BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TÀO
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN TIẾN DŨNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
CỦA VẾT THƯƠNG MẠN TÍNH VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
CỦA GHÉP TẾ BÀO GỐC TỪ MÔ MỠ TỰ THÂN
Chuyên ngành: NGOẠI BỎNG
Mã số: 62.72.01.28
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2018
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI HỌC VIỆN QUÂN Y
Cán bộ hướng dẫn:
1. PGS. TS. Đinh Văn Hân
2. PGS. TS. Quản Hoàng Lâm
Phản biện 1: GS.TSKH. Đỗ Trung Phấn
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Khánh
Phản biện 3: GS.TSKH. Nguyễn Thế Hoàng
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp
tại Học viện Quân y vào hồi giờ
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc Gia
- Thư viện Học viện Quân y
ngày
tháng
năm 2018
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vết thương mạn tính là thách thức đối với các chuyên gia
chăm sóc vết thương và đòi hỏi một nguồn lực y tế lớn trong chăm
sóc và điều trị. Bệnh lý nền thường là nguyên nhân làm cho quá trình
liền vết thương không thực hiện được và cũng chính bệnh lý nền làm
cho vết thương mạn tính có đặc điểm hết sức phong phú và tạo ra
nhiều loại vết thương mạn tính khác nhau. Trị liệu tế bào nhằm khắc
phục những khiếm khuyết mô tại chỗ vết thương đang được ứng
dụng rất rộng rãi, trong đó có trị liệu tế bào gốc từ mô mỡ. Tế bào
gốc phân lập được từ mô mỡ là tế bào gốc trung mô có hình dáng
nguyên bào sợi, có khả năng tạo colony và biệt hóa thành nhiều loại
mô khác nhau. Hiện nay tế bào gốc mỡ được ứng dụng nhiều trong y
học tái tạo và sửa chữa trong đó có điều trị các vết thương mạn tính.
Tại Viện bỏng Quốc gia, trị liệu tế bào trong điều trị các vết
thương, vết bỏng đã được triển khai khá rộng rãi như ghép tấm
nguyên bào sợi nuôi cấy, đắp dịch tiết của nguyên bào sợi điều trị vết
thương... Tuy nhiên nghiên cứu hiệu quả của ghép tế bào gốc từ mô
mỡ tự thân điều trị vết thương mạn tính chưa được triển khai.
Xuất phát từ những yếu tố trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm của vết thương mạn tính và
hiệu quả điều trị của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân”, nhằm hai
mục tiêu: 1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình
thái cấu trúc vết thương mạn tính
2. Đánh giá hiệu quả của ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân
trong điều trị vết thương mạn tính.
* Những đóng góp mới của luận án
Vết thương mạn tính (VTMT) có đặc điểm phong phú và
khó điều trị. Bằng việc ứng dụng các phương tiện nghiên cứu hiện
đại, đề tài này đã đặt vấn đề nghiên cứu và đưa ra được một bảng
2
lâm sàng, cận lâm sàng chi tiết và đầy đủ về đặc điểm VTMT, trong
đó có đặc điểm nhiệt độ vùng cận tổn thương, những hình thái tổn
thương trên lâm sàng ở vùng cận tổn thương, nền vết thương, độ pH
và vi khuẩn bề mặt VTMT, hình ảnh cấu trúc và siêu cấu trúc
VTMT. Bên cạnh đó đề tài cũng nêu lên được hiệu quả của ghép
tấm tế bào gốc từ mô mỡ tự thân (TBGM) lên diễn biến lâm sàng và
hình thái cấu trúc và siêu cấu trúc VTMT. Khi ghép tấm TBGM lên
VTMT, tấm TBGM kích thích tái tạo chất nền ngoại bào, cũng như
kích thích tăng sinh, di cư tế bào biểu mô và tạo mạch máu mới tại
chỗ VTMT.
* Bố cục của Luận án
Luận án gồm 136 trang (chưa kể tài liệu tham khảo và phụ
lục) trong đó: Đặt vấn đề: 02 trang, Chương 1. Tổng quan tài liệu: 31
trang, Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 21 trang,
Chương 3. Kết quả nghiên cứu: 43 trang, Chương 4 Bàn luận: 36
trang, Kết luận: 02 trang, Kiến nghị: 01 trang. Luận án có 23 bảng, 7
biểu đồ, 53 hình và 148 tài liệu tham khảo (10 tài liệu tiếng Việt và
138 tài liệu tiếng Anh).
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số đặc điểm vết thương mạn tính
VTMT là những vết thương có thời gian tồn tại trên 6 tuần và
hay tái phát. VTMT thường gặp là vết loét do bệnh mạch máu (bao
gồm bệnh lý động mạch, tĩnh mạch và bạch mạch), loét do đái tháo
đường, loét do tỳ đè. Mặc dù có sự khác nhau về căn nguyên ở mức
phân tử, VTMT có những đặc điểm chung như: Tiết quá nhiều
cytokin tiền viêm và các enzyme phân hủy protein, các tế bào tại chỗ
VTMT thì lão hóa, nhiễm trùng dai dẳng và thiếu hụt các tế bào gốc
(thường do các tế bào này bị rối loạn chức năng). Ở VTCT, các enzyme
3
phân hủy protein và các chất ức chế chúng là cân bằng nhau. Nhưng
đối với VTMT thì mất sự cân bằng này. Các enzyme phân hủy
protein tăng cao hơn so với các chất ức chế nó. Ở VTMT, tình trạng
thiếu oxy chiếm ưu thế, điều này gây tổn thương các protein ở môi
trường ngoại bào và là nguyên nhân gây tổn thương tế bào. Hơn nữa,
VTMT với đặc trưng là chứa quần thể các tế bào lão hóa, các tế bào
này suy giảm khả năng tăng sinh và di cư, không đáp ứng với các tín
hiệu kích thích của quá trình liền vết thương. Bên cạnh nguyên bào
sợi bị lão hóa, các VTMT cũng có các tế bào sừng, tế bào nội mô và
các đại thực bào lão hóa, mất chức năng.
