Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.69 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LUẬT VÀ QUẢN LÍ XÃ HỘI

NÔNG THANH TÙNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH LUẬT
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI DỰ ÁN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐẠI
TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2018
i


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các thầy cô
của trường Đại học Khoa học Thái Nguyên, đặc biệt là các thầy cô Khoa Luật và
Quản lí xã hội của trường đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập;
Em cũng xin chân thành cảm ơn cô Trịnh Vương An – Giảng viên Khoa Luật
và Quản lí xã hội Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên, người tận tình hướng dẫn
giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành bài khóa luận này;
Cảm ơn các cô, chú, anh, chị cán bộ Uỷ ban nhân dân huyện Đại Từ đã nhiệt tình
giúp đỡ em trong việc tìm kiếm và tham khảo tài liệu, sách vở;

Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới những người thân trong
gia đình và bạn bè đã luôn động viên, chia sẻ, khích lệ, giúp đỡ em trong suốt quá
trình hoàn thành bài khóa luận.
Trong quá trình làm bài khóa luận khó tránh khỏi sai sót, đồng thời do trình
độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của em còn hạn chế nên bài khóa luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy, cô để bài khóa luận được hoàn thiện hơn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Nông Thanh Tùng

ii


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA..............................................................................................................i
MỤC LỤC........................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT.........................................................................iv
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU..........................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu...............................................................................1
2. Tổng quan tài liệu........................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài......................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................5
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu....................................................5
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu........................................................................................6
7. Kết cấu của khóa luận....................................................................................................6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÌ MỤC ĐÍCH KINH TẾ XÃ HỘI....................................7
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TẠI
HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN......................................................................31
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI DỰ ÁN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI TẠI HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN...............................50
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 56

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................57

iii


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT

DẠNG VIẾT TẮT

DẠNG ĐẦY ĐỦ

1
2
3
4
5
6
7

TS
Th.s

CP
UBND
TĐC
GPMB

Tiến sĩ
Thạc sĩ

Nghị định
Chính phủ
Uỷ ban nhân dân
Tái định cư
Giải phóng mặt bằng

iv


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
NỘI DUNG

Trang

Bảng 2.1

Tổng hợp kết quả thực hiện công tác
GPMB 5 tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2013 – 2017

37

Bảng 2.2

Kết quả bồi thường GPMB các dự án tại
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2013-2017

37


Bảng 2.3

Kế hoạch sử dụng các loại đất trên địa bàn
của huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
trong năm 2018

39

v


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở nước ta, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là một
trong những chế định cơ bản và quan trọng của pháp luật đất đai. Mục đích của các
quy định này nhằm bảo đảm quyền lợi cho người có đất bị thu hồi, khắc phục
những thiệt hại mà họ phải gánh chịu khi thu hồi đất. Nhận thức được những thách
thức do việc thu hồi đất có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người sử dụng đất
cũng như các hoạt động kinh tế, xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các đường lối, chính sách, ban hành pháp luật về thu
hồi đất nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích của nhà đầu
tư và của xã hội. Mặc dù vậy, trong quá trình thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất vẫn không tránh khỏi những tồn tại, thiếu sót.
Nhìn chung, khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh,
xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xây dựng hạ tầng xã hội, trong nhiều trường
hợp mặc dù người bị thu hồi đất có những thiệt thòi trong bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư nhưng họ vẫn vui lòng vì mong muốn đóng góp chung để xây dựng một xã
hội văn minh hơn. Tuy nhiên, khi Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế (vì lợi
ích quốc gia) nhằm xây dựng các khu công nghiệp, khu dịch vụ, mặt bằng sản xuất,
kinh doanh phi nông nghiệp… thì vấn đề này trở nên nhạy cảm và phức tạp. Quy

luật giá trị bắt đầu tác động vào tư tưởng của người có đất bị thu hồi rồi hình thành
nên sự so sánh về thiệt thòi của mình khi đất do mình đang sử dụng được giao cho
người khác với khả năng sinh lợi cao hơn nhiều. Ở các địa phương khác nhau do
vai trò và giá trị đất khác nhau nên công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng
có nhiều điểm khác nhau. Khó khăn chủ yếu của quá trình thực thi pháp luật về bồi
thường giải phóng mặt bằng là việc xác định giá trị thực tế của đất đai, tài sản trên
đất do nó đa dạng và quá trình sử dụng tài sản khác nhau. Từ đó đã nảy sinh nhiều
khiếu kiện của dân về mức bồi thường, hỗ trợ, đồng thời tạo nên tâm lý nặng nề
đối với nhà đầu tư khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giải phóng mặt
bằng.
1


