Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.94 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC...............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................2
NỘI DUNG.............................................................................................................3
I. NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA:...........................................................................3
1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường:................................................................3
1.2. Sự cần thiết tồn tại kinh tế thị trường:..............................................................4
1.3. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:...............................5
1.4. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:......................6
II. THỰC TRẠNG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA:..................................................7
2.1. Trước đổi mới:..................................................................................................7
2.2. Sau đổi mới:.....................................................................................................9
2.3. Hạn chế trong phát triển kinh tế.....................................................................11
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.....................13
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯÒNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:............................................18
KẾT LUẬN...........................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................243

1


LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1975, khi cả nước độc lập. Cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành
trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa xã
hội. Đảng ta đã chủ trương giữ vững quan điểm cũng như con đường mà chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở


thành một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công
bằng văn minh. Để đạt được như vậy, Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên phát
triển kinh tế và coi đó là vấn đề sống còn và một trong số đó là xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên tinh thần đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế và trên cơ sở tổng
kết những thành công, yếu kém, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm trong những
bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Chính vì vậy mà xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta,
và nhờ có đường lối đúng đắn kinh tế nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng
đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiên đáng kể, chính trị
xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững. Nước ta từ một nước
có nên kinh tế quan liêu, bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị
trường.

2


NỘI DUNG

I. NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA:
1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường:
Theo quan điểm của Samuelson trích trong kinh tế học thì: “ Một nền kinh

tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân
và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện
giao thông để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau,
không có bộ não trung tâm nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất hiện
nay cũng không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và nó đang
thay đổi cũng như xã hội loài người”.
Theo quan điểm của đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ
bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Nói cách
khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của
cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với nền tập trung ở chủ thể xác định các
vấn đề cơ bản của nền kinh tế mà nền kinh tế tập trung chủ thể này là nhà nước
thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt này tạo ra sức mạnh và
là động lực cho nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã xác
định xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tức là có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhưng không phải can thiệp
vào nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp thông qua các chính
sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế và tạo điều kiện cho mọi thành phần
kinh tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này được xem là cần
thiết nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp, sữa chữa những khuyết tật của
thị trường, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn định nền kinh tế vĩ mô ( Kinh tế
học – Samuelson). Đây là lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp đã được Samuelson đưa
ra/ Theo ông phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn taylà cơ chế thị trường và
3


nhà nước: “điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì
cũng như định vỗ bằng một bàn tay”. Tuy nhiên trong hoàn cảnh nước ta thì sự
can thiệp của nhà nước còn đóng vai trò giữ cho nền kinh tế đi theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.

1.2. Sự cần thiết tồn tại kinh tế thị trường:
Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn tại của nền
kinh tế hàng hoá. Phân công lao động đang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. nhiều ngành nghề mới đã ra đời, đặc biệt là những ngành công nghiệp có
hàm lượng kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin học… Bên cạnh
đó các làng nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh mẽ. Các sản phẩm của
ngành đang từng bước khẳng định thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc
tế. Đây chính là những thế mạnh củaViệt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới.Sự phát triển này đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng của lực lượng
sản xuất.
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI. Việt Nam đã chính thức thừa
nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ đó các thành
phần kinh tế này đã có những điều kiện cần thiết để phát triển. Từ đó xuất hiện sự
khác biệt giữa các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.
Đây chính là điều kiện đủ để nền kinh tế hành hoá có cơ sở ra đời. Khác biệt về
sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã tạo ra động lực to lớn để thúc
đẩy kinh tế phát triển mặc dù mặt trái của nó là sự phân hoá về giàu và nghèo.
Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đến
lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Cơ chế thị trường với
những ưu thế không thể chối cãi là một sự lựa chọn hợp lý và cần thiết. Cơ chế
quản lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã không còn phù hợp với tình hình trong
nước và quốc tế. Những căn bệnh đặc trưng của cơ chế cũ như bảo thủ, trì trệ,
kém năng lực hình thành nên bộ máy quản lý thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhưng
lại có thái độ quan liêu, cửa quyền cần phải được thay đổi. Thực tế cho thấy trải
qua gần hai mươi năm đổi mới gây dựng nhưng chúng ta vẫn phải thực hiện các