1.2. Tế bào gốc và ghép tế bào gốc từ mô mỡ điều trị vết thương
1.2.1. Một số tế bào gốc sử dụng trong điều trị vết thương
1.2.1.1. Tế bào gốc trung mô điều trị vết thương
Tế bào gốc (TBG) trung mô là một loại tế bào đa tiềm năng,
có nguồn gốc từ trung mô phôi thai, được tìm thấy trong nhiều mô
khác nhau của cơ thể như máu, dây rốn, mô mỡ, tủy xương, tủy
răng, cơ và da. Đặc tính đa tiềm năng của chúng cho phép chúng dễ
dàng biệt hóa thành các loại tế bào khác nhau như tế bào sừng, tế bào
biểu mô, tế bào tạo xương, sụn, tế bào mỡ, gân và tế bào cơ tham gia
vào cả ba giai đoạn của quá trình liền vết thương là giai đoạn viêm,
giai đoạn tăng sinh và giai đoạn liền sẹo.
1.2.1.2. Tế bào gốc biểu mô điều trị vết thương
TBG biểu mô thường có ở lớp biểu bì da, nang lông và tuyến
bã. Ở nang lông có hai quần thể của tế bào gốc biểu mô nằm trong
các mầm tóc, dưới chỗ phình và nằm ngay chỗ phình ra của chân
nang lông. Các TBG này được kích hoạt khi chu kì tạo sợi lông mới
bắt đầu và khi bị chấn thương để cung cấp tế bào giúp tái tạo, sửa
chữa nang lông và lớp biểu bì da.
4
1.2.1.3. Các tế bào tiền thân nội mô điều trị vết thương
Các tế bào tiền thân nội mô (Endothelia progenitor cells) có
thể phân lập từ máu ngoại vi hoặc tủy xương. Yếu tố tăng trưởng tế
bào nội mô mạch máu, yếu tố kích thích bạch cầu hạt và yếu tố
nguồn gốc mô đệm là những yếu tố quan trọng nhất giúp hình thành
mạch và huy động tế bào tiền thân nội mô tham gia vào quá trình tái
tạo mạch máu mới trong quá trình liền vết thương.
1.2.2. Tế bào gốc từ mô mỡ điều trị vết thương mạn tính
1.2.2.1. Một số đặc điểm của tế bào gốc từ mô mỡ
Năm 2001 tác giả Zuk PA và cs đã phân lập được các tế bào có
đặc tính như TBG trong mô mỡ. Các tế bào này có thể biệt hóa thành
nhiều tế bào khác. Theo Meliga E và cs (2007), mô mỡ có thể thu
được một số lượng lớn ở nhiều vùng khác nhau của cơ thể, trung bình
cứ 100 ml mô mỡ người có thể phân lập được gần 106 TBGM.
TBGM có đặc tính nguyên bào sợi, với lưới nội bào phát triển,
hạt nhân lớn. TBGM có kiểu hình miễn dịch giống như các TBG trung
mô phân lập từ tủy xương, cơ vân. Trên 80% kiểu hình miễn dịch của
TBGM giống với TBG trung mô biểu hiện qua các kháng thể bề mặt.
1.2.2.2. Ghép tế bào gốc từ mô mỡ điều trị vết thương mạn tính
Hiện nay hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng TBGM tham
gia vào quá trình sửa chữa vết thương nhờ khả biệt hóa thành các tế
bào của mô tại chỗ vết thương. TBGM tiết ra một số yếu tố hòa tan.
Đó là các yếu tố tăng trưởng và các cytokine tác động lên quá trình
liền vết thương như EGF, FGF-β, IGF, PDGF, TGF-β và VEGF.
TBGM cũng tham gia điều hòa miễn dịch thông qua khả năng tiết ra
các yếu tố tăng trưởng, cytokine tiền viêm và kháng viêm như IL-6,
IL-8, IL-12, TNF-α, IL-10, HGF và TGF-β... Bên cạnh đó TBGM
còn có khả năng thúc đẩy quá trình chuyển đổi các đại thực bào từ
kiểu hình M0 và M1 (gây nên tình trạng viêm tại chỗ VTMT) thành
5
kiểu hình M2 (có khả năng kháng viêm). Trong giai đoạn tăng sinh,
TBGM có tác động tích cực nhờ kích thích hình thành tăng sinh
mạch tân tạo. TBGM còn kích thích tăng sinh và tăng khả năng di cư
của nguyên bào sợi thông qua việc tiết ra các yếu tố tăng trưởng như
FGF-β, EGF, và PDGF-AA. TBGM cũng tham gia thúc đẩy tái tạo
lớp biểu mô, nhờ khả năng tiết ra các cytokine như KGF-1 và PDGFBB. Ở giai đoạn liền sẹo, TBGM được cho là đã tác động tích cực
làm giảm kích thước sẹo, cải thiện màu sắc của sẹo, giảm tỷ lệ sẹo
lồi, sẹo co kéo. Nhờ khả năng kích thích tăng hoạt động của hệ
enzyme phân hủy protein MMPs.
Trong điều trị vết thương, TBGM có thể được sử dụng ở
dạng tiêm trực tiếp vào vùng vết thương, phun lên bề mặt vết thương,
hoặc đưa TBGM lên tấm sau đó đắp lên bề mặt vết thương.
1.3. Một số nghiên cứu về tế bào gốc từ mô mỡ ở Việt Nam
Nhiều đề tài ứng dụng TBGM trong điều trị ở các chuyên
khoa khác nhau như đề tài: “Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tự thân
từ mô mỡ và tủy xương trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính”
đang được thực hiện tại bệnh viện Bạch Mai, theo quyết định sốSửa chữa và tái tạo
da
949/QĐ-BKHCN ngày 25 tháng 4 năm 2016. Hay đề tài: “Thử
nghiệm điều trị bệnh thoái hóa khớp gối bằng ghép tự thân hỗn hợp
tế bào gốc từ mô mỡ và huyết tương giàu tiểu cầu được tách chiết
bằng bộ Kit Extracttion và bộ PRP Pro” đang được thực hiện tại
bệnh viện Đại học Y-Dược, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2012, tại
Viện bỏng Quốc gia, đề tài: “Nghiên cứu quy trình tách tế bào gốc
mô mỡ và thử nghiệm chế tạo sinh phẩm dùng trong điều trị vết
thương, vết bỏng”, đây là đề tài tiềm năng nằm trong chương trình
KC10 đã được triển khai và nghiệm thu. Nhóm nghiên cứu của đề tài
đã phân lập thành công TBGM, xác định được đặc điểm của của
TBGM, chế tạo thành công tấm TBGM với 10 đặc điểm. Nối tiếp kết
6
quả của đề tài KC10, năm 2017 trong đề tài “Nghiên cứu xây dựng
quy trình tạo tấm tế bào gốc trung mô từ mô mỡ tự thân trong điều
trị vết thương mạn tính” do Viện bỏng Quốc gia chủ trì đã bổ xung
thêm hai đặc điểm của tấm tế bào gốc từ mô mỡ đó là các TBGM ở
các thời điểm nghiên cứu đều có cấu trúc nhiễm sắc thể và nồng độ
Tolemerase bình thường.
