VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TRUNG
CHỦ ĐẤT TRONG CỘNG ĐỒNG NGƢỜI MA COONG
Ở HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
HÀ NỘI – 2014
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TRUNG
CHỦ ĐẤT TRONG CỘNG ĐỒNG NGƢỜI MA COONG
Ở HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Chuyên ngành: Nhân học văn hóa
Mã số: 62316501
Tập thể hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. Trần Hồng Hạnh
2. TS. Lý Hành Sơn
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực. Những
luận điểm mà luận án kế thừa của những tác giả đi trước đều có nguồn gốc,
xuất xứ rõ ràng. Nếu có gì sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày....tháng 3 năm 2014
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Trung
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thành viên trong dòng họ chủ đất, các già
làng, trưởng bản trong cộng đồng người Ma Coong ở huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình đi khảo sát, điền dã
phục vụ cho luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng Cồn
Roòng; UBND xã Thượng Trạch, UBND xã Tân Trạch, Phòng văn hoá,
UBND huyện Bố Trạch đã giúp đỡ tôi thu thập thông tin, tư liệu liên quan đến
luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo ở Học Viện khoa học xã
hội, Viện Dân tộc học và đặc biệt với sự hướng dẫn của Cô giáo - TS. Trần
Hồng Hạnh và Thầy giáo - TS. Lý Hành Sơn đã tận tình giúp đỡ để tôi hoàn
thành luận án này.
Hà Nội, ngày… tháng 3 năm 2014
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Trung
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................... 7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về người Ma Coong nói riêng, dân tộc
Bru-Vân Kiều nói chung ........................................................................... 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về chủ đất, trong đó có chủ đất người Ma
Coong ....................................................................................................... 14
1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu ................................... 18
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................... 18
1.2.2. Cơ sở lý thuyết ............................................................................... 26
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 28
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 31
Chƣơng 2: SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐẤT VÀ HÌNH THỨC TRAO
TRUYỀN ........................................................................................................ 32
2.1. Khái quát về ngƣời Ma Coong ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình ..... 32
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư, dân tộc huyện Bố Trạch ................. 32
2.1.2. Lịch sử vùng đất người Ma Coong ở huyện Bố Trạch ............... 33
2.1.3. Người Ma Coong ở hai xã Thượng Trạch và Tân Trạch ........... 38
2.2. S ự hình thành, chức năng, quyền lợi của chủ đất .................................. 43
2.2.1. Sự hình thành chủ đất và dòng họ chủ đất.................................. 43
2.2.2. Chức năng, quyền lợi và một số vấn đề liên quan đến chủ đất .. 48
2.3. Dòng họ chủ đất - cơ sở trao truyền và duy trì chủ đất .................. 53
2.3.1. Mối liên hệ giữa chủ đất và dòng họ chủ đất .............................. 53
2.3.2. Hình thức trao truyền chủ đất trong dòng họ chủ đất ................ 59
Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 62
Chƣơng 3: VAI TRÕ CỦA CHỦ ĐẤT TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG ĐỒNG MA COONG ................................ 63
3.1. Chủ đất trong phát triển kinh tế ....................................................... 63
3.1.1. Cơ cấu kinh tế ở cộng đồng Ma Coong ........................................ 63
3.1.2. Vai trò của chủ đất trong việc tổ chức định canh, định cư ......... 64
3.1.3. Vai trò chủ đất trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên (đất,
nước, tài nguyên rừng…) trước đây và hiện nay .................................. 65
3.1.4. Săn bắt, hái lượm và những quy định/luật tục có liên quan ...... 71
3.1.5. Vai trò của chủ đất trong việc đi đầu trong một số mô hình kinh
tế ở địa phương hiện nay ........................................................................ 75
3.1.6. Vai trò của chủ đất trong duy trì các nghi lễ, hình thức tương trợ
liên quan đến các hoạt động sinh kế ...................................................... 78
3.2. Chủ đất trong duy trì ổn định và phát triển xã hội ......................... 82
3.2.1. Chủ đất trong thiết chế xã hội truyền thống ................................ 82
3.2.2. Chủ đất trong việc thiết lập làng và đề ra các luật tục ................ 87
3.2.3. Chủ đất trong việc góp phần duy trì ổn định và phát triển cộng
đồng hiện nay .......................................................................................... 91
Tiểu kết chƣơng 3 ...................................................................................... 99
Chƣơng 4: CHỦ ĐẤT VỚI VIỆC DUY TRÌ CÁC GIÁ TRỊ VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG Ở CỘNG ĐỒNG MA COONG ...................... 100
4.1. Chủ đất trong việc tổ chức và duy trì những sinh hoạt văn hóa
cộng đồng .................................................................................................. 100
4.1.1. Lễ hội đập trống (toong rịt chi cơ rơ) ......................................... 101
4.1.2. Lễ tế trâu ...................................................................................... 113
4.2. Chủ đất trong việc bảo tồn giá trị của các sinh hoạt văn hóa cộng
đồng ........................................................................................................... 120
4.2.1. Biểu tượng trống trong lễ hội và trong đời sống của người Ma
Coong ..................................................................................................... 121
4.2.2. Các giá trị khác............................................................................ 124
Tiểu kết chƣơng 4 .................................................................................... 127
Chƣơng 5: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ..................................................... 129
5.1. Kết quả ............................................................................................... 129
5.1.1. Khái quát chung .......................................................................... 129
5.1.2. Chủ đất và những vấn đề liên quan đến chủ đất ....................... 132
5.2. Bàn luận ............................................................................................. 136
5.2.1. Vấn đề tiếp tục phát huy vai trò chủ đất người Ma Coong trong
việc duy trì sự ổn định xã hội và an ninh biên giới ............................. 136
5.2.2. Vấn đề tiếp tục phát huy vai trò của chủ đất người Ma Coong
trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ............................ 140
5.3. Một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò chủ đất trong ổn định,
phát triển cộng đồng ngƣời Ma Coong trong giai đoạn hiện nay ....... 142
Tiểu kết chƣơng 5 .................................................................................... 145
KẾT LUẬN .................................................................................................. 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.................................................................... 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 151
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 162
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Kết quả phát triển kinh tế năm 2009 và 2011 ở xã Thượng Trạch . 77
Bảng 3.2: Tình hình phát triển lớp và số lượng học sinh (2007 - 2012)
trường Dân tộc nội trú xã Thượng Trạch .................................... 98
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ gia phả dòng họ chủ đất ...................................................... 56
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức trong thiết chế xã hội truyền thống ở cộng
đồng người Ma Coong .................................................................................... 84
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS
:
Giáo sư
PGS
:
Phó giáo sư
TS
:
Tiến sĩ
TSKH
:
Tiến sĩ khoa học
NSDN
:
Nghệ sĩ nhân dân
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
Nxb
:
Nhà xuất bản
Tr. (tr.)
