Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

“Thực trạng và giải pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện trường đại học tài chính quản trị kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 64 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC............................................................................................................1
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN KHÍCH SINH VIÊN KHAI
THÁC NGUỒN TƯ LIỆU HỌC TẬP TẠI THƯ VIỆN..................................6
1.1. Một số khái niệm..........................................................................................6
1.2. Vai trò của thư viện trường đại học............................................................8
1.2.1. Vai trò của thư viện trong công tác đổi mới phương pháp học tập.............9
1.2.2. Vai trò của thư viện trong công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên...10
1.3. Các biện pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập
tại thư viện..........................................................................................................11
1.3.1. Biện pháp đổi mới phương pháp dạy và học.............................................11
1.3.2. Biện pháp đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá........................................12
1.3.3. Biện pháp tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên......13
1.3.4. Biện pháp đổi mới hoạt động thư viện......................................................13
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc khuyến khích sinh viên khai thác nguồn
tư liệu học tập tại thư viện................................................................................14
1.4.1. Yếu tố chủ quan.........................................................................................14
1.4.2. Yếu tố khách quan.....................................................................................15
Chương 2. THỰC TRẠNG KHUYẾN KHÍCH SINH VIÊN KHAI THÁC
NGUỒN TƯ LIỆU HỌC TẬP TẠI THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI
CHÍNH - QUẢN TRỊ KINH DOANH.............................................................19
2.1. Giới thiệu sơ lược về thư viện Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh
doanh..................................................................................................................19
2.2. Thực trạng khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại
thư viện trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh............................21
2.2.1. Công tác đổi mới phương pháp dạy và học...............................................21
2.2.2. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá.........................................................22
2.2.3. Triển khai hoạt động sinh viên nghiên cứu khoa học...............................23



2.2.4. Đổi mới hoạt động thư viện.......................................................................23
2.3. Phân tích số liệu khảo sát về thực trạng sinh viên khai thác nguồn tư
liệu học tập tại thư viện.....................................................................................24
2.3.1. Thực trạng sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện............24
2.3.2. Yếu tố ảnh hưởng việc khuyến khích sinh viên khai thác tư liệu học tập tại
thư viện................................................................................................................26
2.3. Một số đánh giá được rút ra từ thực trạng..............................................29
2.3.1. Kết quả đạt được.......................................................................................29
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân...........................................................................30
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHUYẾN KHÍCH SINH VIÊN KHAI
THÁC NGUỒN TƯ LIỆU HỌC TẬP HIỆU QUẢ TẠI THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – QUẢN TRỊ KINH DOANH...............34
3.1. Giải pháp đối với sinh viên........................................................................34
3.2. Giải pháp vốn tư liệu học tập tại thư viện................................................35
3.3. Giải pháp đối với thư viện........................................................................36
3.4. Nhóm giải pháp đối với nhà trường..........................................................41
KẾT LUẬN........................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thư viện là nơi cung cấp nền tảng kiến thức cho công tác đào tạo, nghiên
cứu, các hoạt động phát triển khoa học công nghệ và đó là trái tim tri thức của
một trường Đại học. Bởi, ở hầu hết các trường đại học, đặc biệt là các trường
đào tạo theo hệ thống tín chỉ, thì hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên
diễn ra thường xuyên. Thư viện lưu trữ, bổ sung và cập nhật những thông tin,

giáo trình, tài liệu tham khảo, các tư liệu điện tử,… phục vụ cho hoạt động tìm
kiếm tài liệu, nghiên cứu khoa học của sinh viên; mở rộng điều kiện học tập cho
sinh viên cả về không gian, thời gian. Như vậy, thư viện giữ vị trí quan trọng
trong việc hỗ trợ công tác học tập và giảng dạy.
Để dạy và học có hiệu quả cao thì việc tăng thời gian tự học của sinh viên
với sự trợ giúp của thư viện là điều hết sức cần thiết. Có thể nói rằng thư viện
trong trường đại học có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính độc lập, sáng
tạo của sinh viên. Người sinh viên phải học một cách thông minh hơn, chủ động
hơn qua việc phân tích, tổng luận những tài liệu tra tìm được ở thư viện. Từ đó,
sẽ xóa bỏ lối học thụ động, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu, kích thích
sự chủ động của sinh viên. Thư viện chính là điểm đến của sinh viên có thái độ
học tập đúng đắn. Để có động cơ tích cực học tập, người học phải tự ý thức được
hoặc cần được giúp đỡ để nhận thức được rằng học trước hết là cho bản thân
mình và chính mình là người phải biết cách biến kiến thức chưa khai phá thành
tài sản riêng. Đồng thời, quá trình đào tạo đại học phải giúp sinh viên biết rèn
luyện việc tự học và duy trì việc học suốt đời.
Hiện nay, thư viện là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong toàn
bộ hệ thống đào tạo của một trường học nói chung và Trường Đại học Tài chính
- Quản trị kinh doanh nói riêng. Nhà trường áp dụng hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ cho các ngành đào tạo nên vai trò của thư viện phải được quan tâm
hơn nhằm tăng cường hiệu quả học tập cho sinh viên để đáp ứng yêu cầu đổi
mới của hình thức đào tạo trong toàn trường. Với hình thức đào tạo này thì sinh


2
viên tự học là chính, không còn việc “thầy đọc - trò chép” như trước đây, thời
gian trên lớp cho sinh viên chỉ chiếm 1/3, còn lại sinh viên phải tự nghiên cứu và
tự học. Do vậy, việc sinh viên đến thư viện khai thác tư liệu học tập là rất quan
trọng, không chỉ là nơi để ngồi học mà còn là kỹ năng tự học của sinh viên, biết
khai thác hiệu quả thư viện bằng cách đọc sách, cách sử dụng tài liệu tham

khảo… để tự học, tự nghiên cứu. Với phương pháp giảng dạy và học tập mới
mỗi sinh viên cần phải coi thư viện là “giảng đường thứ hai” thì mới có thể hoàn
thành được những yêu cầu về khối lượng cũng như chất lượng kiến thức của các
môn học.
Tuy nhiên, một thực tế đặt ra hiện nay sinh viên của trường “rất lười đến
thư viện” để khai thác nguồn tư liệu học tập. Sự phụ thuộc vào người dạy đã dẫn
đến tâm lí ỷ lại, sinh viên chỉ học trong giáo trình, không tìm đọc các tài liệu
tham khảo. Chính điều này đã làm giảm mong muốn được học hỏi, khám phá,
dẫn đến việc nhiều sinh viên chưa có khả năng tự học, chưa nhận thức rõ vị trí
và vai trò của thư viện trong việc trong việc hỗ trợ học tập và nghiên cứu. Liệu
phương pháp học tập của sinh viên như vậy có thể đáp ứng với yêu cầu của
phương thức đào tạo mới cũng như việc lĩnh hội làm giàu tri thức bản thân.
Đứng trên quan điểm là những sinh viên trẻ tuổi đang sinh sống và học tập tại
Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh, chúng tôi nhận thức rất rõ vai
trò khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện với việc học của sinh viên.
Xuất phát từ những lý do trên nhóm nghiên cứu chọn đề tài “Thực trạng
và giải pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư
viện Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh” làm đề tài nghiên cứu
khoa học và công nghệ của sinh viên là một việc cần thiết và có ý nghĩa thiết
thực.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, với vai
trò là “giảng đường thứ 2”, là “trái tim của trường đại học”, hoạt động thư viện
trong các trường đại học đóng vai trò quan trọng, là điều kiện cần thiết đáp ứng