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Bệnh nhân trên 16 tuổi, có VTMT, điều trị nội trú tại khoa
Liền Vết Thương, Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác từ tháng 10 năm
2014 đến tháng 6 năm 2016.
- VTMT được định nghĩa theo Markova Alina và cs (2012):
VTMT là những vết thương có thời gian tồn tại trên 6 tuần.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân có vết thương do xạ trị hoặc do ung thư.
- Bệnh nhân mắc các bệnh truyền nhiễm: HIV, viêm gan B, C.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
- Đối với mục tiêu 1: Chúng tôi thực hiện mục tiêu này theo
phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Đối với mục tiêu 2: Để xác định hiệu quả của ghép TBGM
tự thân điều trị VTMT, chúng tôi tiến hành phương pháp nghiên cứu
can thiệp có so sánh trước sau.
2.2.2. Số bệnh nhân nghiên cứu
- Đối với mục tiêu 1: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước
lượng một tỷ lệ của nghiên cứu mô tả nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng
của các bệnh nhân có VTMT. Chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên 56 bệnh
nhân đễ thực hiện mục tiêu này.
7
- Đối với mục tiêu 2: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu đánh
giá hiệu quả điều trị của một nghiệm pháp (trong nghiên cứu này,
nghiệm pháp là sử dụng TBGM tự thân). Chúng tôi lựa chọn ngẫu
nhiên 30 bệnh nhân trong 56 bệnh nhân ở mục tiêu 1 để thực hiện
mục tiêu 2.
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
Các mốc thời gian nghiên cứu:
- T0: Trong 72 giờ đầu tiên khi bệnh nhân mới nhập viện
- T1: thời điểm ngay trước khi ghép TBGM
- T2: thời điểm ngày thứ 7 sau ghép TBGM
- T3: là thời điểm ngày thứ 15 sau ghép TBGM
- T4: là thời điểm ngày thứ 20 sau ghép TBGM.
Đối với mục tiêu 1: Tiến hành xác định các đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng tại thời T0.
Đối với mục tiêu 2: Tiến hành xác định các đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng tại thời điểm T1, T2, T3 và T4.
2.2.4. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
Xác định các chỉ tiêu như: Tuổi, giới tính, tiền sử bệnh, những
bệnh lý là nguyên nhân gây nên VTMT hoặc gián tiếp tác động lên
vết thương. Thời gian tồn tại vết thương , số lượng vết thương và vị
trí từng vết thương.
* Đặc điểm da vùng cận tổn thương (periwound skin): Xác
định tình trạng viêm cấp tính, biểu mô hóa, tăng sản mép vết thương,
xơ chai mép vết thương, độ ẩm và nhiệt độ vùng da cận tổn thương.
* Đặc điểm nền vết thương mạn tính: Xác định kích thước vết
thương, độ sâu vết thương, tính chất mô, dịch tiết, pH bề mặt VTMT.
* Nghiên cứu ghép tấm tế bào gốc từ mô mỡ
Chỉ định ghép:VTMT thỏa mãn các điều kiện sau:
- Vết thương sạch hoại tử, không lộ xương, gân.
8
- Vết thương không có dấu hiệu nhiễm khuẩn trên lâm sàng.
- Vết thương không có đường hầm, hàm ếch.
Tiến hành ghép tế bào gốc mỡ tự thân: Tại chỗ VTMT, tiến
hành rửa sạch vết thương và vùng da lành xung quanh vết thương
bằng dung dịch Clohexidine 4%. Sau đó rửa lại bằng dung dịch
Natriclorid 0,9% vô khuẩn. Thấm khô vết thương bằng gạc vô khuẩn.
Trải săng vô trùng. Cắt tấm TBGM từ transwell, lật úp mặt có TBGM
hướng về phía bề mặt vết thương, nhẹ nhàng ghép tấm TBGM tự
thân lên bề mặt vết thương, sao cho tấm tế bào che phủ toàn bộ bề
mặt vết thương, các tấm TBGM không chồng mép lên nhau. Đặt gạc
nhàu Vaselin vô khuẩn và 6 lớp gạc khô vô khuẩn lên trên tấm
TBGM, sau đó băng ép vết thương bằng băng cuộn hoặc băng dính
Urgocrèpe.
2.2.5. Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng
Tại các thời điểm nghiên cứu T0, T1, T2 T3 và T4 tiến hành:
* Xác định các chỉ số huyết học sinh hóa máu ngoại vi: Số
lượng hồng cầu, huyết sắc tố, bạch cầu, protein, albumin và men gan:
SGOT, SGPT.
* Cấy khuẩn bề mặt vết thương mạn tính: Định danh và định
lượng vi khuẩn /cm2.
* Xác định biến đổi cấu trúc trên tiêu bản nhuộm H&E và
siêu cấu trúc vết thương mạn tính trên kính hiển
vi điện tử truyền qua.
2.3. Phân tích và xử lý số liệu
Phân tích và xử lý theo phương pháp thống kê Y học bằng
phần mềm Intercool Stata 12.0.
9
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng vết thương
mạn tính
3.1.1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.1 và Biểu đồ 3.1: 56 bệnh nhân nghiên cứu với 71 vết
thương có độ tuổi trung bình 52,96 ± 18,19 (19-88 tuổi). Nam giới
chiếm tỷ lệ 62,5%, nữ giới là 37,5%. 94,64% bệnh nhân nghiên cứu có
bệnh kết hợp. Trong đó gặp nhiều nhất là chấn thương tủy sống (37,5%).
Thứ hai là bệnh tim mạch và đái tháo đường (9,64%). Thứ ba là tai biến
mạch máu não (5,36%).Nguyên nhân gây nên vết thương gặp nhiều nhất
là do tỳ đè (49,30%), thứ hai là nhiễm khuẩn mô mềm (29,58%), thứ ba
là đái tháo đường và chấn thương (7,04%).