:
Trang
KHXH
:
Khoa học xã hội
TNXP
:
Thanh niên xung phong
VHTT
:
Văn hoá thông tin
VHDT
:
Văn hóa dân tộc
GDP
:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
BV&PTR :
Bảo vệ và phát triển rừng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, người Ma Coong là một nhóm địa phương của dân tộc
Bru-Vân Kiều, cư trú chủ yếu tại 19 bản làng nằm rải rác dọc biên giới Việt Lào, thuộc hai xã Thượng Trạch và Tân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, cộng đồng Ma
Coong nơi đây có 400 hộ với 1.950 người [19, tr.4]. Địa bàn cư trú của người
Ma Coong bị chia cắt, heo hút giữa đại ngàn Trường Sơn. Đời sống của đồng
bào cho đến nay còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, chủ yếu dựa vào nương rẫy,
săn bắt, hái lượm; kinh tế tự cung tự cấp vẫn là cơ bản.
Có thể nói, đã có nhiều bài viết, ấn phẩm của nhiều tác giả nước ngoài
cũng như trong nước đề cập đến dân tộc Bru-Vân Kiều dưới nhiều khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu về người Ma Coong - một trong
những nhóm địa phương của dân tộc Bru-Vân Kiều - lại rất hiếm thấy. Rõ
ràng, đây vẫn là một khoảng trống nghiên cứu về người Ma Coong nói chung.
Cũng như nhiều dân tộc thiểu số, cộng đồng khác ở Việt Nam, trước
đây khi chưa có sự vận hành bằng cơ chế nhà nước, để thiết lập trật tự xã hội
của người Ma Coong ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình được xem là “tự
quản” này và duy trì nó, rõ ràng phải có vai trò của cá nhân “thủ lĩnh”. Ở cộng
đồng người Ma Coong, những “thủ lĩnh” này chính là chủ đất/chủ xứ… (a
châu cu téc/a châu k ruông…).
Huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình vốn là quê hương của tôi. Tôi đã có
sự đồng cảm và hiểu biết nhất định về làng quê của mình, trong đó có cộng
đồng người Ma Coong. Cho đến nay, trong khi ở nhiều cộng đồng lân cận
khác như người Vân Kiều, Khùa, Trì, A Rem…, hình ảnh chủ đất/chủ xứ của
họ rất mờ nhạt, thậm chí không tồn tại mà chỉ còn là các câu chuyện kể, thì ở
cộng đồng người Ma Coong nơi đây, đang tồn tại ngôi vị “chủ đất/chủ xứ” và
2
đi kèm với nó những ảnh hưởng lớn của người này tới cộng đồng. Điều này
được thể hiện ở chỗ, cho đến nay, mặc dù chính quyền nơi đây từ lâu đã được
vận hành và hoạt động, nhưng nhiều cuộc họp bàn về việc triển khai một số
chủ trương, chính sách của Nhà nước, những vấn đề liên quan đến an ninh,
trật tự trong cộng đồng, triển khai xây dựng một số công trình cơ sở hạ tầng,
những sự việc liên quan đến mối quan hệ đồng tộc ở hai bên biên giới… của
chính quyền nơi đây vẫn đang cần đến sự hỗ trợ, tham vấn của ông chủ đất.
Bên cạnh đó, người Ma Coong cũng tôn trọng và tuân thủ nghiêm ngặt nhiều
luật tục của cộng đồng, trong đó có những điều cấm kỵ linh thiêng, quy ước
bất thành văn của dòng họ ông chủ đất… Thực tế cho thấy, hiện nay chủ đất
cùng với dòng họ của mình đang chủ động tổ chức, điều hành, duy trì các sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng cộng đồng như lễ hội, lễ tế trâu, cúng tế làng bản…
Từ đó, nhiều câu hỏi được đặt ra: Chủ đất của người Ma Coong là ai?
Họ được hình thành và nối truyền như thế nào? Chủ đất có vị trí, vai trò gì
trong đời sống và thiết chế xã hội truyền thống cũng như hiện tại? Trong bối
cạnh hiện nay, sự tương tác trong các mối quan hệ ấy bởi các chủ trương,
chính sách của Nhà nước cùng với sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội? Niềm tin và sự nhìn nhận, đánh giá của cộng đồng đối với ông
chủ đất…?