3
yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học và nâng cao chất lượng đào tạo.Vì vậy,
đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến thư viện.
Thạc sĩ Trần Thị Kiều Phương (2011), “Giải pháp nguồn tin điện tử phục

vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Ngoại Thương”.
Trên cơ sở khảo sát nguồn tin điện tử của thư viên trường Đại học Ngoại
Thương đề tài xác định được phương hướng và xác định giải pháp nâng cao và
phát triển nguồn tin điện tử của trường nhằm phục vụ công tác học tập nghiên
cứu cũng như học tập của sinh viên và cán bộ nhân viên trường.
Thạc sĩ Lê Ngọc Oánh (2006), “Thư viện góp phần đổi mới phương pháp
giảng dạy và học tập ở bậc đại học”, Bản tin Thư viện - Công nghệ thông tin
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết bàn về
vai trò của thư viện đối với nhà trường; mục đích, chức năng, nhiệm vụ của thư
viện và các giải pháp nâng cao chất lượng thư viện trường học.
Lê Quỳnh Chi (2011), “Thư viện đại học và việc đổi mới phương pháp
học tập của sinh viên” được in trong tạp chí khoa học Đại học sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đăng ngày 07-9-2011. Bài viết nói về thư viện và việc đổi mới
phương pháp học tập của sinh viên, đưa ra nhiều phương pháp, thư viện tạo
động cơ học tập, hình thành thói quen tra cứu tham khảo tài liệu nhằm đổi mới
phương pháp học tập của sinh viên, từng bước hình thành kĩ năng đọc tài liệu, kĩ
năng tìm kiếm, khai thác nguồn thông tin đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp
học tập. Thư viện trường đại học là một nơi để sinh viên học tập nghiên cứu
tham khảo tài liệu. Là một môi trường rèn luyện không thể thiếu để sinh viên
phát huy khả năng độc lập, tư duy, sáng tạo.
Nguyễn Thị Lan Thanh (2004), “Thư viện các trường đại học với việc
nâng cao chất lượng giáo dục đại học”, tham luận tại Hội thảo “Đổi mới giáo
dục đại học Việt Nam - Hội nhập và thách thức”, Hà Nội. Nói về vai trò của thư
viện trường đại học với việc nâng cao chất lượng nền giáo dục đồng thời đưa ra
nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở Việt Nam.


4
ThS. Phạm Thị Trang Nhung và ThS. Phạm Tiến Toàn (2014), “Bàn về
nguồn học liệu phục vụ sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa

học theo phương thức đào tạo tín chỉ các trường đại học”, Trường Đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên chú trọng đến vai trò thư viện, định hướng
phát triển thư viện. Tuy nhiên, trường Đại học Tài chính Quản trị kinh doanh
cho đến nay chưa có công trình khảo sát, nghiên cứu thực trạng và giải pháp
khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện trường. Nên
đề tài nhóm tác giả chọn không trùng lắp với các công trình, bài viết đã công bố.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ tiếp thu và kế thừa các thành
quả khoa học của các công trình đi trước nhằm làm rõ những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra và tìm ra các giải pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư
liệu học tập tại thư viện trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng khuyến khích sinh viên khai thác
nguồn tư liệu học tập tại thư viện. Từ đó, đưa ra một số giải pháp để khuyến
khích việc sinh viên đến thư viện học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, uy
tín của nhà trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư
viện
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh.
- Về thời gian tiến hành nghiên cứu: năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, phương pháp thu thập số liệu:
- Số liệu sơ cấp: Nghiên cứu tiến hành khảo sát đối tượng là sinh viên
năm thứ nhất, năm thứ hai và năm thứ ba trường Đại học Tài chính - Quản trị
kinh doanh. Phiếu khảo sát được phát trực tiếp cho đối tượng khảo sát theo



5
phương pháp chọn mẫu thuận tiện để thu thập số liệu sơ cấp. Tổng số phiếu phát
ra là 220 phiếu, tổng số thu về là 210 phiếu. Sau khi sàng lọc và loại bỏ các
phiếu không đạt yêu cầu, số phiếu đưa vào phân tích là 201 phiếu hợp lệ. Ngoài
ra, đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn cán bộ thư viện và quan sát thực địa.
- Số liệu thứ cấp: nghiên cứu các quyết định, sách, báo, tài liệu và các
trang web có liên quan đến vấn đề nghiên cứu; thu thập số liệu từ thư viện.
Thứ hai, phương pháp phân tích và xử lý số liệu:
- Phương pháp phân tích: Phân tích, đánh giá thực trạng khuyến khích
sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tại thư viện trường Đại học Tài chính Quản trị kinh doanh.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng các công cụ thống kê để xử lý
kết quả thu thập được từ phương pháp điều tra nhằm rút ra kết luận khách quan .
Nghiên cứu sử dụng Excel 2010 để xử lý và phân tích số liệu.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư
liệu học tập tại thư viện
Chương 2. Thực trạng khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học
tập tại thư viện Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
Chương 3. Một số giải pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư
liệu học tập hiệu quả tại thư viện Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh
doanh


6
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN KHÍCH SINH VIÊN KHAI
THÁC NGUỒN TƯ LIỆU HỌC TẬP TẠI THƯ VIỆN
1.1. Một số khái niệm