4


cuộc chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy hành chính chứng tỏ những quan niệm cũ

sai lầm đã ăn sâu bám rễ như thế nào. Việc xoá bỏ hoàn toàn không dễ dàng,
không thể hoàn thành trong một sớm một chiều nhưng đó là việc cần thiết để thúc
đẩy kinh tế phát triển. Cùng với cơ chế cũ cũng là sự bất cập khi nhà nước can
thiệp quá sâu vào sản xuất kinh doanh,
điều hành không tuân theo các qui luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn đến sự
thất bại trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra. Chuyển sang cơ chế
mới sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển theo đúng những qui
luật kinh tế khách quan.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng việc chuyển đổi sang mô hình
kinh tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó
chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn
và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển
lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm trong những năm 2000 là 7%. Trong đó nông nghiệp phát triển
liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực đưa Việt Nam trở thành nước thứ ba trên
thế giới về xuất khẩu lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân
hàng năm 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường.
Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao tích luỹ xã hội, tạo tiền đề cho sự
phát triển trong tương lai.
1.3. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có một số
điểm như sau:
Thứ nhất , quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường
đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị
trường thế giới.
Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển nền kinh tế còn
mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế

5



thị trường và qua trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định nền kinh tế hàng hoá đã
làm cho thị trường dân tộcgắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới, Chính giao
lưu hàng hoá đã làm cho quan hệ quốc tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng.
Trong quan hệ quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã
chuyển quan hệ quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các
nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và
không can hệ vào chuyện nội bộ của nhau.
1.4. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên
trong xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện
đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và
phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững
chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
Về quản lý trong kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
thị trường, các hình thức kinh tế và phương thức quản lý kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế


6


những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao
động và toàn thể quần chúng nhân dân.
Về phân phối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể
kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đông thời hạn chế
những bất công trong xã hội.Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn
thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con nguời, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước thể hiện trình độ tư duy và vận dụng
của Đảng ta về qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

II. THỰC TRẠNG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA:
2.1. Trước đổi mới:
Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách
mạng Việt Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu
ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh kéo dài. Trong 15 năm nhân dân ta đã không
ngừng phấn đấu vựot qua bao khó khăn thử thách mới giành được độc lập thống
nhất đất nước. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến
7


tranh, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước xác lập quan hệ sản
xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát
triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y tế, thiết lập củng cố chính quyền nhân dân
trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản
xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự cung tự cấp. Trình độ
trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như trong kết cấu hạ tầng kinh tế
văn hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc
nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu
quả tiêu cực do đó nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều với đặc trưng sản xuất chậm và
không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động
và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn
hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được đảm
bảo, tham nhũng nhiều và tệ nạn xã hội phát triển.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp
hành Trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được chấp
nhận nhưng mới ở mức độ thứ yếu. Đó là do qua nhiều thập kỷ qua, tư tưởng kinh
tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến coi quan hệ hàng hoá và cơ chế thị
trường là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng
ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều chủ quan duy ý
chí các mặt bố trí cơ cấu kinh tế thiếu về phát triển công nghiệp nặng, quy mô lớn
với xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát
triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, nặng nề hình thức phủ nhận nền kinh

tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả.
Những sai lầm đó đã dẫn đến việc kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực
phát triển, cuộc cải cách kinh tế bị đẩy lùi. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh
tế Mác bị xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ.