Trả lời được những câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận diện được bản
chất, vị trí, vai trò và giá trị của người chủ đất trong cộng đồng. Từ đó, có
những chính sách, giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của người chủ đất,
người có uy tín trong cộng đồng… trong việc góp phần duy trì ổn định và
phát triển xã hội cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở cộng
đồng người Ma Coong ở khu vực biên giới Việt - Lào. Đây là lý do để tôi
chọn đề tài: “Chủ đất trong cộng đồng người Ma Coong ở huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học văn hóa của mình.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài luận án này nhằm những mục đích sau:
- Tìm hiểu về sự hình thành và đặc điểm người chủ đất cũng như cơ sở
duy trì, trao truyền chức chủ đất trong cộng đồng người Ma Coong ở huyện
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình;
- Làm rõ vị trí, vai trò và sự đóng góp của người chủ đất trong việc ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa ở cộng đồng người Ma Coong
trước đây cũng như hiện nay;
- Đề xuất kiến nghị nhằm phát huy vai trò của người chủ đất để ổn định
và phát triển cộng đồng người Ma Coong ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và phạm vi nội dung nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là người chủ đất trong cộng đồng
của người Ma Coong - một nhóm địa phương của dân tộc Bru-Vân Kiều.
Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án được xác định là người chủ
đất và vai trò của ông trong cộng đồng người Ma Coong. Người chủ đất ở đây
được nhìn nhận tương đối toàn diện về nhiều mặt như: nhân thân, quá trình
hình thành, hình thức nối truyền, thế giới quan... Bên cạnh đó, luận án đặc
biệt quan tâm đến vai trò người chủ đất trong phát triển kinh tế - xã hội và
duy trì văn hóa truyền thống của người Ma Coong.
Phạm vi thời gian để nghiên cứu biến đổi làng bản và vai trò chủ đất
của người Ma Coong được xác định là trước và sau Đổi mới đất nước (1986).
Sở dĩ có sự lựa chọn phạm vi thời gian như vậy là do sau năm 1986, nhất là
gần đây khi cơ chế thị trường ngày càng thâm nhập và phát triển ở nhiều vùng
miền cùng với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, vùng người Ma Coong có
những biến đổi khá rõ rệt.
4
3.2. Phạm vi địa bàn nghiên cứu
Phạm vi địa bàn nghiên cứu được chọn chủ yếu là hai xã Thượng Trạch
và Tân Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bên cạnh đó, địa bàn
nghiên cứu còn được mở rộng tới một số bản người Ma Coong ở huyện Bua
La Pha, tỉnh Khăm Muộn - Lào để so sánh hình ảnh người chủ đất của người
Ma Coong ở hai quốc gia khác nhau nhằm tìm ra những tương đồng và khác
biệt do ảnh hưởng của các yếu tố chính sách của mỗi quốc gia, môi trường xã
hội, địa lý tự nhiên... Ngoài ra, các cộng đồng khác cận cư với người Ma
Coong như người Vân Kiều, Trì, Khùa và một số tộc người cùng chung sống
trên dãy Trường Sơn cũng ít nhiều được quan tâm.
4. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu chính của luận án được dựa trên các tài liệu, tư liệu...
điền dã dân tộc học mà tác giả đã trực tiếp thu thập trong nhiều năm, qua
nhiều đợt đi thực địa tại các địa bàn sinh sống của người Ma Coong ở hai xã
Thượng Trạch và Tân Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, và ở
một số địa bàn khác như bản Nòong Ma, bản Pà Ác thuộc xã Nòong Ma,
huyện Bua La Pha, tỉnh Khăm Muộn - Lào để nghiên cứu so sánh.
Bên cạnh nguồn tài liệu và tư liệu thu thập được tại thực địa, tác giả
luận án còn sử dụng các tài liệu thứ cấp sẵn có ở địa phương như các số liệu
thống kê, các báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm... của Phòng Dân tộc huyện Bố Trạch, các xã Thượng Trạch và Tân
Trạch thuộc huyện Bố Trạch...
Ngoài ra, tác giả luận án cũng kế thừa những nghiên cứu, ấn phẩm đã
công bố của các nhà khoa học trong lĩnh vực Dân tộc học, Văn hóa học trong
và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án. Đồng thời, kết quả nghiên cứu từ
luận văn thạc sĩ của tác giả luận án về “Lễ hội đập trống của ngƣời Ma Coong
(xã Thƣợng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình)”, các luận văn, luận án
5
khác đã được bảo vệ hoặc công bố có liên quan đến đề tài luận án này cũng
được quan tâm.
5. Đóng góp của đề tài
- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và chuyên sâu
về chủ đất của cộng đồng người Ma Coong. Thông qua nghiên cứu này, luận
án muốn làm rõ diện mạo văn hóa - lịch sử, thiết chế xã hội (cả truyền thống
và hiện tại) của người Ma Coong, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
người chủ đất trong đời sống cộng đồng người Ma Coong.
- Luận án góp phần chỉ ra và làm rõ những nét tương đồng và khác biệt
về vị trí, vai trò của chủ đất người Ma Coong ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình so với chủ đất của một số dân tộc khác.
- Luận án không chỉ là bức tranh phong phú về cộng đồng người Ma
Coong và giúp ích cho việc hiểu biết thêm về dân tộc Bru-Vân Kiều ở nước
ta, mà còn đóng góp thêm nhiều tư liệu mới cho nhiều ngành khoa học, nhất
là Dân tộc học/Nhân học, Văn hóa học...