Thư viện là “Tổ chức hay bộ phận của tổ chức trong đó các kho thư viện
được lập, duy trì và sẵn sàng cho mượn nhờ các dịch vụ của một đội ngũ nhân
viên”.[15, tr.2]
Năm 1970, khi đề nghị chuẩn hóa quốc tế về lĩnh vực thư viện - thông tin,
UNESCO đã đưa ra định nghĩa về thư viện: “Thư viện, không phụ thuộc vào tên
gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kỳ hoặc
các tài liệu khác, kể cả đồ họa nghe nhìn và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ
chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu
khoa học, giáo dục hoặc giải trí”.
Thư viện đại học được thành lập và quản lý bởi các cơ quan giáo dục và
nghiên cứu đại học. Theo định nghĩa của tác giả Reitz (2005) trong cuốn “Từ
điển thông tin thư viện” thì thư viện trường đại học là “một thư viện hoặc một hệ
thống thư viện do nhà trường thành lập, quản lý và cấp ngân sách hoạt động để
đáp ứng các nhu cầu về thông tin, tra cứu và thông tin về môn học của sinh viên,
các khoa và cán bộ của trường”. [20]
Theo định nghĩa này ta thấy: thư viện trong trường đại học có thể là một
thư viện và cũng có thể là một hệ thống thư viện. Cũng theo tác giả thì hệ thống
thư viện là một một tập hợp các thư viện chịu sự quản lý chung; cũng có thể là
một nhóm các thư viện quản lý độc lập liên kết với nhau, chính thức hay không
chính thức cùng thỏa thuận đạt đến một mục đích chung, mỗi thư viện được xem
như là một thành viên. Hình ảnh rõ nhất của sự liên kết này là một trường đại
học đa ngành, đa lĩnh vực đào tạo với các cơ sở thông tin độc lập liên kết với
nhau bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu liên kết đào tạo và
chia sẻ tài nguyên thông tin cũng như cơ sở vật chất.


7
Tư liệu nói chung là một khái niệm tương đối rộng. Tư liệu là những
thông tin rút ra từ tài liệu viết tay, in ấn, từ các đồ vật như: công cụ sản xuất,
công trình kiến trúc, đồ dùng cá nhân, phim ảnh, băng hình, internet… và là

những thông tin sống động từ con người.
Tư liệu xuất phát từ 3 nguồn cơ bản: Con người, môi trường vật chất xung
quanh và các văn bản, sách báo, giấy tờ... Phân chia theo tính chất tồn tại của tư
liệu gồm tư liệu động: là những tư liệu sống động từ thực tế và tư liệu tĩnh: là tư
liệu cố định trong các văn bản, giấy tờ…
Theo nhóm nghiên cứu từ khái niệm tư liệu thì tư liệu học tập là các
phương tiện vật chất lưu giữ, mang hoặc phản ánh nội dung học tập của môn học
thuộc chương trình giáo dục được người học sử dụng làm phương tiện và nguồn
để học tập theo mục tiêu và nội dung của chương trình và được giáo viên sử dụng
làm căn cứ để tổ chức, hỗ trợ học tập theo đúng mục tiêu và nội dung dạy học.
Khuyến khích là một quá trình tác động đến tinh thần để khuyên và động
viên khích lệ tạo sự hăng hái, phấn chấn, tin tưởng mà cố gắng. Đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển nhằm đạt được mục đích.
Khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện là tác
động đến nhận thức và hành vi của sinh viên nhằm thu hút họ đến thư viện. Tại
thư viện sinh viên khai thác các thông tin, tư liệu khoa học và công nghệ, nghiên cứu
và học tập của giảng viên và sinh viên; lưu trữ bản gốc các luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ đã bảo vệ tại trường, các kết quả nghiên cứu khoa học, các ấn phẩm của
trường. Thông qua biện pháp khuyến khích động viên sẽ nuôi dưỡng thói quen
và sự hứng thú cho sinh viên đến thư viện khai thác nguồn tư liệu phục vụ học
tập. Đồng thời phát triển tính tự giác, tích cực và tính độc lập nhận thức, khắc
phục tính thụ động, ỷ lại vào thầy hoặc người khác. Giúp sinh viên làm quen với
cách làm việc độc lập, cơ sở để nâng cao học vấn đáp ứng sự phát triển của khoa
học kỹ thuật trong thực tiễn công tác sau này. Bồi dưỡng hứng thú học tập, rèn
luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, nâng cao niềm tin và năng
lực bản thân.


8
Sinh viên đến thư viện khai thác tư liệu là hoạt động không thể thiếu để

đảm bảo cho sinh viên hoàn thành tốt các nhiệm vụ của quá trình học tập nên
việc khuyến khích sinh viên đến thư viện giúp sinh viên không ngừng nâng cao
chất lượng và hiệu quả học tập, nâng cao trình độ văn hoá chung cho mình để
đáp ứng yêu cầu của cuộc sống đặt ra có thói quen và có phương pháp tự học
suốt đời.
1.2. Vai trò của thư viện trường đại học
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, với vai
trò là “giảng đường thứ 2”, là “trái tim của trường đại học”, hoạt động thư viện
trong các trường đại học đóng vai trò quan trọng, là điều kiện cần thiết đáp ứng
yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học và nâng cao chất lượng đào tạo. Chính
vì vậy, những năm qua việc đầu tư nâng cao năng lực, hiện đại hoá hoạt động
thông tin thư viện trong các trường đại học luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao của Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp, điều này đã được thể hiện trong
các Văn kiện đại hội Đảng; Pháp lệnh thư viện; Chiến lược phát triển giáo dục;
Các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính. Quyết định số
37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh quy
hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020 đã khẳng
định: “Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện ở
các trường, hình thành hệ thống thư viện điện tử kết nối các trường trên cùng
địa bàn, cùng một vùng và trên phạm vi toàn quốc; Thiết lập mạng thông tin
toàn cầu và mở rộng giao lưu quốc tế cho tất cả các trường đại học, cao đẳng
trong cả nước; Quy hoạch, sắp xếp lại công tác xuất bản giáo trình, sách và tài
liệu tham khảo...”.[13, tr.3]
Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều
lệ trường đại học, quy định tổ chức và hoạt động của trường đại học, tại khoản 1,
điều 18, đã quy định: “Thư viện, trung tâm thông tin tư liệu của nhà trường có
nhiệm vụ cung cấp các thông tin, tư liệu khoa học và công nghệ phục vụ giảng dạy,
nghiên cứu và học tập của giảng viên và sinh viên; lưu trữ bản gốc các luận văn