3.1.2 Đặc điểm lâm sàng tại chỗ vết thương mạn tính
3.1.2.1. Một số đặc điểm chung
Biểu đồ 3.2+ Bảng 3.2 + 3.3: VTMT gặp nhiều nhất ở vùng
chi dưới (43,66%), thứ hai là vết thương ở vùng cùng cụt (39,44%),
thứ ba là vết thương ở vùng mấu chuyển (5,63%). 14,29% bệnh nhân
có 2 vết thương và 7,15% bệnh nhân có trên 3 vết thương. Hầu hết
VTMT không có dấu hiệu viêm cấp tính tại chỗ vết thương (76,06%).
3.1.2.2. Đặc điểm vùng da cận tổn thương của vết thương mạn tính
Bảng 3.4 +3.5 +3.6: Đặc điểm da vùng cận tổn thương
Đặc điểm
Số vết thương
Tỷ lệ %
Xơ chai
53
74,65
Tăng sản
48
67,61
Da ẩm ướt xung quanh VT
18
25,35
Da khô xung quanh VT
23
32,39
Không có biểu mô hóa
64
90,14
Nhiệt độ thấp hơn da lành
42
59,15
10
Nhận xét: VTMT có bờ mép xơ chai, tăng sản, da khô/ẩm ướt xung
quanh vết thương, nhiệt độ thấp hơn da lành và không có biểu mô hóa.
3.1.2.3. Đặc điểm lâm sàng vùng nền vết thương mạn tính
Bảng 3.7+ 3.8: VTMT có diện tích trung bình là 25,71 cm 2.
56,34%. VTMT có diện tích nhỏ hơn 20 cm 2, 31% có diện tích [2050) cm2. 90,14% VTMT có tổn thương độ III.
Bảng 3.7+ 3.8: Đặc điểm mô và dịch tiết tại chỗ vết thương
mạn tính
Đặc điểm
Số vết thương
Tỷ lệ %
Mô hạt phù nề
19
26,76
Mô biểu mô
3
4,23
Hoại tử
8
11,27
Lộ phần mềm dưới da
27
38,03
Tiết dịch nhiều
47
66,20
Dịch tiết màu trắng đục
40
56,34
pH kiềm
68
95,77
Nhận xét: VTMT tổn thương sâu biểu hiện có mô hạt viêm
phù nề, hoại tử, lộ mô tổ chức dưới da. VTMT tiể dịch nhiều chủ yếu
màu trắng đục. Bề mặt VTMT phần lớn có pH kiềm.
3.1.3. Một số đặc điểm cận lâm sàng ở thời điểm T0
3.1.3.1 Đặc điểm nhiễm khuẩn bề mặt vết thương mạn tính
Bảng 3.11 + 3.12: Đặc điểm nhiễm khuẩn bề mặt
VTMT:77,36% VTMT cấy khuẩn dương tính. Vi khuẩn chủ yếu gặp
P.aeruginosa (33,96%), S.aureus (13,21%), K.pneumonia và
Aci.baumanii (5,66%). Số lượng vi khuẩn P.aeruginosa, S.aureus,
Aci.baumanii và K.pneumonia đều lớn hơn 105 vi khuẩn /1cm2.
3.1.3.2. Đặc điểm cấu trúc vết thương mạn tính trên tiêu bản
nhuộm H&E
- Mô liên kết chân bì bị tổn thương. Khoảng gian bào hẹp,
11
không có biểu hiện phù viêm. Nhiều nguyên bào sợi nằm sát nhau, có
nhiều tế bào sợi và các sợi collagen chạy theo chiều hướng xoắn vặn.
- Lớp biểu bì tăng sản dày lên gồm nhiều lớp tế bào gai,
nhưng kém biệt hóa thành các lớp tế bào phía trên. Lớp chân bì
nguyên bào sợi và mạch máu thưa thớt. Vết thương mất lớp biểu bì.
Biểu bì bò ra nhưng mỏng và không thể che phủ vết thương do bề
mặt vết thương còn tổ chức hoại tử. Lớp hạ bì xâm nhiễm nhiều tế
bào viêm chủ yếu là tế bào Lympho, bạch cầu trung tính. Nguyên bào
sợi nằm cạnh các bó sợi collagen dày đặc, xoắn vặn. Có một vài tiểu
cầu mồ hô.
- Hình ảnh phù viêm với biểu hiện khoảng gian bào giãn
rộng. Tế bào còn hoại tử. Nhiều tế bào viêm chủ yếu là tế bào
lympho và đại thực bào. Các mạch máu xung huyết. Nguyên bào sợi
và collagen tăng sinh, nhưng chỉ tăng sinh ở một số vị trí.
- Bề mặt VTMT là đám hoại tử, dưới lớp hoại tử là màng
fibrin. Mô liên kết phù viêm rõ. Lớp hạ bì xâm nhiễm các tế bào
viêm chủ yếu là tế bào lympho. Mạch máu, nguyên bào sợi và
collagen thưa thớt.
3.1.3.3. Siêu cấu trúc vết thương mạn tính trên kính hiển vi điện tử
truyền qua
Hình ảnh siêu cấu trúc thấy phá hủy chất nền ngoại bào ở
đáy vết thương với biểu hiện: Hoại tử tế bào, phù viêm chất nền
ngoại bào (biểu hiện các khoảng gian bào dãn rộng). Nguyên bào sợi
kích thước lớn. Các sợi collagen chân bì bị dãn tách, thưa thớt, đứt
gãy phá hủy ở các mức độ khác nhau. Xuất hiện các tế bào viêm là
đại thực bào, bạch cầu đa nhân, tế bào lympho đang hoạt động.
3.2. Kết quả ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân điều trị vết
thương mạn tính
38 VTMT của 30 BN có thời gian tồn tại trung bình là 4,2 ±
12
2,68 tháng. Nguyên nhân gây nên VTMT gặp nhiều nhất là do nhiễm
khuẩn (39,47%), thứ hai là tỳ đè (31,58%), thứ ba là đái tháo đường
(10,53%). Diện tích VTMT được ghép là 23,73 ± 19,85 cm2. 97,37%
VTMT được ghép TBGM có tổn thương độ III. 60,53% ghép TBGM
ở vùng chi dưới, 31,58% ở vùng cùng cụt.