Thực tế hiện nay cho thấy công tác giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, tác động tới nhiều mặt của đời
sống kinh tế -xã hội. Những năm qua, số lượng các dự án đầu tư ở tỉnh Thái
Nguyên nói chung, huyện Đại Từ nói riêng đã tăng nhanh. Trong quá trình thực
hiện các dự án đầu tư thì giải phóng mặt bằng là một khâu quan trọng và có tính
đặc thù, không những ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ đầu tư mà còn liên quan đến
sự ổn định tình hình kinh tế, chính trị- xã hội của đất nước. Trong điều kiện quỹ đất
cũng như các nguồn tài nguyên khác ngày càng hạn hẹp và nền kinh tế thị trường
ngày càng phát triển thì vấn đề lợi ích về kinh tế của các tổ chức, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất và giao đất ngày càng được quan tâm hơn. Vì vậy, vấn đề bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đã và đang là một vấn đề mang tính thời
sự cấp bách.
Nhận thấy được tầm quan trọng của việc thực hiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, với mong muốn nghiên cứu nhằm
đánh giá thực trạng pháp luật và kiến nghị một số giải pháp với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền từ đó áp dụng pháp luật một cách hiệu quả hơn nữa trong quá trình
thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, đề tài “ Thực

hiện pháp luật về thu hồi đất đối với dự án phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn
huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên” đã được tác giả lựa chọn nghiên cứu.
2. Tổng quan tài liệu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau liên quan đến
việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia, công cộng. Có thể khái quát các công
trình nghiên cứu đó theo hai nhóm vấn đề sau:
Nhóm 1: Nghiên cứu pháp luật, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
TS. Nguyễn Quang Tuyến, ThS. Nguyễn Ngọc Minh, Pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Singapore và Trung Quốc – những
gợi mở cho hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất, tạp chí Luật học (Trường Đại học Luật Hà Nội), số 10/2010, tr 60 – 68.
2


Nguyễn Quang Tuyến, Vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất
trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Tạp chí Luật học (12), tr 42 – 46.
Nguyễn Quang Tuyến (2012), “Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi
của người bị thu hồi đất”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03/2012, tr 26 – 33.
Hoàng Thị Nga (2010), Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ Luật học.
Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp
chí luật học, số 10/2010, tr 29.
Dương Ngọc Trường, đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường hỗ trợ
giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất qua một số dự án trên địa bàn thị
xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên, luận văn Thạc sỹ Khoa học nông nghiệp, trường
Đại học Nông lâm Thái Nguyên, năm 2013.
Lê Đăng Giáp, Tổ chức, thực hiện chính sách tái định cư tại thị xã Thái
Hòa, tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ quản lý kinh tế, Đại học kinh tế - Đại học

Quốc gia Hà Nội , năm 2016.
Phạm Tiến Dũng, hoàn thiện tổ chức thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của chính quyền thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ
An, Luận văn thạc sỹ quản lý kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân, năm 2012.
Nguyễn Thị Dung (2009), Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số
nước trong khu vực và Việt Nam, Đại học Luật, Hà Nội.
Lê Thị Yến (2010), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua
thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, luận văn Thạc sỹ
luật kinh tế, khoa Luật, đại học Quốc gia Hà Nội.
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua
thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội, Nguyễn Duy Thạch, 2007 luận văn Thạc
sỹ luật kinh tế, khoa Luật, đại học Quốc gia Hà Nội.
Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Đặng
Công Nhiên, luận văn Thạc sỹ ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật,
khoa Luật, đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.
3


Trần Cao Hải Yến (2014), Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, luận văn Thạc sỹ luật
kinh tế, khoa Luật, đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm Thu Thủy, Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, 2014.
Nhóm 2: Nghiên cứu pháp luật, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì mục đích quốc
gia, công cộng
Nguyễn Minh Tuấn, Pháp luật về thu hồi đất vì mục đích kinh tế ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2013
Viện khoa học và đo đạc bản đồ (2004), Nghiên cứu, đánh giá thực trạng