9
thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ tại trường, các kết quả nghiên cứu khoa học, các ấn
phẩm của trường. Thư viện, trung tâm thông tin tư liệu hoạt động theo quy chế do
Hiệu trưởng ban hành, phù hợp với pháp luật về thư viện, pháp luật về lưu trữ và
các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan”. [14, tr5]
Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp thông tin phục vụ hoạt động đào tạo và
nghiên cứu tại trường đại học, thư viện còn là một tiêu chí quan trọng để đánh
giá trong kiểm định chất lượng và xếp hạng trường đại học. Bộ giáo dục và đào
tạo đã ban hành Quyết định số 65/2007/ QĐ-BGDĐT, ban hành Quy định về
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học. Tại Điều 12, Tiêu chuẩn
9: Thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác quy định: “Thư viện
của trường đại học có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt
và tiếng nước ngoài đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và
người học. Có thư viện điện tử được nối mạng, phục vụ dạy, học và nghiên
cứu khoa học có hiệu quả”. [2, tr4]
1.2.1. Vai trò của thư viện trong công tác đổi mới phương pháp học tập
Đổi mới giáo dục Đại học trong những năm gần đây đặt ra yêu cầu bức
thiết phải đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập. Để hoạt động giảng dạy và
học tập đạt chất lượng cao mỗi giảng viên và sinh viên phải hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình.
Trong công tác đổi mới phương pháp học tập, nhiệm vụ của sinh viên là
nhận nội dung bài tập, các vấn đề, câu hỏi mà giảng viên giao sau đó tiến hành
tự học, tự nghiên cứu theo phạm vi vấn đề, định hướng câu hỏi của giảng viên.
Kết quả của phương pháp học tập như vậy sẽ hình thành cho người học kỹ năng
chọn lựa thông tin, phân tích, so sánh, đánh giá tổng hợp những kiến thức thu
thập được để đưa ra những kết luận cần thiết. Với phương pháp học tập như thế
người học luôn phải chủ động trong việc chiếm lĩnh các tri thức. Để thực hiện
tốt hình thức đào tạo mới này, giảng viên lên lớp không diễn giải lý thuyết dài
dòng mà nêu vấn đề để cả lớp cùng thảo luận hay ấn định một vấn đề cần nghiên
cứu để các sinh viên cùng thảo luận trong các buổi học sau.



10
Ở môi trường Đại học, thư viện trở thành một trong những nơi cung cấp
tri thức hiệu quả nhất cho sinh viên. Thư viện phải đóng vai trò quan trọng trong
công tác hỗ trợ học tập. Thư viện tìm cách thu hút người đọc bằng tiện ích mà
công nghệ thông tin đem lại, tạo ra không gian cho việc đọc sách, tự học, phòng
truy cập internet, tạo điều kiện cho sinh viên có thể đến thư viện học một mình,
học theo nhóm, hoặc trao đổi những thông tin thu nhận được từ kho tài liệu của
thư viện. Bên cạnh đó, vai trò cán bộ thư viện sẽ năng động hơn, không đơn
thuần chỉ là thủ thư trông coi kho sách mà phải là người hướng dẫn bạn đọc tìm
kiếm, khai thác thông tin, tư vấn cho bạn đọc các tài liệu cần cho môn học. Qua
tầm vóc, quy mô của thư viện ta cũng có thể đánh giá được phần nào quy mô,
chất lượng đào tạo của trường Đại học đó. Với phương pháp học tập mới, mỗi
sinh viên cần phải coi thư viện là “giảng đường thứ hai” thì mới có thể hoàn
thành được những yêu cầu về khối lượng cũng như chất lượng kiến thức của các
môn học. Thư viện là nền tảng phục vụ việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu tại
trường đại học.
1.2.2. Vai trò của thư viện trong công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên
Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đòi hỏi ở thư viện một khả
năng cung cấp thông tin và các dịch vụ kèm theo ngày càng mở rộng và ở trình
độ cao. Đồng thời, chính từ việc nghiên cứu đó đã trực tiếp tạo ra nguồn thông
tin khoa học ngay tại thư viện nhà trường một khối lượng ngày càng lớn. Nhìn
chung, có thể thấy: khả năng cung cấp và quản lí thông tin của thư viện luôn đòi
hỏi ngày một cao hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn. Đó là thực tế và nó luôn đặt
ra thách thức to lớn đối với hoạt động của thư viện. Vì vậy vai trò của thư viện
được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu khoa học là :
- Bảo đảm việc đáp ứng các nhu cầu thông tin được hình thành trong các
quá trình nghiên cứu.
- Cung cấp điều kiện khai thác, truy cập và các dịch vụ tương ứng đến

nguồn thông tin theo yêu cầu sinh viên.


11
- Cung cấp các dịch vụ thông tin cần thiết để sinh viên có khả năng kiểm
soát và khai thác được các nguồn thông tin hiện có làm tư liệu cho hoạt động
nghiên cứu của mình.
- Cung cấp các dịch vụ trao đổi thông tin, giúp sinh viên thuận lợi trong
quá trình nghiên cứu
1.3. Các biện pháp khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu
học tập tại thư viện
1.3.1. Biện pháp đổi mới phương pháp dạy và học
Nói đến đổi mới phương pháp dạy và học là nói đến đổi mới hoạt động
của cả giảng viên và sinh viên. Thư viện đại học đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng đối với cả giảng viên và sinh viên trong quá trình đổi mới phương pháp
dạy và học. Theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, bắt đầu từ năm học 2007-2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
đưa ra lộ trình đào tạo học chế tín chỉ trong hệ thống giáo dục Đại học Việt Nam
[1]. Để thực hiện tốt quy chế này đòi hỏi phải có sự chuyển biến toàn diện về
cách vận hành chương trình đào tạo, mô hình quản lý đào tạo cũng như cơ sở vật
chất phục vụ học tập trong các trường Đại học và Cao đẳng; đặc biệt, vai trò của
thư viện đối với hình thức đào tạo tín chỉ sẽ ngày càng trở nên quan trọng.
Để thực hiện tốt hình thức đào tạo mới này sinh viên phải tham gia học
tập với thái độ tích cực, chủ động vào thư viện tìm kiếm và tham khảo sách báo,
thông tin điện tử, nghiên cứu các báo cáo, luận văn các công trình khoa học liên
quan đến đề tài ấn định sau đó thực hiện phân tích, so sánh, phê bình đánh giá
các dữ liệu, tổng hợp kiến thức để đưa đến nhận định chung. Việc sinh viên phát
kiến, tự tìm hiểu sẽ khắc sâu vào tâm trí sinh viên hơn là việc vừa lắng nghe vừa
chép kiến thức từ giảng viên.
Như vậy, đòi hỏi sinh viên đến thư viện thu thập thông tin, tài liệu để giải

quyết những bài tập, những vấn đề mà giảng viên yêu cầu. Từ đó, giúp sinh viên
bổ sung nội dung học tập một cách đầy đủ, chuyên sâu mà còn là nơi giúp sinh
viên phát triển tri thức về ngành nghề, về khoa học; từ đó đảm bảo để sinh viên