8


2.2. Sau đổi mới:
Trong gần 30 năm đổi mới, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), qua mỗi kỳ Đại hội, nhận thức về
mô hình KTTT định hướng XHCN ở nước ta từng bước được đổi mới, nâng cao;
các nền tảng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN đã được hình thành và
từng bước phát triển.
Từ Đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng nghiên cứu đổi mới nhận
thức, lý luận, có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng và hoàn thiện
thể chế KTTT định hướng XHCN, luôn coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước. Đại hội X của Đảng xác định tiếp tục
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách để: "phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 30-1-2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN. Đây là một nghị quyết có tầm chiến lược và mang tính đột phá,
được triển khai thực hiện khá đồng bộ, nghiêm túc, sâu rộng; huy động được cả
hệ thống chính trị tham gia tích cực.
Quá trình thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN đến nay đã nhận thức ngày
càng rõ hơn về mục tiêu, đặc trưng và cơ chế vận hành của nền KTTT định hướng
XHCN. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện, tạo

khung khổ pháp lý đồng bộ, thuận lợi hơn cho sự vận hành của nền KTTT định
hướng XHCN. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông
thoáng hơn, nâng cao hơn vai trò, sức cạnh tranh của các chủ thể, các loại hình
doanh nghiệp; huy động tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước; tạo nhiều
việc làm mới, góp phần nâng cao sức sản xuất của xã hội.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành ngày càng đầy
đủ, đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá
đã vận hành theo nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự
9


quản lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hóa - dịch vụ thiết yếu. Vai trò của
Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy
dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu,
rộng. Đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây
dựng Cộng đồng ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết WTO; đã và đang đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
Tuy nhiên, cho đến nay đã bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ với yêu cầu của nền KTTT
định hướng XHCN và yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, thực hiện ba đột phá chiến lược. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng
đầy đủ; môi trường kinh doanh chưa thật sự bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành
mạnh; việc gia nhập, hoạt động và rút khỏi thị trường còn nhiều rào cản. Quản lý,
điều hành giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu còn lúng túng, chưa thật sự
tuân thủ theo nguyên tắc thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước còn chưa thể hiện được đầy đủ vai trò nòng cốt
trên thực tế. Hầu hết doanh nghiệp ngoài nhà nước quy mô còn nhỏ, thiếu liên
kết. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn hoạt động chủ yếu trong các
ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn chế trong chuyển

giao công nghệ. Trình độ phát triển của các loại thị trường còn thấp. Hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Hội nhập
kinh tế quốc tế còn chưa phát huy tốt nhất các nguồn lực bên ngoài để phát triển.
Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước chưa thật sự đáp ứng yêu cầu các cam kết
hội nhập. Nhiều bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp chưa chủ động tận
dụng cơ hội và khắc phục khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập.
Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém trên là do nhận thức về nền KTTT
định hướng XHCN còn có một số vấn đề chưa rõ. Chưa thật sự phát huy đầy đủ
quyền tự do kinh doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Cơ chế thực thi và phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong tổ chức quán
triệt, thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu
10


quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, rút kinh nghiệm, năng lực phân
tích, dự báo và điều chỉnh chính sách vẫn còn nhiều hạn chế.
2.3. Hạn chế trong phát triển kinh tế
Măc dù nước ta đã đạt được nhưng thành tựu nhất định trong phát triển
kinh tế và ổn định tình hình chính trị xã hội nhưng không phải không còn nhưng
tồn tại cần được giải quyết nhất là những tồn tại trong việc điều hành nền kinh tế
và giải quyết các vấn đề thương mại .Tuy những khó khăn này chỉ là tạm thời
nhưng chúng ta vẫn phải giải quyết để làm lành mạnh hoá nền kinh tế và đẩy
nhanh công cuộc phát triển kinh tế nước nhà .
Một trong những hạn chế lớn hiện nay là Việt Nam còn thiếu quá nhiều
thông tin , đặc biệt là thông tin trong lĩnh vực kinh tế. Không có các thông tin cần
thiết về thị trường , về Luật kinh tế dẫn đến nhiều thất bại. Đáng chú ý là vấn đề
thương hiệu và gần đây là những khó khăn trong việc thâm nhập thị trường Mỹ.
Chính từ hai nguyên nhân này mà Việt Nam thất bại trong vụ kiện cá ba sa.Về
mặt nào đó vụ kiện này có mặt thiên vị cho Hiệp hội chủ trại cá nheo Mỹ nhưng
phải thừa nhận chúng ta đã không có nhưng thông tin cần thiết và cũng không tiến