- Nghiên cứu này còn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học, làm
cơ sở cho các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách để tìm ra những
giải pháp quản lý xã hội sao cho hợp lý và hiệu quả hơn đối với cộng đồng
người Ma Coong ở vùng biên giới Việt - Lào cũng như các dân tộc thiểu số
khác. Trong đó, đặc biệt lưu tâm đến việc quản lý xã hội dựa vào cộng đồng
và những đóng góp của những người có uy tín với tầm ảnh hưởng lớn trong
cộng đồng các dân tộc.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
được kết cấu thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương
pháp nghiên cứu
Chương 2: Sự hình thành chủ đất và hình thức trao truyền
6
Chương 3: Vai trò của chủ đất trong phát triển kinh tế - xã hội ở cộng
đồng người Ma Coong
Chương 4: Chủ đất với việc duy trì các giá trị văn hóa truyền thống của
người Ma Coong
Chương 5: Kết quả và bàn luận
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Người Ma Coong cùng người Trì, Khùa là những nhóm địa phương của
dân tộc Bru-Vân Kiều [114, tr.61]. Do đó, giữa họ có những nét tương đồng
về phong tục tập quán, ngôn ngữ, đặc điểm cư trú... Trong các nhóm người
này đều có những mối quan hệ văn hóa - lịch sử rất gần gũi với nhau. Vì vậy,
khi đề cập tới lịch sử nghiên cứu về người Ma Coong, không thể không đề
cập đến những nghiên cứu về dân tộc Bru-Vân Kiều.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về người Ma Coong nói riêng, dân tộc
Bru-Vân Kiều nói chung
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu của các học giả nƣớc ngoài về ngƣời Ma
Coong và dân tộc Bru-Vân Kiều
Có thể nói, trước thời kỳ thuộc Pháp (1858), chưa thấy một tư liệu, bài
viết thành văn nào của tác giả nước ngoài đề cập đến dân tộc Bru-Vân Kiều,
trong đó có người Ma Coong ở nước ta. Tuy nhiên, trong và sau thời kỳ thuộc
Pháp, đã xuất hiện khá nhiều tài liệu, ấn phẩm của các tác giả nước ngoài nói
đến các nhóm của dân tộc Bru-Vân Kiều. Có thể kể đến một số ví dụ điển
hình như: Những con đƣờng sang Lào: Từ Savanakhet đến Lao Bảo của
Anonyme (1906) [5]; Dân tộc học Đông Dƣơng của Anonnyme (1921) [4];
Các đồn bốt quân sự ở Quảng Bình và Quảng Trị của Cadière, L. và H.
Cosserat (1929) [14]; Nƣớc Lào và các cƣ dân dã man ở Đông Dƣơng của
Harmand, J. F. (1879) [37]... Tuy nhiên, do xuất phát từ nhiều mục đích, lĩnh
vực khác nhau như quân sự, địa lý, thám hiểm, du lịch... nên các tài liệu này
chỉ nhắc đến hoặc đề cập rất sơ lược về dân tộc Bru-Vân Kiều, chưa có những
8
nghiên cứu cụ thể, nhất là đôi khi còn nhầm lẫn tên gọi giữa tộc người này với
tộc người khác.
Trong các tài liệu của các tác giả nước ngoài, đáng chú ý, có một số bài
viết, ấn phẩm đã ít nhiều đề cập khá cụ thể về dân tộc Bru-Vân Kiều, trong đó
có một số phong tục tập quán, thiết chế xã hội... của dân tộc này. Đặc biệt,
một số công trình cũng đã nhắc đến những cái tên như người đầu làng, người
chủ làng, già làng... Cụ thể như sau:
Cuốn sách Ngƣời Bru của tác giả Joaan L. Bchroch và cộng sự, do Bộ
Quân lực Mỹ xuất bản năm 1966 (bản dịch của Phạm Khắc Hồng), đã nhắc
đến tên gọi “người Bru”, nhưng tôi cho rằng tác giả đang nói về dân tộc BruVân Kiều. Trong phạm vi địa lý cùng với nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ-me mà
tác giả Joaan L. Bchroch và cộng sự đề cập đến, chưa thấy tài liệu nào nói về
người “Hương Kong” như tác giả đề cập đến trong cuốn sách này. So với các
nhóm địa phương của dân tộc Bru-Vân Kiều, người Ma Coong lại có nhiều
nét tương đồng với người Vân Kiều như ngôn ngữ, tập quán, kể cả các mối
quan hệ thân thuộc. Hơn nữa, ngay từ phần nhập đề, tác giả cũng cho rằng
người Bru còn có tên gọi khác là Vân Kiều và Hương Kong với dân số
khoảng 40.000 - 50.000 người, sống ở từng làng biệt lập; họ không có tổ chức
chính trị trọng tâm của các bộ lạc, tự trị trong các tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên, ở Lào và Bắc Việt Nam, ngôn ngữ thuộc hệ Môn – Khơ-me [10, tr.2].
Như vậy, có thể thấy rằng, người Bru và Hương Kong được đề cập trong cuốn
sách của Joaan L. Bchroch và cộng sự chính là dân tộc Bru-Vân Kiều, bao
gồm cả người Ma Coong mà luận án đang quan tâm.
Ngoài ra, trong cuốn sách vừa đề cập ở trên, các tác giả đã bàn đến một
số vấn đề như cảnh quan, hình thức cư trú, tổ chức kinh tế và một số phong
tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng. Trong đó, có lễ hiến tế súc vật (phổ biến là
hiến tế con trâu) để tạ lỗi với các thần linh, tránh dịch bệnh và các tai nạn
9
khác cho làng bản. Trong các lễ hiến tế này, người già làng đứng ra điều
khiển lễ hiến sinh của toàn làng [10, tr.15]. Qua cách miêu tả nghi thức của
các tác giả về lễ hiến sinh ấy, có rất nhiều nét tương đồng với nghi lễ tế trâu
của người Ma Coong, mà tiếng Ma Coong gọi là toong la pe chi riếc.