12
có được một khối lượng kiến thức cần thiết, vững vàng bước vào đời. Ngoài ra,
với phương pháp học tập này, giảng viên và sinh viên đều là người cùng tìm
kiếm những thông tin mới, những tri thức mới về ngành nghề, về khoa học. Như
vậy mới phát huy được tư duy sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập.
1.3.2. Biện pháp đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá
Đổi mới phương pháp dạy đại học phải đi đôi với việc đổi mới cách thức
đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Trước đây cánh thức đánh giá kết quả
học tập của sinh viên chỉ chú trọng vào kết quả kỳ thi cuối khóa và việc đánh giá
chỉ chú trọng đến kiến thức chứ chưa chú trọng đến việc phát huy tư duy, khả
năng sáng tạo, khả năng làm việc nhóm, … Trong bối cảnh mới, với việc đổi
mới phương pháp dạy học, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần thiết
phải đổi mới theo hướng nhà trường và giảng viên có thể sử dụng các loại kiểm
tra khác nhau trong đánh giá quá trình đã được sử dụng ở các đại học nước ngoài
như kiểm tra ngắn, kiểm tra đột xuất, bài tập làm ở nhà, báo cáo nghiên cứu
khoa học, tiểu luận, thảo luận nhóm, thi giữa học kỳ... Cách kiểm tra đánh giá
này sẽ làm cho sinh viên chú ý việc suy luận, nghiên cứu, phân tích giải quyết
vấn đề một cách thường xuyên trong quá trình học tập, và sẽ chấm dứt tình trạng
học vẹt, học tủ, hay dùng phao để gian lận thi cử. Khi đó giảng viên sẽ khuyến
khích sinh viên tham khảo nhiều tài liệu khi làm bài ở nhà, có thể cho sinh viên
hợp tác theo nhóm, và có thể cho sinh viên sử dụng tài liệu trong các kỳ kiểm tra
đó. Với hình thức kiểm tra, đánh giá có sự thay đổi như vậy đòi hỏi sinh viên
tăng cường đến thư viện tham khảo tư liệu phục vụ cho việc học tập của mình
đạt hiệu quả.
1.3.3. Biện pháp tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên

Căn cứ Thông tư số 19/2012/TT-BGDĐT ngày 01/6/2012 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc ban hành quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học. Hiện nay, nghiên cứu khoa học
của sinh viên là một nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo ở trường
đại học, là nhiệm vụ của mọi sinh viên. [3]. Qua đó hình thành tư duy và


13
phương pháp nghiên cứu khoa học. Vì vậy, bên cạnh việc chú trọng phát triển và
nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, các trường đại học hiện nay đang ngày
càng chú tâm vào hoạt động học tập nghiên cứu khoa học của sinh viên. Muốn
thế, tạo môi trường học tập và nghiên cứu cho sinh viên là vấn đề mà các trường
đại học cần quan tâm. Sinh viên muốn làm nghiên cứu khoa học điều tất yếu
phải có tài liệu. Thư viện là một trong những môi trường học tập tốt, là địa chỉ
đáng tin cậy trong việc cung cấp thông tin, tạo động cơ học tập, hình thành kĩ
năng đọc tài liệu, kĩ năng tìm kiếm, khai thác các nguồn tài liệu đáp ứng yêu cầu
hoạt động nghiên cứu khoa học. Đây là giải pháp tạo nhu cầu kích thích sinh
viên đến thư viện.
1.3.4. Biện pháp đổi mới hoạt động thư viện
Thư viện, với chức năng cung cấp hệ thống tri thức khoa học đầy đủ và
cập nhật, là bộ phận quan trọng không thể xem nhẹ của một môi trường giáo
dục. Đối với trường Đại học, nơi mà khả năng tự học và tự nghiên cứu được đề
cao, thì vai trò của thư viện càng đề cao. Quyết định số 10/2007/QĐ-BVHTT
ngày 04/5/2007 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) đã yêu cầu: “Hết sức coi trọng vị trí thư viện trường đại học trong công tác
đào tạo và nghiên cứu khoa học; nâng cấp thư viện các trường đại học; xây dựng
mới, tu bổ lại trụ sở thư viện, tạo cho các thư viện hiện đại về cơ sở vật chất và
trang thiết bị; phong phú về tài liệu. Xây dựng một hệ thống thư viện đại học
mạnh, phát triển theo hướng hiện đại, thư viện điện tử, thư viện số. Có khả năng
đáp ứng các nhu cầu thông tin của người sử dụng một cách dễ dàng, nhanh

chóng”. [5]. Vì vậy, đầu tư xây dựng một thư viện với vốn tư liệu phong phú, đa
dạng; cơ sở vật chất hiện đại, nhiều chức năng, nhiều dịch vụ, đáp ứng nhu cầu
học tập và nghiên cứu ngày càng cao, có sức thu hút mạnh mẽ đối sinh viên là
hướng đi vô cùng hợp lý và đúng đắn.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc khuyến khích sinh viên khai thác
nguồn tư liệu học tập tại thư viện
1.4.1. Yếu tố chủ quan


14
Yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến việc khuyến khích sinh viên khai thác
nguồn tư liệu học tập tại thư viện bao gồm: Nhận thức và nhu cầu của sinh viên
về việc khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện.
Thứ nhất, trình độ nhận thức của sinh viên
Trình độ nhận thức và khả năng tự học, tự rèn luyện của sinh viên là yếu
tố quan trọng khuyến khích sinh viên đến thư viện khai thác nguồn tư liệu học
tập. Đối với những sinh viên có trình độ nhận thức tốt thì dễ thấy có hứng thú
học tập, họ luôn tích cực, chủ động và khát khao tìm kiếm tri thức. Do vậy, họ
muốn đến thư viện khai thác nguồn tư liệu học tập hiệu quả. Ngược lại, khả
năng nhận thức không tốt dẫn đến tâm lý thiếu phấn đấu trong học tập và không
muốn đến thư viện.
Về bản chất, quá trình học tập của sinh viên ở bậc đại học là quá trình
nhận thức có tính nghiên cứu. Điều này đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục
như sau: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự
học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn
luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”. Một
trong những yếu tố giúp sinh viên tự học, tự nghiên cứu đó là đến thư viện khai
thác tư liệu học tập. Bên cạnh sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà
trường thì việc đến thư viện khai thác tư liệu học tập chỉ có thể thực sự đem lại
hiệu quả khi sinh viên nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó và có sự nỗ lực

từ chính bản thân sinh viên. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ,
sinh viên phải thay đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có những phương pháp học
tập tích cực, thái độ tự chủ - tự chịu trách nhiệm nhằm thích ứng với những yêu
cầu học tập mới.
Thứ hai, nhu cầu sinh viên về khai thác nguồn tư liệu học tập tại thư viện
Để sinh viên đến thư viện học tập, trước hết họ có nhu cầu đến thư viện.
Nhu cầu là yếu tố quan trọng thúc đẩy sinh viên tích cực đến thư viện khai thác
nguồn tư liệu học tập. Hiện nay, phương pháp giáo dục truyền thống, giáo dục
thụ động không còn phù hợp, thay vào đó là phương pháp giáo dục chủ động,