hành những hoạt động mà đáng ra chúng ta phải thực hiện trước khi thâm nhập và
thành công trên thị trường khó tính này. Một hạn chế khác là chúng ta vẫn còn tồn
tại những nghành kinh tế còn quá yếu kém khi mà chúng ta đã và đang dỡ bỏ một
số hạn ngạch thuế quan cho một số mặt hàng để chuẩn bị cho quá trình tham gia
tổ chức thương mại quốc tế WHO. Nguyên nhân của sự khó khăn này một phần là
do còn có nhưng ngành kinh tế hoạt động không hiệu quả đặc biệt trong sử dụng
vốn. Một phần là do một phần những ngành khác có tỷ lệ nội địa hoá thấp. Ngoài
ra vẫn phải thừa nhận là các ngành kinh tế Việt Nam phát triển phần lớn là dựa
vào sự tăng lên về vốn. Theo thống kê gần đây thì trong cơ cấu một đồng sản
phẩm tăng lên thì có tới 74% là do tăng về vốn , 14% do lao động và chỉ có 12%
là do sự tăng lên về năng suất thôi. Trong những nghành có tỷ lệ nội địa hoá thấp
thì có thể kể đến ngành ô tô và công nghệ tin học, phần lớn hàng hoá sản xuất

11


trong nước mới dừng ở mức lắp ráp sản phẩm linh kiện nhập từ nước ngoài về.Ví
dụ ngành ô tô tỷ lệ nội địa hoá mới ở mức 8%, cao nhất là Toyota Việt Nam tỷ lệ
này cung chỉ đạt 14%. Hiện nay một trong những vấn đề mà các nhà quản lý
không thể giải quyết mâu thuẫn giữa việc giảm để kích thích tiêu dùng các loại
hàng hoá đồng thời phải tăng thuế để buộc các doanh nghiệp tăng tỷ lệ nội địa
hoá.
Đó là trên sân nhà, còn trên thị trường thế giới thì sao? Nói chung hàng hoá
Việt Nam vẫn còn chủ yếu cạnh tranh bằng giá. Nói chung công nghệ sản xuất
của Việt Nam còn khá lạc hậu nên hàng hoá có giá trị thấp, hàm lượng khoa học
không cao. Kết quả dễ thấy là lợi nhuận sẽ thấp. Trong khi đó, Việt Nam lại chưa
vươn tới những thị trường dễ tính như châu Phi, Đông Âu… mà chủ yếu hàng hoá
xuất sang EU, Nhật và Mỹ vốn là những thị trường khó tính đòi hỏi những tiêu
chuẩn khắt khe. Các tham tán thương mại cũng chưa hoạt động hiệu quả trong
việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường. Một vấn đề nữa là hàng hoá Việt

Nam vẫn hay bị một số nước mua lại, dán nhãn mác khác để bán ra thị trường.
Đây là một thiệt thòi lớn cho chúng ta không chỉ là lợi nhuận mà còn liên quan
đến những quyền lợi và tài sản vô hình khác.
Không chỉ vậy, trong lĩnh vực quản lý nhà nước chúng ta cũng còn tồn tại
không ít những hạn chế đặc biệt trong lĩnh vực quản lý hành chính và chế độ tài
chính công. Phải thừa nhân rằng bộ máy hành chính của Việt Nam còn rất cồng
kềnh và còn quá nhiều khâu trùng lặp. Mặc dù chúng ta đã có những cải cách
trong rút gọn thủ tục hành chính nhưng vẫn còn khá phức tạp, chưa thực sự thông
thoáng. Tiêu biểu là việc cải thiện chế độ hải quan tại các cảng biển nước ta. Theo
đánh giá của các nhà kinh doanh nước ta đây là một tiến bộ lớn nhưng sau một
thời gian kiểm điểm lại chính chúng ta cũng phải thừa nhận những khiếm khuyết
vẫn còn tồn tại. Đồng thời với việc
nặng nề trong thủ tục hành chính thì vấn đề liên hệ giữa các thành phàn
tham gia giải quyết cũng chưa thông suốt. Hệ thống luật Việt Nam cũng chưa
thực sự hoàn thiện và thiếu sự ổn định. Đặc biệt là hệ thống luật kinh tế nói chung
luôn thay đổi gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Gần đây các phương tiện
12