3.2.1. Biến đổi vùng cận tổn thương
Bảng 3.14 + 3.15: Biến đổi da vùng cận tổn thương
Thời điểm
T1
T2
T3
T4
Đặc điểm
(n=38)
(n=38)
(n=35)
(n=28)
VT
%
VT
%
VT
%
VT
%
Xơ chai
23 60,53 13 34,21 5 14,29
3
10,71
Tăng sản
19 50
14 36,84 6 17,14
2
7,14
Ẩm ướt
8 21,05
2
5,26
0
0
0
0
Khô hơn
11 28,95
3
7,89
1
2,86
0
0
Có biểu mô hóa
6 15,79 28 73,68 29 82,86 26 92,85
Nhiệt độ thấp
19
50
9 23,68 1
2,86
0
0
hơn da lành
Nhận xét: Sau ghép TBGM, VTMT có biểu mô hóa rõ, tỷ lệ
VTMT có mép xơ chai, tăng sản, ẩm ướt/ khô giảm rõ rệt. Nhiệt độ
dần trở về với nhiệt độ da bình thường.
3.2.2. Biến đổi nền vết thương mạn tính sau ghép tế
bào gốc từ mô mỡ
Bảng 3.16+3.17: Biến đổi nền vết thương mạn tính sau ghép
tế bào gốc từ mô mỡ
Thời điểm
T1
T2
T3
T4
Đặc điểm
(n=38)
(n=38)
(n=35)
(n=28)
VT
%
VT
%
VT
%
VT
%
Mô hạt đỏ đẹp
0
0
12 31,58 25 71,43 25 89,29
Tiết dịch nhiều
12 31,58
6 15,79 0
0
0
0
13
Dịch màu trắng
17 44,74 10 26,32 6 17,14
1
3,57
đục
pH Kiềm
38 100
30 78,95 10 28,57
4
14,29
Nhận xét: Sau ghép TBGM nền VTMT được cải thiện rỗ
ràng: Vết thương có mô hạt tăng nhanh. VTMT tiết dịch ít dần, pH
chuyển dàn từ bazơ sang pH trung tính và axít.
Bảng 3.18. Thay đổi kích thước vết thương sau ghép tế bào
gốc từ mô mỡ
Thời điểm
T1
T2
T3
T4
(n=38)
(n=38)
(n=35)
(n=28)
Đặc điểm
(1)
(2)
(3)
(4)
Diện tích VT
2
(cm )
( X ± SD)
(Min-Max)
P
(Wilcoxon
Test)
23,72 ± 19,85 17,69 ± 15,31 12,8 ± 11,56
(2,86 - 88,96)
(1 - 65,4)
(1 - 47,42)
P1-2 < 0,001;
P2-3 < 0,001;
7,44 ± 7,68
(0,45-33,53)
P3-4 < 0,001
Nhận xét: Kích thước VTMT sau ghép TBGM giảm rõ rệt
theo thời gian, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P < 0,001.
3.2.3. Biến đổi vi khuẩn bề mặt vết thương mạn tính sau ghép tế
bào gốc từ mô mỡ
Biểu đồ 3.5 + 3.6: Kết quả cấy khuẩn bề mặt VTMT âm tính
tăng theo thời gian 30% ở T1 tăng lên 72 % ở T4. Số lượng vi khuẩn
trên 1 cm2 diện tích bề mặt vết thương sau ghép TBGM giảm theo
thời gian. Tại thời điểm T0 số lượng P.aeruginosa là 495 x5x103 vi
khuẩn /cm2, đến thời điểm T4 chỉ còn 87 x5x103 vi khuẩn/cm2.
S.aureus tại thời điểm T0 là 358 x5x103 vi khuẩn /cm2 và thời điểm
T4 chỉ còn 50 x5x103 vi khuẩn/cm2. Số lượng vi khuẩn khác như
Aci.baumanii và K.pneumoniae đều giảm dần theo thời gian sau ghép
14
TBGM.
15
3.2.4. Hình thái cấu trúc và siêu cấu trúc vết thương mạn tính sau
ghép tê bào gốc từ mô mỡ tự thân
Thời điểm
Đặc điểm
T1
T2
T3
T4
Bề mặt VT
Mô đệm
Không có
biểu mô
Phù viêm
Collagen
đứt gãy,
thoái hóa
Một số
VT có
biểu mô
VT có
tăng sinh
biểu mô
Tăng sinh
biểu mô
phát triển
vào trung
tâm
Có cấu
trúc chân
bì
Phù viên
Tăng tạo
giảm
collagen,
Collagen
collagen
đứt gãy
xắp xêp
nhẹ
co trật tự
Thưa thớt Tăng sing
Có tăng
Tăng sinh
Mạch máu
và xắp
sinh rõ rệt
rõ rệt
xếp theo
trật tự
Thưa thớt
Có tăng
Tăng sinh Tăng sinh
Nguyên bào sợi
sinh
rõ rệt
rõ rệt
Xâm
Còn xâm
Còn xâm
Còn xâm
Tế bào viêm
nhiễm
nhiễm tế
nhiễm tế nhiễm ít tế
nhiều
bào viêm
bào viêm
bào viêm
3.2.6. Kết quả và thời gian điều trị vết thương mạn tính
Trong số 38 vết thương có 23 vết thương (60,53%) được
ghép TBGM đến khi vết thương liền hoàn toàn. 13/13 VTMT (đạt
100%) sau khi ghép TBGM được phẫu thuật ghép da, chuyển vạt che
phủ vết thương đã liền ngay sau lần phẫu thuật đầu tiên. Thời gian
điều trị trung bình là 58,47 ± 19,48 ngày.
3.2.7. Tác dụng không mong muốn khi ghép tế bào gốc từ mô mỡ
16
tự thân
100% bệnh nhân được ghép TBGM tự thân không có phản
ứng dị ứng, cũng như những bất thường toàn thân.
Bảng 3.22: Tác dụng không mong muốn khi ghép
tế bào gốc từ mô mỡ tự thân
Đặc điểm
Vết
Tỷ lệ %
thương
Không có bất thường, tấm TBGM bám VT
33
86,84
Mủ dưới tấm TBGM
3
7,89
Mô hạt phát triển phì đại
2
5,26
Tổng số
38
100
Nhận xét: Ghép TBGM có thể gặp mủ dưới tấm TBGM và/
hoặc mô hạt phát triển phì đại.