15
giáo dục khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Với phương pháp giáo
dục mới, giảng viên là người thiết kế, hướng dẫn, sinh viên phải tự tìm kiếm tri
thức, tham khảo các vấn đề liên quan đến môn học trước khi đến lớp, tự hoạt
động theo cách riêng, độc lập và sáng tạo. Như vậy nhu cầu sinh viên về khai
thác tư liệu học tập tại thư viện tăng cao nhằm phục vụ việc học tập, nghiên cứu
khoa học, tìm tòi tri thức.
1.4.2. Yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan tác động đến việc khuyến khích sinh viên khai thác
nguồn tư liệu học tập tại thư viện bao gồm: hệ thống tư liệu tại thư viện, cơ sở
vật chất và hoạt động quản lý phục vụ tại thư viện.
Thứ nhất, mức độ đáp ứng hệ thống tư liệu tại thư viện
Nguồn tư liệu là cốt lõi của thư viện nên tư liệu phong phú và đáp ứng yêu
cầu của sinh viên là yếu tố tạo nên đặc tính của thư viện để thu hút sinh viên.
Với mô hình đào tạo theo tín chỉ, một lần nữa vai trò của nguồn tư liệu lại
được khẳng định và nó có thể quyết định đến sự thành bại của mô hình đào tạo
này. Do đó, sinh viên muốn học tập tốt trên lớp và tự học thì cần tìm đến các
nguồn học liệu do giáo viên cung cấp. Để làm được điều này, thư viện sẽ là môi
trường giúp sinh viên có thể tìm tài liệu phục vụ cho việc học tập hiệu quả. Thư

viện phải là nơi cung cấp đầy đủ các tài liệu cần thiết và không gian học tập cho
sinh viên, là nơi tư vấn thông tin giúp sinh viên có thể tự học và tự nghiên cứu.
Do đó, đối với một trường đại học, xây dựng nguồn học liệu khoa học và đa
dạng cần được chú trọng để giúp cho việc học và dạy theo tín chỉ hiệu quả và
thành công. Trong tiến trình chuyển đổi mô hình đào tạo từ niên chế sang tín chỉ,
song hành với sự thay đổi về nội dung và phương pháp dạy - học, các trường đại
học cũng tập trung phát triển các nguồn tư liệu trong thư viện. Dựa vào danh
mục các tài liệu tham khảo của các môn học thuộc các ngành học được đào tạo
tại trường, trung tâm thông tin – thư viện tại các trường đại học sẽ tiến hành bổ
sung các tài liệu vật lý (sách, báo và tạp chí) hoặc đăng ký mua quyền khai thác
và sử dụng các cơ sở dữ liệu thích hợp. Đó là nơi bổ sung các tài liệu vật lý cũng


16
như nguồn tài nguyên số ở cấp độ chi tiết sâu hơn và sát hơn với nhu cầu tin của
sinh viên.
Thứ hai, mức độ đáp ứng cơ sở vật chất
Thư viện phải đóng vai trò quan trọng trong công tác hỗ trợ học tập và
giảng dạy. Thư viện tìm cách thu hút người đọc bằng cơ sở vật chất và không
gian đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Thư viện phải trở thành trung tâm nghiên
cứu trong các trường Đại học, phải tạo được sự hấp dẫn đối với giáo viên và
sinh viên bởi tính chuyên dụng, tiện nghi và mỹ quan.
Khi thư viện xây dựng những cơ sở dữ liệu và tổ chức thành các nguồn
tin, các chủ đề liên quan đến việc giảng dạy và nghiên cứu. Trang thiết bị của
thư viện đầy đủ tạo mọi điều kiện sinh viên học tập và nghiên cứu. Đồng thời,
thư viện tạo ra không gian cho việc đọc sách, tự học, phòng truy cập internet, tạo
điều kiện cho sinh viên có thể đến thư viện học một mình, học theo nhóm, hoặc
trao đổi, tọa đàm những thông tin thu nhận được từ kho tài liệu của thư viện.
Như vậy, cơ sở vật chất thư viện hiện đại đáp ứng yêu cầu của sinh viên sẽ
khuyến khích họ đến thư viện.

Thứ ba, hoạt động quản lý - phục vụ tại thư viện
Người cán bộ thư viện đại học sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc
hướng dẫn đối với các sinh viên trong và khuyến khích họ sử dụng sách báo, tài
liệu của thư viện để tham khảo, sưu tầm, học hỏi.
Với vai trò đóng góp vào sự đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập
tại trường, cán bộ thư viện phải chủ động giới thiệu, cung cấp nguồn thông tin
phong phú, đa dạng. Đồng thời, cán bộ thư viện tạo môi trường thân thiện, thông
thoáng, chuyên nghiệp không chỉ bằng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ giỏi mà
còn bằng khả năng giao tiếp tốt. Các cán bộ thư viện ngày nay không thể chỉ
bằng lòng là những người “thủ kho giữ tài liệu” với phương châm “vui vẻ, hòa
nhã, nhiệt tình” mà còn phải mà phải là người hướng dẫn bạn đọc tìm kiếm, khai
thác thông tin, tư vấn cho bạn đọc các tài liệu cần cho môn học; năng động, thạo
nghề, có trình độ ngoại ngữ, tin học để chỉ ra những tài liệu độc giả cần một


17
cách nhanh nhất, chính xác nhất. Như vậy, khi thư viện đáp ứng được nhiều tiêu
chí khác nhau từ nguồn tài nguyên, trang thiết bị, nhân sự, thái độ phục vụ cho
đến các sản phẩm và dịch vụ khai thác cung cấp thông tin sẽ là yếu tố quan
trọng thúc đẩy sinh viên đến thư viện khai thác nguồn tư liệu học tập vô giá.
Tóm lại, để khuyến khích sinh viên đến thư viện khai thác nguồn tư liệu
học tập chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, cả chủ quan lẫn khách quan. Mỗi yếu
tố có vị trí, vai trò khác nhau song chúng có quan hệ chặt chẽ, bổ sung và tác
động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, muốn nâng cao sự tích cực sinh viên đến thư viện
phải xem xét đồng thời tác động vào nhiều yếu tố theo hướng tích cực hóa.