thông tin đại chúng liên tục đưa ra những kiến nghị của các doanh nghiệp xung
quanh vấn đề mua hoá đơn GTGT. Theo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài
tham gia giúp đỡ Việt Nam trong việc soạn thảo các văn bản luật thì nguyên nhân
chính là do Việt Nam có quá nhiều văn bản chồng chéo. Ngoài luật còn có thông
tư, chỉ thị, hướng dẫn.Đôi khi chính những văn bản này lại hạn chế lẫn nhau, mâu
thuẫn với nhau. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh cũng hạn chế khả năng hoạt
động của các nhà đầu tư. Cái khó nhất ở đây là bộ máy hành chính càng cồng
kềnh càng tạo ra nhiều khâu trung gian, càng làm mất thời gian của doanh nghiệp
trong khi đó có không ít khâu còn có sự chồng chéo nhau không phân định rõ
phạm vi hoạt động.


III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM
Nền kinh tế Việt Nam được cấu thành bởi hai thành tố là kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai thành tố này có quan hệ tương tác với nhau,
phản ảnh tính phổ biến, tính đặc thù và đòi hỏi phải giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa phổ biến và đặc thù trong quá trình phát triển và quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn lại gần 30 năm phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, không phải lúc nào mối quan hệ giữa tính phổ
biến là kinh tế thị trường và tính đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
được giải quyết tốt. Trong phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường, một mặt,
nhiều đòi hỏi khách quan từ các quy luật của kinh tế thị trường chưa được giải
quyết thỏa đáng và mặt khác, nhiều vấn đề phản ánh bản chất, đặc trưng cơ bản
của tính định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chưa được coi trọng đúng mức. Có khi
chúng ta chỉ vì quá nhấn mạnh đến bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa nên
đã không bảo đảm được những quy luật khách quan của kinh tế thị trường và
ngược lại chỉ đơn thuần coi trọng thị trường, chạy theo các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế mà hy sinh mục tiêu xã hội và phát triển con người. Trong tư duy của một

13


số người dường như vẫn có sự không thanh thoát, thậm chí còn mâu thuẫn khi
giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận định tổng quát trên, trong giai đoạn tới cần phải:
- Phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ theo hướng hiện đại trên cả hai
phương diện kết cấu và thể chế.
- Định hình rõ nét hơn và tạo sự đồng thuận xã hội rộng lớn hơn về những
nội dung biểu hiện định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường
xét cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn.

Những vấn đề mang tính phổ biến mà Việt Nam cần giải quyết để hình
thành nền kinh tế thị trường hiện đại gồm:
a. Phải hình thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tôn trọng các quy
luật của thị trường và giải quyết hài hòa mối quan hệ nhà nước - thị trường doanh nghiệp; chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực.
b. Phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường hiện đại với
những đặc trưng cơ bản, mang tính phổ biến đối với tất cả các quốc gia, không
phân biệt chế độ chính trị. Thiếu những đặc trưng cơ bản này thì nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam không thể được coi là kinh tế thị trường hiện đại.
Về định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường hiện
đại ở Việt Nam
Định hướng xã hội chủ nghĩa phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vừa phải được phát triển
theo những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa phải được định
hướng, điều tiết và giám sát cho phù hợp với bản chất và những nguyên tắc của
một xã hội đang từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự phù hợp với bản chất và những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là một quá trình lâu dài, từ chưa
đầy đủ, chưa hoàn thiện đến đầy đủ, hoàn thiện. Việc nhận diện đúng trạng thái
phát triển của xã hội trong từng giai đoạn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam để từ đó có những quyết sách phát triển và quản lý phù hợp, tránh
ngộ nhận có thể dẫn đến sai lầm duy ý chí, siêu hình là rất quan trọng.
14


Một trong những vấn đề quan trọng là sự cần thiết phải cụ thể hóa những
nội dung cơ bản phản ánh định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước
nói chung và phát triển kinh tế thị trường nói riêng. Ở nước ta, điều này lần đầu
tiên đã được chính thức luận giải khái quát trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
IX và được nhắc lại ở Đại hội Đảng lần thứ X. Từ đó cho đến nay vẫn chưa có
những bước tiến mới trong việc tiếp tục cụ thể hóa những nội dung phản ánh tính