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm tại chỗ vết thương mạn tính
Phần lớn bệnh nhân có VTMT đều đã được điều trị vết
thương ở tuyến trước hoặc tự điều trị ở nhà, bởi vậy VTMT thường
có thời gian tồn tại dài ngày và mức độ phức tạp cao. Trong nghiên
cứu của chúng tôi thời gian tồn tại VTMT khá dài là 4,24 tháng.
Bệnh nhân không chỉ có một VTMT mà còn có 2 VTMT (chiếm
14,29%) và trên 3 VTMT (7,15%). VTMT thường gặp ở chi dưới và
vùng cùng cụt.
Nhiễm khuẩn tại chỗ vết thương thường được mô tả bởi các
triệu chứng kinh điển như: Sưng, nóng, đỏ, đau. Khi tiến hành đánh
giá tình trạng viêm tại chỗ VTMT, chúng tôi căn cứ vào các triệu
chứng này nhận thấy có tới 76,06% VTMT không có dấu hiệu viêm
cấp tính. Không có các triệu chứng này là do tại chỗ VTMT các vi
17
khuẩn thường sống thành cộng đồng, hình thành nên màng Biofilm,
các VTMT đã tồn tại dài ngày, BN lại có bệnh lý toàn thân kết hợp,
sử dụng corticoid dài ngày, suy mòn suy kiệt…
Tình trạng da vùng cận tổn thương phản ánh thực trạng tại
chỗ vết thương. Kết quả thu được VTMT có đặc điểm lâm sàng da
vùng cận tổn thương rất phong phú, với nhiều biểu hiện đặc trưng
như: Da vùng cận tổn thương của VTMT xơ chai (74,65%), tăng sản
(67,61%). Sở dĩ có đặc điểm trên, theo Harold Brem (2006) và
Olivera Stojadinovic (2005) nhận định mép VTMT các tế bào tập
trung hình thành lớp mô dày xung quanh mép vết thương như mô sẹo.
Ở VTMT tình trạng biểu mô thường không diễn ra hoặc diễn
ra không hoàn toàn. Trong nghiên cứu chúng tôi, 90,14% VTMT
vùng bờ mép không có biểu mô hóa và biểu hiện với nhiều hình thái
như bờ mép không bám đáy, bờ mép cuộn mép, có hàm ếch. Đây là
những hình thái làm cho VTMT không thể liền nhờ quá trình biểu mô hóa.
* Độ sâu và mô tại chỗ vết thương mạn tính: VTMT thường
có tổn thương sâu 90,14% vết thương có tổn thương toàn bộ lớp da.
Kết quả này cũng phù hợp nhận định của tác giả Robert Numan và cs
(2014), khi cho rằng VTMT thường là những vết thương tổn thương
sâu và tồn tại dài ngày. Tại chỗ vết thương, thông thường chúng ta
hay gặp một số loại mô chính như mô hoại tử (có hoại tử khô và hoại
tử ướt), mô hạt, mô biểu mô và tổ chức dưới da… Các loại mô được
phân biệt dựa vào màu sắc của mô, những đặc tính riêng biệt của mô,
cũng như vị trí giải phẫu. Việc xác định đúng các loại mô tại chỗ vết
thương nói chung và VTMT nói riêng giúp đề ra biện pháp điều trị phù hợp.
* Dịch tiết và pH bề mặt vết thương mạn tính: Ở VTMT
dịch tiết chứa vi khuẩn, xác bạch cầu, nồng độ cao các mediator viêm
và các enzyme phân hủy protein, chúng ức chế quá trình LVT. Sự
thay đổi màu sắc dịch tiết như là một dấu hiệu của tình trạng nhiễm
18
khuẩn tại chỗ vết thương và cần phải được xử trí sớm. Trong nghiên
cứu của chúng tôi không gặp màu sắc dịch vết thương đơn thuần,
chúng tôi chỉ gặp 2,82% VTMT có dịch tiết màu vàng trong. VTMT
có pH giao động từ 7,15-8,9. Những vết thương có pH kiềm thường
có tốc độ LVT chậm hơn pH trung tính. Những vết thương đang liền
pH sẽ chuyển sang axít. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thu được
phản ảnh những đặc điểm khá điển hình của VTMT khi có tới
95,77% VTMT có pH kiềm.
* Cấu trúc vi thể và siêu cấu trúc vết thương mạn tính:
VTMT gặp tình trạng lớp biểu bì tăng sản dày lên gồm nhiều lớp tế
bào gai, nhưng kém biệt hóa thành các lớp phía trên. Sở dĩ ở VTMT
có hiện tượng này là bởi vì có sự dư thừa phân tử c-Myc do β-catenin
kích hoạt sản xuất ra ở mép VTMT (c-Myc là một gene tham gia điều
hòa phiên mã tế bào). Trên hình ảnh siêu cấu trúc VTMT chúng tôi
thu được hình ảnh phá hủy chất nền ngoại bào ở đáy vết thương với
biểu hiện phù viêm chất nền ngoại bào. Các tế bào hoại tử với nhân
đông vón. Nguyên bào sợi kích thước lớn. Các sợi collagen chân bì
bị đứt gãy, dãn tách, thưa thớt, phá hủy ở các mức độ khác nhau.
Xuất hiện các tế bào viêm như bạch cầu Lympho đang hoạt động, đại
thực bào và bạch cầu đa nhân. Để giải thích cho tình trạng xơ hóa và
lão hóa tế bào tại chỗ VTMT, đa phần các tác giả đều cho rằng các tế
bào tại chỗ VTMT lão hóa là do tình trạng oxy hóa mô diễn ra mạnh
mẽ dẫn tới tổn hại DNA, dưới hình thức làm dừng vòng lặp lại của
chuỗi DNA, hoặc gây ra những thay đổi bất thường của chuyển hóa
tế bào.
* Đặc điểm nhiễm khuẩn tại chỗ vết thương mạn tính:
Khác biệt với VTCT thì hầu hết các VTMT đều chứa vi khuẩn. Ở
VTMT, suy giảm miễn dịch hoặc suy giảm hệ mạch có thể che lấp
các triệu chứng của nhiễm khuẩn, trong khi đó mô hoại tử hoặc các
19
yếu tố ngoại lai có thể làm tăng triệu chứng nhiễm khuẩn. Các chủng
vi khuẩn gặp với tỷ lệ cao nhất là P.aeruginosa với 33,96%, thứ 2 là
S.aureus với 13,21% và thứ ba là K.pneumonia và Aci.baumanii
chiếm tỷ lệ 5,66%. Có 4 vết thương dương tính với hai chủng vi khuẩn chiếm
tỷ lệ 7,55%.