Năm 1972, John D. Miller có bài viết với tiêu đề “Quan hệ thân thuộc
của ngƣời Bru” đăng trên Tạp chí Quốc tế “Đông Nam Á”. Bài viết dài 15
trang, mở đầu tác giả khái quát các hoạt động kinh tế để duy trì cuộc sống của
cộng đồng và tập tục thừa kế tài sản. Tác giả nhấn mạnh đến một vấn đề mà
bản thân tác giả đã có thời gian nghiên cứu nghiêm túc tại thực địa1, và đây
được xem là nội dung cơ bản của tài liệu này. Cụ thể là tác giả đã đề cập đến
một người có vai trò quan trọng trong xã hội Bru, tức “người đầu làng”. Theo
tác giả, người đầu làng trong xã hội Bru là người có kiến thức uyên thâm về
các luật tục của bộ lạc, tinh thông trong các nghi lễ sinh hoạt tín ngưỡng...
Người đó có quyền đặt ra một số luật tục, đồng thời có quyền hành hợp pháp
trong việc xử lý các công việc của cộng đồng, mọi quyền sở hữu đất đai trong
một làng đều nằm dưới sự kiểm soát của người đầu làng [66, tr.5]. Các thông
tin về người đầu làng của người Bru như vừa đề cập ở trên có rất nhiều nét
tương đồng với người “chủ đất” trong cộng đồng người Ma Coong. Đây là
những thông tin, tư liệu rất quan trọng và đáng quan tâm cho luận án này.
Ngoài Joaan L. Bchroch và cộng sự, Gabor Vargyas cũng nghiên cứu
về người Bru và xuất bản ấn phẩm Ngƣời Bru qua một thế kỷ văn học (bản
dịch của Nguyễn Bích Lợi) dài 95 trang. Đây là một trong những cuốn sách
được đầu tư nghiêm túc, có chú thích và tài liệu tham khảo phong phú, rõ
ràng. Theo Gabor Vargyas, người Bru ở Việt Nam và trong nền văn học Việt
Nam được gọi là người Vân Kiều; bên cạnh đó, còn có tên gọi khác là
John D. Miller, Giáo sư về ngôn ngữ học, đã làm việc tại Cộng Hòa Việt Nam từ năm 1959 đến năm 1971,
theo lời tựa của cuốn sách.
1
10
Makong (hay Mang Kong) [118, tr.1]. Như vậy, tác giả cho rằng tuy có nhiều
cách gọi, nhưng người Bru, người Vân Kiều và người Ma Coong chỉ là một.
Trong nửa phần đầu của cuốn sách, Gabor Vargyas đề cập đến những
cuộc thám hiểm để chinh phục lưu vực sông Mê Kông và Đông Dương của
các nhà thám hiểm; vào thời gian đầu, phải kể đến Harmand, Malglaive,
Lemire... Đa số các nhà thám hiểm là lính đánh thuê trong quân đội hoặc dân
sự với mục đích trước tiên là phục vụ quân sự. Chính họ đã có nhiều cuốn
sách và tài liệu có giá trị (viết về địa lý, cảnh quan, một số phong tục tập
quán...) đáp ứng một số yêu cầu về thông tin cho quân sự.
Nhà thám hiểm Châu Âu mô tả vùng lãnh thổ của người Bru đầu tiên là
Francois Jules Harmand, diễn ra khoảng năm 1880. Tuy nhiên, theo Gabor
Vargyas, đến năm 1905, bản tóm tắt dân tộc học trước tiên về người Bru mới
được xuất bản. Đó là bản tóm tắt về người Bru ở Lào - công trình của Macey
(1905), vốn là Ủy viên của Tổng trấn Cammon (nay là tỉnh Khăm Muộn Lào, giáp với tỉnh Quảng Bình - Việt Nam). Cuốn sách ấy có giá trị lớn vì nhờ
đó, tộc danh Bru lần đầu tiên xuất hiện trong văn học [118, tr.33].
Trong nửa cuối của cuốn sách nói trên, tác giả Gabor Vargyas đã lần
lượt liệt kê các tác giả khác có những bài viết, ấn phẩm đề cập đến sự xuất
hiện và cách sử dụng tộc danh Bru (có tính văn học trong các ấn phẩm). Tuy
nhiên, nội dung của những bài viết và ấn phẩm đó chủ yếu giới thiệu những
câu chuyện, giai thoại, truyền thuyết có liên quan đến người Bru.
Có thể nói, dù chưa phải là phổ biến, với số lượng còn ít ỏi và khá sơ
lược, những bài viết, công trình nghiên cứu về dân tộc Bru-Vân Kiều, trong
đó có người Ma Coong của các tác giả nước ngoài chủ yếu đề cập đến một số
phong tục, tập quán, vị trí địa lý, một số nghi lễ... của dân tộc này. Bên cạnh
đó, có tác giả cũng đã nhắc đến “người đầu làng”, tức người “chủ làng” - vấn
đề mà luận án này đang quan tâm. Mặc dù vậy, những nghiên cứu vừa kể trên
11
cũng cung cấp một bức tranh sơ lược và những thông tin cơ bản về dân tộc
mà luận án muốn nhắm đến; chúng có thể là những tư liệu tham khảo hữu ích
cho luận án này.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về dân tộc Bru-Vân Kiều,
trong đó có ngƣời Ma Coong
Nghiên cứu tư liệu cho thấy, trước năm 1975, tình hình nghiên cứu về
dân tộc Bru-Vân Kiều ở trong nước ít được chú ý. Có lẽ nguyên nhân là do
vào thời kỳ ấy tình hình chiến tranh ác liệt kéo dài và dân tộc Bru-Vân Kiều
cư trú ở những nơi tương đối hẻo lánh, biệt lập, đường sá đi lại quá khó khăn
và khó tiếp cận. Tuy nhiên, vẫn có một vài công trình nổi bật trong thời kỳ ấy
liên quan, dù ít hay nhiều, đến dân tộc Bru-Vân Kiều. Có thể kể một số cuốn
sách như: Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam của Vương
Hoàng Tuyên (1963) [112]; Các dân tộc miền núi Bắc Trung Bộ của Mạc
Đường (1963) [32]; Các dân tộc Môn-Khơme ở miền Bắc Việt Nam của Phan
Hữu Dật (1964) [25]. Trong các tài liệu này, các tác giả đã đề cập đến nguồn
gốc, di cư và sự hình thành của một số dân tộc, trong đó có các nhóm địa
phương của dân tộc Bru - Vân Kiều; tuy nhiên, mới chỉ có các giả thuyết, mà
chưa có những khẳng định chắc chắn về các vấn đề được nêu.