công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và đề xuất các giải pháp đẩy nhanh tiến
độ thu hồi đất đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng chỉnh trang đô thị, đề tài
khoa học cấp Bộ.
Trần Doãn Tuấn (2012) Tác động của việc bồi thường giải phóng mặt bằng
đến người dân bị thu hồi đất ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, trường Đại học kinh tế Thái Nguyên.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài nghiên cứu bao gồm:
- Thông qua tìm hiểu những vấn đề lý luận về bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất để phát triển kinh tế xã hội, từ đó chỉ ra được mối quan hệ giữa hoạt động
bồi thường nói chung và phát triển kinh tế nói riêng.
- Thông qua tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường
trong vấn đề thu hồi đất để phát triển kinh tế. nhằm tìm ra những điểm hợp lý,
những hạn chế và bất cập để tìm ra những giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bồi thường của nhà nước khi thu hồi đất để phát triển kinh tế xã
hội.
- Tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động bồi thường
khi thu hồi và thực tiễn thực hiện trong quá trình thu hồi đất để phát triển kinh tế
xã hội tỉnh Thái Nguyên, thông qua đó thấy được thực trạng pháp luật về bồi
4


thường khi thu hồi đất cũng như thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường khi
thu hồi đất trong việc thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Thái Nguyên
- Từ thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất nói chung
và hoạt động thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội nói riêng ở huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên, tác giả mong muốn tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động bồi thường trong công tác thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà khóa luận nghiên cứu đó là các quy định của pháp luật về hoạt

động bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế.
Đồng thời, tìm hiểu việc áp dụng pháp luật vào hoạt động bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế, cũng như thực tiễn của hoạt động bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Đại Từ
tỉnh Thái Nguyên.
Về phạm vi nghiên cứu, khóa luận tập trung vào nghiên cứu trên phạm vi:
- Phạm vi về thời gian: Khóa luận nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thông qua một số dự án trọng điểm trên địa
bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2013 - 2017
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên. Cụ thể tập trung vào một số dự án lớn trên địa bàn huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu là hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu các vấn đề dựa trên cơ sở khoa
học, thực tiễn và lý luận giúp cho nội dung báo cáo mang một sắc thái riêng dựa
trên nền tảng khoa học từ đó rút ra quan điểm cho bản thân. Ngoài những phương
pháp đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác trong khóa luận đó là: Phương pháp phân tích, tổng hợp chủ yếu được sử dụng ở chương lý luận về thực
hiện pháp luật khi nha nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội,
5


- Phương pháp giải thích pháp luật được tác giả áp dụng để lý giải và phân
tích các quy định của pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
- Phương pháp thống kê được sử dụng khi xử lý số liệu từ các báo cáo về
hoạt động bồi thường khi thu hồi đất ở huyện Đại Từ.
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan đến bồi

thường và quy hoạch đất phát triển kinh tế tạo điều kiện cho bản thân tìm hiểu các
quy định trong việc áp dựng thực tế để tăng thêm việc nghiên cứu, xây dựng những
kiến thức cơ bản cho bản thân cũng như cho việc học. Ngoài ra, khóa luận tốt
nghiệp này cũng cung cấp một vấn đề cơ bản cho tất cả cá nhân, tổ chức quan tâm
đến vấn đề này.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật về
bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực hiện trong hoạt động quy
hoạch đất để phát triển kinh tế xã hội nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện vấn đề
này. Bên cạnh đó, khóa luận tốt nghiệp này còn là một tài liệu tham khảo, mong
muốn góp phần nâng cao hiệu quả về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Đại Từ nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói
chung.
7. Kết cấu của khóa luận
Chương 1. Cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất vì mục đích kinh tế xã hội
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất đối với dự án phát triển kinh tế xã hội tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật khi Nhà nước thu hồi đất đối với dự án phát triển kinh tế xã hội tại huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên

6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÌ MỤC ĐÍCH KINH TẾ XÃ
HỘI
1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất vì mục đích kinh tế xã hội
1.1.1. Khái niệm về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích kinh tế xã

hội
Để làm rõ khái niệm bồi thường khi nhà nước thu hồi đất cần xem xét một
số khái niệm sau:
a) Thu hồi đất
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý, nắm giữ quyền quyết định số phận pháp lý về đất đai.
Đây là quyền năng duy nhất và tuyệt đối của đại diện chủ sở hữu, nó bao trùm lên
toàn bộ vốn đất trong phạm vi quốc gia, ngoài Nhà nước không ai được phép định
đoạt. Thu hồi đất là một trong những hành vi pháp lý thể hiện quyền định đoạt đó.
Nếu giao đất, cho thuê đất làm phát sinh quan hệ đất đai thì thu hồi đất để lại hậu
quả làm chấm dứt quan hệ đất đai đối với người sử dụng đất.
Từ điển Tiếng Việt phổ thông định nghĩa:“Thu hồi là việc thu về lại, lấy lại
cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác”. Thu hồi đất là
một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật đất đai. Thông
qua hoạt động thu hồi đất, Nhà nước thể hiện quyền lực của mình với tư cách là đại
diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Trong từng thời kỳ, khái niệm thu hồi đất được pháp luật ghi nhận có sự
hoàn thiện hơn. Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 ra đời, đã đề cập
vấn đề thu hồi đất, nhưng ở các văn bản này chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi
đất mà chỉ liệu kê các trường hợp bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và
Điều 26 Luật Đất đai năm 1993)
Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 đưa ra khái niệm thu hồi đất: “Thu
hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất

7


hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản
lý theo quy định của Luật này”.
Khái niệm thu hồi đất được hoàn thiện hơn qua quy định tại Khoản 11

Điều 3 Luật Đất đai năm 2013:“Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết
định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.
Các khái niệm nêu trên, thu hồi đất xét về mặt hình thức là văn bản hành
chính; nhưng xét về mặt nội dung, là việc sử dụng quyền lực nhà nước để thu lại
quyền sử dụng đất đã được giao cho cá nhân, tổ chức nhằm phục vụ lợi ích của
Nhà nước và xã hội. Thu hồi đất có những đặc điểm sau đây:
- Việc thu hồi đất do cơ quan quản lý hành chính nhà nước tiến hành theo
một thủ tục, trình tự nhất định. Thẩm quyền thu hồi đất được xác định theo thẩm
quyền giao đất, cơ quan có thẩm quyền giao đất nào thì có quyền thu hồi đối với
loại đất đó.
- Thu hồi đất được thực hiện thông qua quyết định thu hồi đất của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Xác định rõ chủ thể bị thu hồi, lý do thu hồi, diện tích thu
hồi, mục đích thu hồi làm căn cứ cho việc chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa
Nhà nước và người sử dụng đất.
- Phương pháp mệnh lệnh được dùng trong mọi trường hợp thu hồi đất. Đây
là quan hệ một bên là Nhà nước với một bên là người sử dụng đất, hai chủ thể này
không có sự bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Tuy nhiên, bên cạnh phương pháp
mệnh lệnh hành chính là phương pháp thuyết phục, giáo dục đặc biệt là thu hồi đất
để phục vụ trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và lợi ích công cộng.
- Thu hồi đất là một biện pháp pháp lý quan trọng nhằm thể hiện quyền sở
hữu toàn dân đối với đất đai mà nhà nước là người đại diện chủ sở hữu. Để thực
hiện nội dung này, quyền lực nhà nước được thể hiện nhằm đảm bảo lợi ích của
Nhà nước, xã hội và lập lại kỷ cương của Nhà nước trong trường hợp vi phạm Luật
Đất đai.
b) Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội

8



Theo cách giải thích tại Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, bồi thường thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất “là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”. Trách nhiệm bồi thường được
đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, để
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất là việc khôi phục lại giá trị tài sản,
nguồn sinh sống, lợi ích vật chất và tinh thần theo nghĩa rộng cho người sử dụng
đất bị ảnh hưởng do quá trình triển khai thực hiện dự án - là hình thức trách nhiệm
dân sự để bù đắp những tổn thất về vật chất tinh thần cho bên thiệt hại nhưng thiệt
hại này không phải do hành vi trái pháp luật (của nhà đầu tư hay của Nhà nước)
gây ra, mà thực chất là kết quả của chu trình “phá hủy - tái tạo” trong quá trình
phát triển đô thị và kinh tế - xã hội. Trong đó, giá trị quyền sử dụng đất là giá trị
bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn
sử dụng đất xác định. Theo nghĩa đó, bồi thường được hiểu là sự thay thế các tài
sản bị mất bằng hiện vật hoặc bằng tiền theo giá trị tài sản bị mất.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất, trong
đó, giá trị quyền sử dụng đất có thể là giá trị bằng tiền, bằng vật chất khác, có các
quy định của pháp luật điều tiết hoặc do thỏa thuận giữa các chủ thể đối với một
diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định.
c) Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, ngoài việc được bồi thường
theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ.
Theo Từ điển Tiếng Việt “hỗ trợ là giúp thêm, góp thêm vào”, như vậy, dưới
góc độ ngôn ngữ, hỗ trợ là sự trợ giúp, giúp đỡ của cộng đồng nhằm chia sẻ một
phần khó khăn, rủi ro mà một thành viên hoặc một nhóm người gặp phải trong
cuộc sống. Thuật ngữ hỗ trợ không chỉ được sử dụng trong đời sống xã hội mà còn
được sử dụng trong lĩnh vực pháp luật nói chung và pháp luật Đất đai nói riêng.
Nói đến những quyy định pháp luật về vấn đề bồi thường khi Nha fnwowcs thu hồi
đất, không thể không nói đến vấn đề hỗ trợ. Sở dĩ như vậy là vì đất đai vừa là tư