định hướng này. Do đó, đây là điều cần phải nghiên cứu và giải quyết.
Xã hội Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam không phải là tư bản chủ nghĩa
nhưng trong nhiều thập niên nữa cũng chưa phải là xã hội chủ nghĩa, mà là định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định những định hướng
lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những định hướng lớn này bao
gồm cả những nội dung phát triển mang tính phổ biến, có giá trị chung toàn cầu,
lẫn những nội dung phát triển đặc thù của Việt Nam, nhất là những nội dung có
liên quan đến định hướng chính trị của sự phát triển. Song, những nội dung đó
cần phải được tiếp tục bổ sung mới, hoàn thiện, cụ thể hóa và thể chế hóa nhằm
đáp ứng những đòi hỏi của đất nước ở từng giai đoạn phát triển dưới tác động
ngày càng trực tiếp và mạnh mẽ của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; của kinh tế
thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Tính định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường, nhìn trên tổng thể cũng còn bị chi phối
bởi những định hướng lớn về phát triển đất nước, đặc biệt là những nội dung phản
ánh định hướng chính trị mà Đảng ta đã quyết định. Mặt khác, cũng cần nhấn
mạnh, những nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế
thị trường cũng chịu chi phối bởi tính chất của nền kinh tế Việt Nam - một nền
kinh tế chưa phải là xã hội chủ nghĩa, mà mới đang từng bước quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hiện tại, chưa ai có thể hình dung được trước một vài thập niên tới
về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cho dù là trên những nét tổng quát
nhất. Nhưng, có một điều cần khẳng định rằng, nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa rất khác nhau về trình độ phát triển. Vì thế,
15


về mặt nhận thức, tư duy và quan điểm cần chú ý rằng, nhiều nội dung phản ánh
tính chất xã hội chủ nghĩa mà chúng ta kỳ vọng sẽ chưa thể và không thể thực
hiện được trong nền kinh tế đang được phát triển theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Chỉ có thực tiễn mách bảo và trên cơ sở tổng kết thực tiễn ở từng giai đoạn
phát triển đất nước tiếp nối nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
mới có thể tìm được lời giải đáp cho vấn đề này. Làm khác đi là không biện
chứng, là duy ý chí, siêu hình.
Để góp phần cụ thể hóa định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh
tế thị trường, hay nói một cách khác là luận giải bản chất của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, chúng tôi ngày càng theo đuổi cách tiếp cận về định hướng
chính trị của mục tiêu phát triển và những mối quan hệ lớn, những nhân tố cơ bản
tác động đến việc thực hiện định hướng chính trị của mục tiêu phát triển đất nước.
Cách tiếp cận này cũng đòi hỏi phải phân biệt rõ mục tiêu và phương tiện thực
hiện mục tiêu. Phải kiên định theo định hướng chính trị của mục tiêu phát triển
đất nước đã lựa chọn. Đó là nguyên tắc bất biến. Còn việc quyết định phương tiện
để thực hiện mục tiêu thì phải căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn và hiệu quả thực
hiện, chứ không phụ thuộc vào những mong muốn kỳ vọng, chủ quan duy ý chí.
Định hướng chính trị của mục tiêu phát triển đất nước, những mối quan hệ lớn
cần phải giải quyết trong quá trình phát triển này và sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân quyết định bản
chất khác biệt và phản ánh nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường Việt Nam, còn các phương tiện để đạt mục tiêu thì không.
Nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam cần được thể hiện như sau:
- Phát triển kinh tế thị trường phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát
triển đất nước là từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cho “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ”.
Bằng phát triển kinh tế thị trường hiện đại, từng bước tạo lập những cơ sở
kinh tế kỹ thuật cần thiết cho phát triển đất nước theo hướng hiện đại trong nhiều
thập niên tới, trước mắt là đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp
16



theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỷ này trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Chỉ có trên cơ sở đó mới làm cho dân giàu, nước mạnh, có điều kiện kinh tế để
giải quyết tốt những vấn đề dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân làm chủ.
- Giải quyết tốt những mối quan hệ lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu
phát triển đất nước ở từng giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những mối quan hệ lớn này phải cấu thành những nguyên tắc phản ánh đặc
thù quốc gia trong phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là quan hệ hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển
đất nước; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; giữa giữ vững độc lập, tự chủ trong phát triển và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế, hợp tác phát triển; giữa tuân thủ tính quy luật và coi trọng tính đặc
thù quốc gia trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện phân bổ thành quả tăng trưởng bảo
đảm tạo động lực, công bằng và tiến bộ xã hội; giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội, văn hóa, bảo vệ và làm giàu môi trường theo yêu cầu phát triển bền
vững.
- Bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình phát triển đất nước nói chung và phát triển kinh tế thị trường hiện
đại.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành tố nội tại của mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là cái đặc thù, riêng có của
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và phản ánh sự khác biệt về bản chất so với
những nền kinh tế thị trường khác trên thế giới. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng có bản lĩnh và trí tuệ đồng thời cũng là nhân tố quan trọng nhất để
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam.


17


IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯÒNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:
Muốn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Kế thừa Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, trên cơ sở tổng
kết 30 năm đổi mới, chúng tôi xin đóng góp một số nội dung cơ bản để tiếp tục
nghiên cứu, cụ thể là:
1 - Tiếp tục đổi mới tư duy và nhận thức về thể chế KTTT và phát triển nền
KTTT định hướng XHCN; đồng thời tiếp tục nghiên cứu để làm rõ nội dung mô
hình kinh tế tổng quát về phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Nền KTTT
định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế tuân theo các quy luật của KTTT có
sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, có hệ thống đầy đủ, đồng bộ các loại
thị trường; các chủ thể thị trường được cạnh tranh tự do theo pháp luật; giá cả
được hình thành trên cơ sở cung - cầu và quy luật giá trị; thị trường ngày càng
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển và là
một bộ phận hữu cơ của thị trường thế giới; Nhà nước đóng vai trò phục vụ, tạo
khung khổ pháp lý, hỗ trợ và quản lý phát triển nền kinh tế, tôn trọng các nguyên
tắc và các quy luật của KTTT. Các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và theo cơ chế thị trường.
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,
hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định
hướng, cùng với các công cụ và chính sách khác để Nhà nước điều tiết nền kinh
tế bảo đảm phát triển bền vững. Kinh tế tư nhân là một động lực phát triển quan

trọng của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh

18


nghiệp cổ phần. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp khởi nghiệp.
Trong thiết kế và vận hành thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải tiếp
tục hoàn thiện đồng bộ ba bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế có quan hệ hữu
cơ: (1) Hệ thống pháp luật, quy tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi và giao
dịch kinh tế; (2) Các thể chế về chủ thể và các yếu tố, các loại thị trường trong
nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh và xử lý vi phạm
trong nền kinh tế.
2 - Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và
cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa
vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công; quyền
quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc
tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh
chấp kinh tế.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước trên cơ sở đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ
theo nguyên tắc thị trường. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản, kể cả đất đai, tài
sản vô hình trong cổ phần hóa. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và
nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà
nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương
nghiên cứu để sớm thành lập cơ quan chuyên trách ngang bộ làm đại diện chủ sở
hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm

của các đơn vị sự nghiệp công về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính.
Áp dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp cho các đơn vị sự nghiệp công có nhu
cầu và điều kiện. Tiếp tục đổi mới kinh tế hợp tác và khu vực hợp tác xã, phát
triển, nhân rộng các hợp tác xã kiểu mới, nhất là trong nông nghiệp, tăng cường
chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, chủ động lựa chọn và ưu đãi đối
với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, có vị trí
19


trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với các doanh nghiệp trong nước trong
phát triển công nghiệp hỗ trợ.
3 - Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy
mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính, nhất là tái cơ cấu thị trường chứng khoán, thị
trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền kinh tế
(bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, các doanh
nghiệp...). Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các công cụ của
Ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động
sản được vận hành thông suốt, phù hợp cung - cầu. Đổi mới chính sách để khai
thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất.
Xây dựng các thể chế hình thành thị trường sơ cấp, thứ cấp về đất đai, kể cả đất
nông nghiệp thay thế cho cách thức giao đất, cho thuê đất, bảo đảm thị trường về
đất đai hoạt động công khai, minh bạch và trật tự. Hoàn thiện thể chế về giá, phí,
về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ
chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai minh bạch các yếu tố
hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách
hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Không lồng ghép các
chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí và lệ phí; rà soát, chuyển
đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá
dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Hoàn thiện thể chế bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4 - Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã
hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát triển và
bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên cứu, ban
hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát triển hệ
thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ giữa Nhà
nước, xã hội và người dân.
5 - Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy hoạch
và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Xây dựng quy
20


hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc
phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Tạo lập thể chế kinh
tế đặc thù, thúc đẩy các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm thật sự trở thành đầu
tàu, động lực lan tỏa vùng ngoại vi và cả nước. Hoàn thiện thể chế phân công,
phân cấp giữa Trung ương và địa phương, vừa bảo đảm tập trung thống nhất của
nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Đổi mới hệ
thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và địa phương.
6 - Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội
nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích kinh tế các hiệp định tự do
hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Hoàn thiện thể chế
phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp quốc tế; sớm hoàn thiện tương trợ tư pháp
phù hợp với pháp luật quốc tế.
7 - Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục điều chỉnh, hoàn chỉnh chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của các cấp ủy, chính quyền trong phát triển kinh
tế phù hợp với điều kiện KTTT định hướng XHCN. Nhà nước tập trung ổn định

kinh tế vĩ mô; thiết lập khung khổ pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi bảo
đảm các loại thị trường liên tục được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, có
cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát hiệu quả độc quyền kinh doanh
dưới mọi hình thức; tổ chức cung ứng các loại dịch vụ công ích, thiết yếu; giảm
bất công, bất bình đẳng về thu nhập, phúc lợi và thực hiện các nhiệm vụ xã hội
khác. Tăng cường năng lực thiết kế tổng thể và giám sát quá trình thực hiện đổi
mới thể chế kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính,
nhất là thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, có sức
cạnh tranh cao. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân
chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp
luật. Bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức chính trị, xã hội, xã hội nghề nghiệp trong xây dựng thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
21


22


KẾT LUẬN
Tóm lại để đưa đất nước có thể đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới
trong một tương lai không xa đồng thời cũng không để chệch hướng theo con
đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn thì nhất thiết chúng ta
phải xây dựng được một nền kinh tế thị trường vững mạnh theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và mang bản sắc của người Việt Nam. Những vấn đề đựơc đề cập
trên đây mới chỉ là một vài biện pháp mà chúng ta cần làm trong thời gian trước
mắt để tiếp tục ổn định và khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và
sau này trong quá trình phát triển lâu dài của đất nước.
Nhất là trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu hướng toàn
cầu hoá nền kinh tế thế giới thì khi đó sẽ mở ra rất nhiều cơ hội cũng như những
thách thức đòi hỏi chúng ta phải thật sáng suốt nếu không muốn bị lâm vào tình
thế bị động trước những diễn biến của nền kinh tế thị trường. Nó có thể gây ra

những hậu quả nghiêm trọng như: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tệ nạn
xã hội ngày càng tăng và phức tạp, các truyền thống bị thương mại hoá, nạn lạm
phát gia tăng…
Chính vì vậy, chúng ta cần phải trau dồi kiến thức cho thật tốt, bên cạnh đó
là nhân phẩm của một người cán bộ Đảng viên, là tầng lớp trí thức trong xã hội sẽ
đi đầu trong mọi việc mà Đảng và nhà nước tiến hành để góp phần vào việc hoàn
thiện nền kinh tế thị trường tiến tới việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị, Đại học Kinh tế Quốc dân;
2. Xây dựng nền kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa, Nguyễn
Nhâm;
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, NXB Chính trị quốc gia;
4. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, GS - TS Chu Văn Cấp;
5. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn và phướng
giảI quyết, TS Nguyễn Tấn Hùng;
6. Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng;
7. Một số tài liêukj lấy từ nguồn Internet.

24



×