Năm 1975, đất nước được hoàn toàn giải phóng, Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó có dân
tộc Bru-Vân Kiều. Chính vì vậy, sau mốc thời gian này, tình hình nghiên cứu
về người Bru-Vân Kiều đã có những bước tiến đáng ghi nhận cả về số lượng
và chất lượng. Có thể kể đến Ngô Đức Thịnh với nghiên cứu Mối quan hệ tộc
ngƣời của các nhóm Bru ở Bình Trị Thiên (1975) [90]. Như tiêu đề của bài
viết, qua các tài liệu thu thập được kết hợp với nghiên cứu thực địa, tác giả đã
đi sâu nghiên cứu những mối quan hệ của tộc người này và đã chỉ ra các cách
gọi “Bru”. Theo tác giả, người Bru bao gồm nhiều nhóm khác nhau, được
12
phân biệt trước tiên ở tên gọi như Bru Ma Coong, Bru Trì, Bru Khùa... [90,
tr.53]. Bên cạnh đó, cách gọi khác của người Bru cũng khá phức tạp và chồng
chéo nhau. Ví dụ như Bru Trì được người Việt gọi là Ca Lơ (Ka Lơ), Leu
Leung, Mọi...
Cuốn Các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của Viện
Dân tộc học (1978) [114] đã dành 14 trang để viết về người Bru, trong đó có
đề cập đến sự hình thành tộc người Bru ở Việt Nam. Theo đó, người Bru được
cho rằng xưa kia đã từng sinh tụ ở miền Trung Lào. Sau nhiều biến động của
lịch sử diễn ra hàng thế kỷ, họ phải di cư theo nhiều hướng. Một bộ phận có lẽ
được mang tên là Trì, đi về hướng Đông và tụ cư ở miền Tây Quảng Trị Việt
Nam. Họ dừng lại ở khu vực xung quanh hòn núi Vân Kiều (còn gọi là Viên
Kiều). Về sau, người ta lấy tên của hòn núi đặt cho một tổng của họ; do đó,
đồng bào thường được gọi là người Vân Kiều [114, tr.126]. Một nhóm khác là
Bru Ma Coong cũng từ Lào di cư sang, nhưng muộn hơn nhóm Bru Vân Kiều
hiện đang sống ở các xã Tân Trạch, Thượng Trạch thuộc huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình ngày nay. Cuốn sách cũng đề cập đến ngôn ngữ và so sánh
các mối quan hệ giữa các nhóm, nhưng mới chỉ dừng lại ở một số ví dụ.
Ngoài ra, các phong tục tập quán, tín ngưỡng, nhà ở... của tộc người này cũng
được bàn đến nhiều. Tuy nhiên, các thông tin có liên quan được nêu ra mới
chỉ tập trung vào nhóm Bru thứ nhất, đó là nhóm Bru Vân Kiều (theo cách
chia của nhóm tác giả trong cuốn sách ấy), còn nhóm Bru thứ hai (Bru Ma
Coong) thì chưa được bàn luận hoặc nếu có, cũng rất ít. Như vậy, bên cạnh
những nét tương đồng trong một số phong tục tập quán của các nhóm Bru nói
chung, người Ma Coong cũng có những khác biệt chưa được đề cập trong
cuốn sách này.
Trong khoảng thời gian 1995 - 1998, đã có rất nhiều bài viết về một số
phong tục tập quán liên quan đến chu kỳ vòng đời của người Bru: hôn nhân,
13
tập tục sinh đẻ, tang ma... Đó là các bài viết như Hôn nhân và gia đình của
ngƣời Bru-Vân Kiều ở miền Tây Quảng Trị của Hồ Xuân Linh [53]; Hôn
nhân - gia đình - ma chay của ngƣời Tà Ôi, Cơ-Tu, Bru-Vân Kiều ở Quảng
Trị - Thừa Thiên của Lê Phạm Minh Quý [76]; Hôn nhân và thân phận lệ
thuộc của ngƣời phụ nữ Bru-Vân Kiều của Lý Tùng Hiếu [40]; Tập tục sinh
đẻ và nuôi con ở ngƣời Bru-Vân Kiều huyện Hƣớng Hóa, Quảng Trị của Vũ
Đình Lợi [56]; Những hình thức tang lễ của ngƣời Bru-Vân Kiều của Hồ Chư
[17]. Điểm đáng chú ý là các công trình, bài viết vừa kể trên chứa đựng nguồn
tư liệu thực địa phong phú, công phu. Điều đó cũng dễ hiểu bởi một số công
trình, khóa luận tốt nghiệp do tác giả là người địa phương thực hiện. Tuy
nhiên, các bài viết ấy đều giống nhau về cách tiếp cận: chủ yếu theo lối khảo
tả, hầu như không phân tích; càng hiếm có những nghiên cứu so sánh giữa các
nhóm địa phương, cho dù là các nhóm ấy thuộc một dân tộc. Nếu có sự diễn
giải và so sánh, chắc sẽ chỉ ra những điểm riêng và khác biệt rõ hơn giữa các
nhóm địa phương của tộc người Bru-Vân Kiều.