18
Chương 2. THỰC TRẠNG KHUYẾN KHÍCH SINH VIÊN KHAI THÁC
NGUỒN TƯ LIỆU HỌC TẬP TẠI THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI

CHÍNH - QUẢN TRỊ KINH DOANH
2.1. Giới thiệu sơ lược về thư viện Trường Đại học Tài chính - Quản
trị kinh doanh
Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh đã trải qua 50 năm hình
thành và phát triển phát triển. Trở thành một trường Đại học, việc xây dựng
chiến lược phát triển hoạt động thư viện phải phù hợp với trào lưu và xu thế phát
triển hệ thống thông tin - thư viện các trường Đại học. Chính vì vậy, trung tâm
thông tin - thư viện là bộ phận không thể tách rời trong công tác giáo dục,
nghiên cứu khoa học và học tập của trường. Thực hiện chức năng phục vụ hoạt
động đào tạo, nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ và quản lý
của nhà trường, Trung tâm thông tin - thư viện có nhiệm vụ thu thập, xử lý và
cung cấp thông tin, tư liệu khoa học công nghệ, phục vụ các lĩnh vực hoạt động
của trường.
- Về cơ sở vật chất (trụ sở, vốn tài liệu)
+ Trụ sở: Trụ sở Trung tâm thông tin - thư viện Trường Đại học Tài chính
- Quản trị kinh doanh nằm trong khuôn viên trường,với diện tích 610 m2 (cơ sở
1 và cơ sở 2) có đầy đủ trang thiết bị, sự bố trí các phòng trong trung tâm thông
tin thư viện đã tạo điều kiện tốt cho bạn đọc trong quá trình hoạt động, nghiên
cứu, tìm tòi và sáng tạo tại thư viện.
+ Vốn tài liệu: Từ một thư viện có 500 cuốn sách đến nay vốn tài liệu của
thư viện rất đa dạng và phong phú với nhiều tài liệu quý hiếm. Trong thư viện
không chỉ có giáo trình, luận án, luận văn, báo, tạp chí các loại mà còn có các tài
liệu chuyên ngành, sách tham khảo các môn khoa học khác. Cụ thể:


19

TT

Loại hình vốn tài liệu


Số lượng
Đầu sách

Bản sách

1

Giáo trình

177

1774

2
3
4
5
6

Tài liệu tham khảo
Luận văn , luận án
Tài liệu tra cứu
Tài liệu ngoại văn
Báo, tạp chí
Tổng

1543
103
45

290
50
2208

9705
103
45
290
50
11967

Ghi chú

(Nguồn Báo cáo Tổng kết tình hình thực hiện Quyết định số 10/2007/QĐBVHTT của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển Ngành Thư viện Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020
của Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh).
- Đội ngũ cán bộ: Trải qua nhiều biến động (từ ngày thành lập thư viện chỉ
có 2 cán bộ chưa có trình độ nghiệp vụ) đến nay thư viện có đội ngũ cán bộ khá
hoàn chỉnh, cả về số lượng lẫn về trình độ đào tạo. Thư viện có 6 cán bộ trong
đó có 1 giám đốc; 1 phó giám đốc và 4 cán bộ. Về trình độ cán bộ có 2 thạc sỹ, 3
trình độ đại học, 1 trình độ cao đẳng.
- Hạ tầng, công nghệ thông tin: Được trang bị 65 chiếc máy tính và kết
nối mạng Internet.
- Hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của thư viện (chuẩn nghiệp vụ trong
xử lý tài liệu, sản phẩm và dịch vụ…)
+ Chuẩn nghiệp vụ xử lý tài liệu:
Về phân loại: Hiện nay trung tâm thông tin thư viện của trường Đại học
Tài chính - Quản trị kinh doanh đang sử dụng bảng phân loại 19 lớp của Thư
viện Quốc gia Việt nam. Đối với kho mở, tài liệu được sắp xếp theo môn loại.
Về mô tả: Trung tâm thông tin thư viện trường Đại học Tài chính - Quản

trị kinh doanh áp dụng quy tắc mô tả tài liệu tiêu chuẩn quốc tế ISBD.
Về định nghĩa từ khóa: áp dụng định từ khóa theo bộ từ khóa của Thư
viện Quốc gia Việt nam.


20
Về biên mục tài liệu: Trung tâm thông tin thư viện trường biên mục đọc
máy theo MARC21.
+ Sản phẩm và dịch vụ thông tin của Trung tâm thông tin thư viện trường
Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh còn rất nghèo nàn. Cụ thể là: Các sản
phẩm thông tin thư viện như: thư mục chuyên đề, mục lục thư viện dạng hộp
phiếu, thư mục thông báo sách mới; Dịch vụ thư viện có đọc tại chỗ, cho mượn
về nhà, cung cấp thông tin theo yêu cầu và truy cập máy tính.
- Ứng dụng công nghệ thông tin (số hóa tài liệu, xây dựng thư viện điện
tử, thư viện số…): đang triển khai trong các năm tới.
- Thư viện mở cửa phục vụ bạn đọc: từ thứ hai đến thứ sáu trong tuần.
Buổi sáng từ 7h30 đến 11h30, buổi chiều từ 13h30 đến 17h00.
Trong những năm qua, trung tâm thông tin – thư viện của trường Tài
chính – Quản trị kinh doanh đã đạt những thành tựu, cung cấp kịp thời những
thông tin hữu ích cho các thế hệ thầy và trò của trường. Với đội ngũ cán bộ trẻ
có tấm lòng yêu nghề và ý chí phấn đấu vì sự nghiệp nên nhịp độ làm việc của
thư viện rất sôi nổi, không ngừng rèn luyện, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, tổ chức xử lý, cung cấp tin
và tài liệu cho các thầy cô và sinh viên trong trường. Đồng thời trang bị những
kiến thức cần thiết về phương pháp tra cứu, tìm kiếm thông tin và sử dụng thư
viện cho bạn đọc. Góp phần không nhỏ vào công cuộc giáo dục và đào tạo nhân
lực cho đất nước nói chung và cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo
của trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh nói riêng.
2.2. Thực trạng khuyến khích sinh viên khai thác nguồn tư liệu học
tập tại thư viện trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh

2.2.1. Công tác đổi mới phương pháp dạy và học
Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành thì từ năm 2010, Trường Đại
học Tài chính - Quản trị kinh doanh bắt đầu triển khai chuyển đổi sang đào tạo
theo tín chỉ. Do đó, nhà trường tiến hành biên soạn lại giáo trình, đề cương, kịch


21
bản, cuốn câu hỏi và bài tập các môn học cho phù hợp chương trình đào tạo. Với
phương pháp này đòi hỏi sinh viên phải tham gia với thái độ tích cực và chủ
động, phải đăng ký các học phần theo điều kiện của bản thân, tích cực tìm kiếm
tài liệu phù hợp với từng học phần. Từ sự chuyển đổi phương thức đào tạo này,
sinh viên của trường tăng cường đến khai thác tư liệu học tập tại thư viện
Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh. Trong giảng dạy, giảng viên
chuyển sang phương pháp giảng dạy tích cực giúp nâng cao hiệu quả học tập
nhờ vào việc giảm bớt giờ diễn giảng trên lớp để tăng thời gian cho sinh viên tự
học và tổ chức xêmina. Giảng viên biên soạn tài liệu hướng dẫn học tập giáo
trình mình phụ trách trong đó quy định cụ thể lịch trình giảng dạy, mục tiêu của
từng bài giảng, hướng dẫn tự học từng chương, nội dung và thời điểm tổ chức
xêmina để sinh viên chủ động chuẩn bị. Vì vậy, sinh viên đến lớp học tập, bên
cạnh giáo trình chính thức bắt buộc phải có, giảng viên còn yêu cầu các bạn
tham khảo một số lượng lớn tài liệu khác có liên quan đến môn học để mở mang
nhận thức, bao gồm cả tài liệu sách vở và tài liệu trên mạng. Chắc chắn sinh
viên không thể đủ khả năng tài chính để mua tất cả về tham khảo. Và khi đó, thư
viện nhà trường sẽ cung cấp cho sinh viên nguồn tài liệu và cả hệ thống máy
tính nối mạng để truy cập tìm tài liệu khi cần thiết.
Tuy nhiên, thực tế là việc đổi mới phương pháp học tập tại trường hiện
nay gặp rất nhiều khó khăn. Đa số sinh viên vẫn quen với phương pháp học
truyền thống từ phổ thông, nên thiếu khả năng độc lập tư duy, sáng tạo và kĩ
năng, kĩ xảo tiếp nhận tri thức. Nhiều tri thức, kĩ năng, thậm chí tri thức, năng