4.2. Kết quả ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân
* Biến đổi da vùng cận tổn thương của vết thương mạn
tính sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân: Sau ghép TBGM tự
thân tình trạng da vùng cận tổn thương được cải thiện rõ rệt như giảm
tình trạng xơ chai, tăng sản và nhiệt độ da về bình thường, tỷ lệ
VTMT có biểu mô hóa thu hẹp kích thước vết thương tăng cao. Theo
tác giả Kyoung Mi Moon và cs (2012), khi nghiên cứu trên invitro về
vai trò của TBGM lên khả năng tăng sinh và di cư của tế bào sừng
nhận định: TBGM tiết ra các yếu tố tăng trưởng và cytokine như
HGF, FGF-1, G-CSF, GM-CSF, IL-6, VEGF và TGF-β3 tham gia
kích thích tăng trưởng và di cư của tế bào sừng. Tình trạng ẩm ướt da
vùng cận tổn thương của VTMT được cải thiện, kết hợp với tình
trạng tăng tưới máu nhờ tăng sinh mạch tân tạo da vùng cận tổn
thương của VTMT sau ghép TBGM tự thân có thể làm nhiệt độ da
vùng cận tổn thương của VTMT trở về bình thường.
* Biến đổi nền vết thương mạn tính sau ghép tế bào gốc từ mô
mỡ tự thân: Sau ghép TBGM tự thân tỷ lệ VTMT có mô hạt đỏ đẹp
tăng dần theo thời gian. Trong nghiên cứu của tác giả Won-Serk Kim
và cs (2007), TBGM và nguyên bào sợi được lấy của 23 phụ nữ khỏe
mạnh sau đó tiến hành các đánh giá tác dụng của TBGM lên nguyên
bào sợi trên Invitro. Nhóm tác giả nhận thấy TBGM kích thích làm
tăng khả năng tăng sinh, di cư cũng như khả năng chế tiết của nguyên
bào sợi. TBGM kích thích tăng sinh nguyên bào sợi không chỉ bằng
cơ chế tiếp xúc trực tiếp tế bào - tế bào mà còn do tác động của cơ
20
chế paracrine từ các yếu tố do TBGM tiết ra. Thông qua việc tác
động lên các mRNA, TBGM kích thích nguyên bào sợi chế tiết ra các
thành phần của chất nền ngoại bào như: Collagen týp I, III,
fibronectin và làm giảm tiết enzyme phân hủy protein MMP-1. Cùng
với việc kích thích nguyên bào sợi tổng hợp chất nền ngoại bào một
thành phần quan trọng trong hình thành mô hạt đỏ đẹp, TBGM còn
tham gia kích thích tăng sinh ra mạch máu tân tạo thông qua việc chế
tiết ra các yếu tố tăng trưởng, tăng sinh mạch như VEGF, HGF, FGF2
và biệt hóa thành các tế bào nội mô mạch máu.
Có nhiều yếu tố tác động lên tình trạng tiết dịch tại chỗ vết
thương như: Tình trạng toàn thân được cải thiện (những bệnh lý mạn
tính kết hợp được điều trị ổn định, hoặc những bệnh lý cấp tính ảnh
hưởng tới áp lực thẩm thấu được điều trị khỏi), hay tình trạng dinh
dưỡng của bệnh nhân tốt lên, các yếu tố ảnh hưởng tới áp lực thẩm
thấu như protein huyết thương, albumin huyết tương được bù đủ và ở
giới hạn bình thường. Sau ghép TBGM tự thân tình trạng dịch tiết tại
chỗ VTMT được cải thiện với tỷ lệ VTMT tiết dịch nhiều giảm rõ rệt,
đến thời điểm T2 chỉ còn 15,79% và không có vết thương nào tiết
dịch nhiều ở thời điểm T3 và T4. Việc duy trì liên tục tấm TBGM tự
thân có tác dụng làm giảm những sang chấn, ô nhiễm do băng, gạc
cũng như ảnh hưởng của quá trình di chuyển khi bệnh nhân đi lại.
Đây có thể là một yếu tố tích cực góp phần làm giảm tỷ lệ vết thương
tiết dịch nhiều. Bên cạnh đó TBGM được cho giúp cải thiện tình
trạng mô tại chỗ vết thương như tạo chất nền ngoại bào do khả năng
kích thích tăng sinh mạch, tăng sinh nguyên bào sợi cũng như vai trò
của nguyên bào sợi trong chế tiết các thành phần tham gia cấu tạo
nên chất nền ngoại bào. Mà ở đó khi mô tại chỗ VTMT được cải
thiện cùng với các yếu tố toàn thân ảnh hưởng tới tình trạng tiết dịch
được đảm bảo thì dịch tiết tại chỗ VTMT cũng sẽ giảm.
21
Về vai trò của TBGM trong việc làm thu hẹp kích thước VTM, nhiều
nghiên cứu của các tác giả khác nhau đều nhận định TBGM chế tiết
ra các yếu tố tăng trưởng, cytokine kích thích tăng sinh và di cư tế
bào sừng tham gia quá trình biểu mô hóa, nguyên bào sợi và mạch
máu tân tạo tham gia tạo nên chất nền ngoại bào và mô hạt tạo môi
trường thuận lợi cho quá trình biểu mô hóa được thực hiện. Ngoài ra
TBGM khi được ghép vào vết thương sẽ còn biệt hóa thành các thành
phần tham gia vào quá trình làm LVT như tế bào biểu mô, tế bào nội
mô mạch máu, làm tăng mật độ mạch máu tân tạo và thúc đẩy quá
trình biểu mô hóa. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thu được nhận
thấy tỷ lệ % thu nhỏ kích thước vết thương theo thời gian tăng lên rõ
rệt sau ghép TBGM tự thân. So với thời điểm trước ghép, sau ghép
TBGM tự thân 7 ngày kích thước vết thương giảm 30,38%, sau 15
ngày giảm 53,93% và sau 20 ngày giảm 71,5%.