Như vậy, so với nguồn tư liệu về dân tộc Bru-Vân Kiều của các học giả
nước ngoài, các nhà khoa học Việt Nam, đặc biệt là các nhà dân tộc học, đã
có những quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn về dân tộc này. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn còn hiếm những nghiên cứu chuyên sâu về người Ma Coong - một
nhóm địa phương của dân tộc Bru-Vân Kiều.
Liên quan trực tiếp đến nghiên cứu người Ma Coong, đáng chú ý nhất
là một số bài viết của tác giả Nguyễn Văn Trung đăng trên một số tạp chí
chuyên ngành trong thời gian gần đây. Cụ thể là các ấn phẩm: Lễ hội đập
trống của ngƣời Ma Coong [105]; Một số phong tục tập quán của ngƣời Ma
Coong ở phía Tây Quảng Bình [106]; Yếu tố tâm linh trong đời sống của
ngƣời Ma Coong [107]; Biểu tƣợng trống trong lễ hội và trong đời sống của
ngƣời Ma Coong [108]; Trống trong đời sống xã hội của ngƣời Ma Coong
14
[110] và Lễ hội đập trống của ngƣời Ma Coong [109]. Có thể nói, đây là
những bài viết và luận văn thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về người Ma Coong,
cũng chính do tác giả luận án thực hiện. Trong đó, tác giả đã giới thiệu một số
phong tục tập quán, đời sống vật chất và tâm linh của người Ma Coong. Đặc
biệt, luận văn thạc sĩ của tác giả về Lễ hội đập trống của ngƣời Ma Coong
chủ yếu mô tả diễn biến của lễ hội đập trống. Thông qua lễ hội ấy, tác giả đã
chỉ ra một số vấn đề như nét độc đáo trong lễ hội, trống thể hiện bản sắc văn
hóa tộc người và như là một biểu tượng cố kết cộng đồng, một số vấn đề đặt
ra trong bối cạnh hiện nay đối với lễ hội của người Ma Coong... Tuy nhiên,
các bài viết cũng như luận văn vừa đề cập cũng chỉ dừng lại ở mức độ khảo tả
về văn hóa của người Ma Coong, chưa có điều kiện tập trung phân tích, đánh
giá, hay so sánh với tộc người khác để thấy được nét tương đồng và khác biệt
trong đời sống văn hóa - xã hội của đồng bào Ma Coong.
Tóm lại, cho đến nay đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về dân
tộc Bru-Vân Kiều, trong đó có người Ma Coong. Những nghiên cứu ấy đã đề
cập đến khá nhiều khía cạnh. Song, vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên khảo
về người Ma Coong, ngoại trừ một số bài viết, luận văn thạc sĩ của chính tác
giả luận án. Tuy nhiên, các bài viết và luận văn của tác giả cũng chỉ đề cập
đến một số phong tục, tập quán, lễ hội... Mặc dù vậy, những công trình nghiên
cứu vừa kể trên cũng cung cấp nguồn thông tin và tư liệu quý, làm nền tảng
cho nghiên cứu sâu hơn về người Ma Coong, trong đó có vai trò của chủ đất người có uy tín trong cộng đồng Ma Coong ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về chủ đất, trong đó có chủ đất người
Ma Coong
Ở người Ma Coong, trong mỗi bản làng đều có một đến hai người già
làng. Song, khi nói đến già làng của cả cộng đồng Ma Coong ở huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình thì chỉ có một, và người ấy cũng chính là người chủ
15
đất. Vì thế, chủ đất của người Ma Coong, ngoài cương vị và trách nhiệm của
mình, còn giữ vai trò như một già làng. Bởi vậy, trước khi điểm qua tình hình
nghiên cứu về chủ đất, không thể bỏ qua những nghiên cứu về già làng.
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu về già làng
Nhận thức được tầm quan trọng của những người có uy tín trong cộng
đồng, đặc biệt là những người lớn tuổi, ở nhiều nơi còn được coi là “già
làng”, cho đến nay đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về già làng.
Trong đó, có thể kể đến một số ấn phẩm sau:
Trần Khải Định với bài viết Phát huy vai trò các già làng ở Đắc Lắc2
[27] cho thấy trước đây già làng rất am hiểu về luật tục nên thường đứng ra
giải quyết các xích mích, mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng; ngay nay, già
làng ở tỉnh Đắk Lắk vẫn là người vận động, giải thích và thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Theo tác giả, già làng ở tỉnh Đắk
Lắk cũng chính là Trưởng bản [36, tr.49].
Bàn về vai trò của già làng ở Tây Nguyên trong phát triển kinh tế có
Vai trò của ngƣời cao tuổi và già làng dân tộc thiểu số trong phát triển ở Tây
Nguyên hiện nay của Nguyễn Thế Huệ [48] và Ngƣời cao tuổi dân tộc và già
làng trong phát triển bền vững Tây Nguyên cũng của chính tác giả này [47].
Đây là những công trình nghiên cứu khá công phu về người cao tuổi và già
làng ở Tây Nguyên - cũng là khía cạnh được luận án chú ý bởi mối quan tâm
tương đồng về vấn đề người cao tuổi, già làng, người có uy tín trong cộng đồng.
