, nhi khoa,
bệnh truyền nhiễm, đông y, cấp cứu và xét nghiệm. Có một số đơn vị trực
thuộc gåm trƣờng trung cấp y, trung tâm y tế dự phòng và một số công ty
dƣợc phẩm. Hiện nay có khoảng 5 bệnh viện đa khoa, và doanh nghiệp kinh
doanh trang thiết bị y tế, dƣợc phẩm chịu sự quản lý của sở y tế các tỉnh
thành. Khoảng 35% số nhân viên y tế làm việc tại cấp tỉnh đƣợc nhận hỗ trợ
về mặt kỹ thuật, nguồn lực từ Bộ Y tế và các bệnh viện Trung ƣơng [27].
Về các nguồn thu, các khoản chi và thực trạng hoạt động tài chính ở
bệnh viện Tỉnh Chăm Pa Sắc từ năm 1995 đến năm 2009 đƣợc thể hiện ở
bảng sau:



24

Bảng 1.2. Tiền viện phí 4 năm bệnh viện tỉnh Chăm Pa Sắc [11], [29], [91]*.
Số
TT

Nội dung

1 Chụp X- quang

Nguồn thu theo năm của BV Chăm Pa Sắc (Tiền Lào: kip)
1995

2000

2005

2009

8.543.500

81.263.000

10.094.000

135.225.000

5.868.000

24.619.500


77.187.000

196.972.000

4 Máy siêu âm

0

51.248.000

156.334.000

213.947.000

5 CT scanner

0

0

202.650.000

346.723.000

6 Điện tim

1.403.500

19.821.000


30.930.000

50.810.000

Thuốc và
TTBYT

103.819.500

2 Xét nghiệm
3 Mua oxygene

7

116.180.000

279.136.000

573.471.500 1.109.195.000

683.527.000 3.527.711.500 6.016.964.500

8 Giấy tờ tài liệu

5.303.000

97.818.500

139.447.000


165.575.000

9 Phòng nằm BV

1.228.500

73.904.000

390.865.000

486.750.000

10 Đỡ đẻ

1.984.500

7.048.000

9.146.000

8.510.000

11 Chuyên môn

615.500

14.018.500

23.632.500


79.450.000

12 Châm cứu

165.000

759.000

1.150.000

894.000

13 Nhãn khoa

935.000

8.359.000

13.804.000

16.569.000

615.000

3.693.500

5.355.000

7.460.000


14

Chấn thƣơng
chỉnh hình

15 Lọc thận

22.550.000

16 Kính thuốc

221.500

687.500

1.460.000

1.482.000

17 Cho thuê phòng
bán quán cơm

750.000

1.320.000

2.400.000

3.600.000


18 Trông xe

500.000

1.500.000

2.000.000

2.000.000

25.000

150.000

0

1.502.000

19 Khác
Tổng cộng

142.071.500 1.214.961.500 5.323.723.500 9.010.090.500

Nguồn số liệu: Sở Y tế tỉnh Chăm Pa Sắc trong 4 năm.


25

Ở BV Chăm Pa Sắc cuối năm 1995 mới bắt đầu thu viện phí (VP)

cho nên số VP năm này thu đƣợc còn rất ít so với số thu của năm 2000 và
năm 2005. So sánh tiền VP từ dịch vụ khám chữa bệnh năm 2000 và năm
2005 thì số thu năm 2005 tăng 4,38 lần so với năm 2000. Năm 2012 nguồn
VP là 6.494.626.915 chiếm đến 55,27%, thấp hơn so với năm 2009 do
nhiều khoản đã do bảo hiểm y tế trả, đặc biệt nguồn bảo hiểm y tế bắt đầu
có từ năm 2009 nhƣng đến 2012 đã chiếm 24,23% tổng nguồn thu của bệnh
viện. Nhƣ vậy là số thu VP có xu hƣớng ngày càng tăng, bảo hiểm y tế
cũng ngày càng có vai trò lớn trong nguồn thu. Sau năm 2009 viện phí lại có
xu hƣớng giảm, bảo hiểm y tế tăng nhanh.
Tiền viện phí thu đ từ phần thuốc và các dịch vụ KCB tại BV Chăm
Pa Sắc trong 4 năm 1995, 2000, 2005 và 2009 đƣợc trình bày ở bảng 1.2.
1.3.2. Đánh giá hoạt động khám chữa bệnh của bệnh viện
Hoạt động khám chữa bệnh có thể đƣợc đánh giá bằng các chỉ số chính
nhƣ số bệnh nhân nội trú, số bệnh nhân ngoại trú hàng năm, mức sử dụng
giƣờng bệnh nội trú, số lần khám/1 bác sĩ, số lần phẫu thuật/ sè bệnh nhân nội
trú, số lần phẫu thuật, số lần làm xét nghiệm/1 bệnh nhân nội trú, tỷ lệ sử
dụng các biện pháp tránh thai, số lần khám trƣớc sinh trung bình cho một
sản phụ...
Một phƣơng pháp đơn giản thƣờng đƣợc dùng cho đánh giá tổng quát
hoạt động khám chữa bệnh là đánh giá số lần đến các cơ sở y tế trung bình
hàng năm trên một ngƣời dân, trong đó có bệnh viện. Rõ ràng là con số này
phụ thuộc nhiều vào hoạt động bệnh viện và các cơ sở khám chữa bệnh, tình
hình bệnh tật, sự phân bố tuổi và giới, cũng nhƣ gánh nặng bệnh tật nói
chung. Số lần tới cơ sở y tế là từ 3 - 4 lần/năm/1 ngƣời dân đƣợc coi là đảm
bảo đủ cho công tác CSSK cơ bản [30]. Các chỉ số về số lần khám, chữa bệnh


×