* Biến đổi cấu trúc và siêu cấu trúc vết thương mạn tính
sau ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân: Vai trò của TBGM lên quá
trình LVT đều liên quan đến khả năng chống viêm, khả năng tồn tại
của TBGM tại chỗ vết thương. TBGM tham gia vào hoạt động điều
tiết miễn dịch nhờ khả năng tiết ra các yếu tố trung gian hòa tan và
tương tác trực tiếp với các tế bào trình diện kháng nguyên như các tế
bào đuôi gai, tế bào T, tế bào B, và đại thực bào. TBGM có khả năng
bất hoạt các tế bào trình diện kháng nguyên, nhờ tiết ra các cytokine
kháng viêm như Interlekin-10 và các TGF-β hoạt động. Trong kết
quả nghiên cứu của chúng tôi trên tiêu bản siêu cấu trúc thể hiện: Cấu
trúc chất nền ngoại bào sau ghép TBGM được cải thiện rõ rệt theo
thời gian như giảm tình trạng viêm (không thấy phù viêm ở khoảng
gian bào) vào các ngày thứ 15 và 20 sau ghép TBGM tự thân. Các
nguyên bào sợi tăng sinh và tăng hoạt động. Biểu hiện là lưới nội bào
có hạt trong bào tương của nguyên bào sợi phát triển mạnh. Bào
22
tương của nguyên bào sợi chứa nhiều vi tơ collagen. Các bó collagen
do nguyên bào sợi chế tiết ra nằm thành bó mỏng chạy song song
cùng hướng với nguyên bào sợi ngay sau 7 ngày ghép TBGM tự
thân. Xuất hiện mạch máu tân tạo và tăng sinh các tế bào biểu mô.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu trên thực nghiệm chứng minh rằng
TBGM có thể biệt hóa thành các loại tế bào khác nhau khi cấy ghép,
như nguyên bào xương, tế bào giống tế bào sừng hay mạch máu. Để
xác định vai trò này của TBGM các tác giả đã tiến hành nhuộm hóa
mô miễn dịch đặc hiệu cho mỗi loại tế bào, hoặc nuôi cấy TBGM
trong môi trường đặc hiệu của tế bào đó. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, mới dừng lại ở đánh giá tác dụng của ghép TBGM tự thân
lên quá trình LVT của VTMT.
* Đặc điểm nhiễm khuẩn tại chỗ vết thương mạn tính sau
ghép tế bào gốc từ mô mỡ tự thân: Do các VTMT đều đã được chăm
sóc để đạt tiêu chuẩn ghép TBGM đó là không có triệu chứng nhiễm
khuẩn trên lâm sàng. Tuy nhiên ở thời điểm T1 chúng tôi vẫn nhận
thấy có đến 70% số mẫu dương tính với vi khuẩn, sự có mặt của các
chủng vi khuẩn trên bề mặt VTMT vẫn còn rất phong phú với sự xuất
hiện hầu hết các chủng vi khuẩn thấy ở thời điểm T0 như
P.aeruginosa, S.aureus, K.pneumoniae, Aci.baumanii, E.coli. Sau
ghép TBGM hầu hết số lượng vi khuẩn/cm2 cũng như tỷ lệ xuất hiện
của các chủng vi khuẩn đều giảm dần theo thời gian. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận định của tác giả Anna
Krasnodembskaya và cs (2010) khi cho rằng TBG trung mô của
người có tác dụng kháng khuẩn nhờ tiết ra peptide LL-37 có tác dụng
ức chế sự phát triển của các vi khuẩn gram âm (E.coli, P.aeruginosa)
và vi khuẩn gram dương như S.aurues. Bên cạnh đó theo Amy
L.Strong và cs (2015), TBGM trong quá trình biệt hóa còn tiết ra các
cytokine tiền viêm và cytokine kháng viêm (Pro and – Anti-
23
inflammatory Cytokines) như IL-6, IL10, IL11, IL-12, IL13, IL-17,
IL-18, Il-35, TNF, cylooxygenase2 (COX2), stanniocalcin 1 (STC-1)
được cho tham gia thúc đẩy khả năng thực bào và giết vi khuẩn. Tuy
nhiên ngoài các yếu tố trên về mặt lâm sàng chúng tôi nhận thấy tỷ lệ
nhiễm khuẩn kèm theo số lượng vi khuẩn/cm2 giảm sau ghép TBGM
còn chịu tác động của nhiều yếu tố. Như tình trạng toàn thân của
bệnh nhân khi các bệnh kết hợp diễn biến ổn định, toàn trạng bệnh
nhân ổn định sẽ tác động đến khả năng đề kháng của cơ thể với vi
khuẩn tại chỗ VTMT. Trong phần bàn luận về dịch tiết và pH sau
ghép TBGM, chúng tôi đã đề cập việc duy trì tấm TBGM liên tục
trên bề mặt VTMT có tác dụng làm giảm ô nhiễm từ môi trường, từ
băng gạc lên VTMT.
* Kết quả điều trị và tác động không mong muốn khi ghép
tế bào gốc từ mô mỡ tự thân: Ghép TBGM tự thân được xác định
như là một biện pháp điều trị hỗ trợ giúp làm LVT của bệnh nhân, rút
ngắn thời gian điều trị nhưng không làm ảnh hưởng tới tình trạng
bệnh lý toàn thân. Trong 38 VTMT được ghép TBGM tự thân chúng
tôi đã tiến hành phẫu thuật chuyển vạt hoặc ghép da để làm LVT cho
34,21% vết thương. Các bệnh nhân được phẫu thuật trong nghiên cứu
của chúng tôi đều được ghép TBGM tự thân tối thiểu 15 ngày trước
khi tiến hành phẫu thuật. 100% vết thương liền ngay sau lần phẫu
thuật đầu tiên. 100% da ghép cũng như vạt da bám sống trên nền vết
thương.
* Tác dụng không mong muốn khi ghép tế bào gốc từ mô
mỡ tự thân: Các chế phẩm tự thân được sử dụng khá phổ biến trong
y học tái tạo. Vì các chế phẩm này được cho là dễ dàng được cơ thể
bệnh nhân tiếp nhận, ít gặp phản ứng thải loại, cũng như các biến
chứng và tác dụng không mong muốn sau cấy ghép. Hiện nay cũng
chưa có thông báo chính thức nào về những tác hại không mong