Linh Nga Niê Kdam với Già làng Tây Nguyên [69] đã chỉ ra hai vấn đề
đáng chú ý nhất: 1) Hình ảnh các già làng trong trường ca - sử thi và truyện
cổ; và 2) Ảnh hưởng của già làng trong luật tục cổ truyền. Hai vấn đề vừa kể
trên có liên quan trực tiếp đến luận án này; do vậy, chúng cũng là nguồn tư
liệu tham khảo rất hữu ích.
2
Nay địa danh này được viết là Đắk Lắk.
16
Có thể nói, các công trình nghiên cứu vừa kể trên tuy chưa đề cập nhiều
đến thuật ngữ “chủ đất”, có chăng mới chỉ chung chung, song đây là những tư
liệu rất đáng quan tâm, hữu ích để có được những so sánh trong luân án.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu về chủ đất và chủ đất ngƣời Ma Coong
Quá trình tìm kiếm và thu thập tư liệu cho thấy đã có một số bài viết, ấn
phẩm có bóng dáng, hình ảnh của người “chủ đất” nhưng chưa đặt thành
những chương, mục, nội dung cụ thể về vấn đề này. Tuy vậy, đó cũng là
những tư liệu đáng quan tâm. Chẳng hạn như một số tài liệu dưới đây:
Cuốn Cơ cấu tổ chức làng Bru cổ truyền ở huyện Hƣớng Hóa, Bình Trị
Thiên của Vũ Lợi [55], tuy chỉ dài 12 trang, nhưng chứa đựng rất nhiều thông
tin gần với thực tiễn liên quan đến chủ làng (xuất - vil), chủ đất (xuất cu tẹ).
Bàn đến chủ đất, tác giả viết: “quyền sở hữu đất đai được biểu hiện ở người
chủ đất, những người từ nơi khác đến, muốn được sinh sống trong làng phải
có một lễ nhỏ (con gà và một chai rượu) để xin phép chủ đất, lễ này được tiến
hành tại nhà chủ đất và có sự tham gia của hội đồng già làng. Như vậy, theo
tác giả Vũ Lợi, chủ đất là người thay mặt cộng đồng quản lý đất đai và giữ gìn
luật tục, có quyền cho phép hoặc xử phạt những trường hợp vi phạm đất đai
của cộng đồng.
Đề cập đến thiết chế của xứ (vùng), Tạ Long và Ngô Thị Chính có bài
viết Đôi nét về tổ chức trên làng của ngƣời Chứt và ngƣời Bru-Vân Kiều ở
Quảng Bình. Đây cũng là một trong những bài viết hiếm hoi đề cập đến chủ
đất, trong đó có chủ đất của người Ma Coong: khái niệm, phân loại, chức
năng, quyền lợi của chủ đất/chủ xứ [59, tr.30].
Có thể cho rằng, các tác giả Tạ Long, Ngô Thị Chính và Vũ Lợi có
cùng một số quan niệm khi đề cập đến chủ đất như là người có công khai phá
ra vùng đất mới, chịu trách nhiệm về các nghi lễ cúng tế cộng đồng và làng
(vil) là một tổ chức xã hội cơ bản trong xã hội truyền thống của người Bru, và
17
mỗi vil có một bộ máy điều hành và quản lý mọi sinh hoạt của cộng đồng.
Tuy nhiên, theo tác giả Vũ Lợi, chủ đất của người Bru ở đây là chủ của một
làng (vil), còn hai tác giả Tạ Long và Ngô Thị Chính lại cho rằng chủ đất là
chủ của xứ (k’ruông), tức chủ của cả một vùng mà trong đó có rất nhiều làng
(vil). Song, có điều đáng lưu ý là, do hai tác giả Tạ Long và Ngô Thị Chính
không phân biệt chủ đất của người Bru-Vân Kiều và người Ma Coong nên khi
đề cập đến các lễ cúng, những thông tin mà các tác giả đưa ra mới chỉ nói đến
chủ đất người Bru-Vân Kiều. Trong khi đó, trên thực tế, người Ma Coong có
hai lễ cúng rất quan trọng mà chủ lễ chính là ông chủ đất, nhưng chưa thấy
các tác giả trên nhắc đến trong các công trình của mình, đó là: cúng trong lễ
hội và cúng trong lễ tế trâu (lễ hiến tế súc vật). Hai lễ cúng này của người Ma
Coong có tính cộng đồng rất cao và có tầm ảnh hưởng rộng lớn, không chỉ ở
phạm vi làng mà còn ở phạm vi xứ (k’ruông).
Như đã trình bày ở trên, năm 2011, Nguyễn Văn Trung với đề tài luận
văn thạc sĩ về Lễ hội đập trống của ngƣời Ma Coong cũng đề cập đến ông chủ
đất trong vai trò là một chủ lễ cúng trong lễ hội. Tuy vậy, tác giả luận án mới
dừng lại ở nội dung bài cúng và cũng như việc thực hành nghi lễ bài cúng đó.
Trong khi đó, vẫn còn rất nhiều khía cạnh khác liên quan đến ông chủ đất như
đối tượng cúng tế, các thần linh tôn thờ, con người cũng như bản chất và vai trò
của ông chủ đất trong đời sống kinh tế - xã hội... chưa được quan tâm làm rõ.
Tóm lại, đến nay đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về dân tộc
Bru-Vân Kiều, trong đó có người Ma Coong, của nhiều tác giả trong và ngoài
nước. Các tác giả cũng đã đề cập đến phong tục, tập quán, đời sống tinh thần,
thiết chế xã hội, ngôn ngữ... của dân tộc này. Tuy nhiên, chưa thấy một công
trình nghiên cứu chuyên biệt nào về người Ma Coong, ngoại trừ một số bài
viết và luận văn của tác giả luận án; đặc biệt là vai trò của người chủ đất trong
đời sống của người Ma Coong vẫn đang là một khoảng trống.