lực cơ bản không thể chỉ học trên lớp, mà phải học qua nhiều kênh thông tin
khác nhau tại thư viện: tham khảo sách, báo, tạp chí, mạng internet và các
phương tiện thông tin khác. Với ý nghĩa đó, để học tập hiệu quả cần có sự tiếp
sức nguồn tư liệu tại thư viện trường. Từ đó, thúc đẩy sinh viên đến thư viện
khai thác nguồn tư liệu học tập.
2.2.2. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá


22
Với hình thức học theo chế tín chỉ đòi hỏi nhà trường đổi mới công tác
kiểm tra đánh giá đối với sinh viên. Giảng viên thường xuyên đánh giá sinh viên
trong suốt quá trình của môn học thông qua các hình thức kiểm tra đa dạng như
thi viết, trắc nghiệm, chữa bài tập trên lớp, thảo luận, thực hành…với ba đầu
điểm chính là điềm chuyên cần (10%), điểm giữa kì (20%) và điểm thi kết thúc
học phần (70%). Qua đó hình thành cho sinh viên cách làm việc nghiêm túc,
tính tích cực và ý chí phấn đấu vươn lên để đạt kết quả cao trong học tập nhằm
đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trước giờ lên lớp: đọc
tài liệu, làm các bài tập, bài kiểm tra, thảo luận nhóm theo yêu cầu của giảng
viên. Ví dụ các môn lý luận chính trị thường giao cho sinh viên những bài tiểu
luận, việc viết các bài tiểu luận theo chủ đề có tác dụng rất tốt không chỉ để họ
nắm được các thông tin liên quan đến chủ đề đó mà rèn luyện họ rất tốt về cách
khai thác tài liệu và cách viết tài liệu khoa học. Với những yêu cầu đó, bắt buộc
sinh viên phải tìm tòi, tìm đọc những cuốn sách khác nhau để hoàn thành cũng
như mở rộng kiến thức của mình. Do chương tình đào tạo theo tín chỉ chú trọng
đến việc đánh giá kết quả học tập thường xuyên thông qua bài tập chuẩn bị ở
nhà, thảo luận nhóm, bài tiểu luận. Đồng thời, trong cách ra đề kiểm tra theo
hướng mở hơn, đó là ngoài kiến thức trong giáo trình còn có thêm kiến thức mở
rộng. Chính vì vậy, sinh viên cần tích cực đến thư viện hơn để khai thác tư liệu
phục vụ cho học tập hiệu quả
2.2.3. Triển khai hoạt động sinh viên nghiên cứu khoa học

Năm học 2015 - 2016, theo kế hoạch số 142/KH – ĐHTCQTKD trường
Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh triển khai kế hoạch hoạt động sinh viên
nghiên cứu khoa học - công nghệ. Với sự phát động và triển khai hoạt động
nghiên cứu khoa học đã thu hút nhiều sinh viên tham gia với tổng số 33 đề tài.
Nhà trường tiếp tục triển khai đăng kí đề tài sinh viên năm học 2016 - 2017. Đây
chính là giải pháp quan trọng thúc đẩy sinh viên cần tích cực đến thư viện khai
thác nguồn tư liệu học tập. Vì khi làm bất cứ công trình nghiên cứu nào, sinh
viên đều phải hiểu rõ lịch sử nghiên cứu vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên


23
cứu, phương pháp nghiên cứu... Hệ thống tài liệu tham khảo phong phú mà thư
viện cung cấp sẽ phần nào giúp sinh viên giải quyết vấn đề trên.
Ngoài ra, thông qua các cuộc thi tìm hiểu, Hội thi Olympic toàn quốc các
môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường”,
Olimpic Tiếng Anh…Tạo động lực cho sinh viên đến thư viện tìm nguồn tư liệu
vì tại thư viện có nhiều dịch vụ khác nhau có thể đáp ứng nhiều nhu cầu cần
thiết của hoạt động trên, như: trợ giúp tra cứu tài liệu, tạp chí chuyên ngành,
internet...
Đặc biệt, sinh viên năm cuối cần làm chuyên đề tốt nghiệp thì việc đến thư
viện hết sức cần thiết. Vì đây là nơi cung cấp những nguồn tài liệu quý giá và
cần thiết cho bất cứ công trình nghiên cứu nào. Như vậy để thấy rằng, hàng ngày
hàng giờ, nguồn tư liệu tại thư viện đang góp phần to lớn cho các hoạt động học
tập và nghiên cứu diễn ra trong nhà trường.
2.2.4. Đổi mới hoạt động thư viện
Trong những năm gần đây, nhà trường rất coi trọng công tác thư viện, và
thư viện cũng đã dần được đổi mới. Đặc biệt, thư viện được trang bị hệ thống
máy tính gồm 65 chiếc tạo điệu kiện cho sinh viên tra tìm thông tin một cách
nhanh chóng và thuận lợi nhất. Hàng năm, thư viện gửi đến các Khoa các danh
mục sách cần cung cấp và thư viện bổ sung thêm một số đầu mục sách giáo

trình, tài liệu tham khảo, báo, tạp chí mới theo định kì. Đặc biệt, thư viện có sự
đổi mới đó là phòng đọc cho sinh viên: Phòng này phục vụ việc tra cứu báo chí,
tài liệu tham khảo tại chỗ cho cán bộ, giảng viên và sinh viên, được tổ chức hình
thức phục vụ “mở”. Sinh viên được vào kho, tự chọn sách báo và đọc tại phòng
đọc. Với hình thức phục vụ mới này, cán bộ thư viện thực sự gặp rất nhiều khó
khăn trong việc quản lý sách báo nhằm hạn chế những thất thoát có thể xảy ra.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới còn rất chậm và còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được nhu cầu thông tin-tài liệu đối với sinh viên. Năng lực phục vụ sinh viên chỉ
ở mức độ mượn trả tài liệu và tra cứu thông tin thư mục tài liệu có trong thư
viện.


×