9


liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất kinh doanh, vừa là nơi sinh sống của dân sư.
Vì vậy, khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất bị mất tư liệu sản xuất hoặc
mất nơi cư ngụ, họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn như mất công ăn, việc làm hoặc
mất nơi ở… Để giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất và đời sống thì bên
cạnh việc bồi thường, Nhà nước thực hiện việc hỗ trợ.
Với ý nghĩa đó, Luật đất đai 2013 ghi rõ: “hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
là việc trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát
triển” (khoản 14, Điều 3).
d) Tái định cư
Tái định cư là cụm từ được đề cập đến rất nhiều trong các văn bản pháp luật
Đất đai. Định nghĩa cụ thể về tái định cư, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của Chính
phủ về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định:
“Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà
phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức như:
bồi thường bằng nhà ở, bồi thường bằng đất ở, bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở
mới” (Điều 4)
Tái định cư là một khái niệm mang nội hàm khá rộng, dùng để chỉ
những ảnh hưởng tác động đến đời sống của người dân do bị mất tài sản và nguồn
thu nhập trong quá trình phát triển dự án gây ra, bất kể có phải di chuyển hay
không và các chương trình nhằm khôi phục cuộc sống của họ. Tái định cư bao hàm
việc thực hiện chính sách bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Tái định cư theo
nghĩa hẹp là quá trình di chuyển người dân đến nơi ở mới. Đặc biệt là ở những địa
phương có nhiều dự án phát triển kinh tế xã hội, các đô thị lớn phát triển nhanh đều
phải bố trí tái định cư số lượng lớn. Tái định cư không chỉ tác động đến cuộc sống
và sinh kế của các hộ phải di chuyển nơi ở, mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng dân
cư nơi tiếp nhận người tái định cư do các xáo trộn xã hội và việc cung ứng các dịch
vụ cơ bản.

Như vậy, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đều là hậu
quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra và phát sinh sau
khi có quyết định thu hồi đất. Để thực hiện trách nhiệm của mình, Nhà nước không
10


chỉ bồi thường, mà còn thực hiện những chính sách hỗ trợ cho người có đất bị thu
hồi (bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi nghề
nghiệp và tạo việc làm, các hỗ trợ khác…), thực hiện chính sách tái định cư (nhằm
đảm bảo chỗ ở, sinh hoạt, kinh doanh...)
1.1.2. Vai trò thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích kinh tế xã hội
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các
cấp chính quyền đã dự kiến quỹ đất sử dụng cho các mục đích. Trong dó có quỹ đất dành
cho các dự án phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Vì vậy, phải do Nhà
nước thu hồi đất để bảo đảm thực hiện. Khi thu hồi đất để tạo quỹ đất sạch và thực hiện
giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua hình thức đất giá, Nhà nước sẽ điều tiết được
phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra, tạo nguồn thu để
thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, bảo đảm
hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư.

1.1.2.1. Đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Pháp luật đất đai quy định, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng để phục vụ
cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Khi thu hồi
đất, Nhà nước sẽ phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có
đất bị thu hồi để giải phóng mặt bằng. Trong quá trình triển khai công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã
hội, phát triển công nghiệp và dịch vụ, hiện đại hoá lực lượng quốc phòng và an
ninh đòi hỏi quỹ đất khá lớn Nhà nước cần phải thu hồi. Từ thực tiễn cho thấy, ý
thức tự giác của người dân khá cao trong chấp hành quyết định thu hồi đất của Nhà

nước vào mục đích quốc phòng, an ninh, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (đường
giao thông, công trình thuỷ lợi...), xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội (như công viên,
trường học, bệnh viện...). Nhiều trường hợp người bị thu hồi đất chịu thiệt thòi ít
nhiều trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng vẫn vui lòng muốn được đóng
góp chung để xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại.
Do vậy, thông qua việc thực hiện pháp luật về thu hồi đất của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, đặc biệt là sự tự giác, hợp tác, nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định pháp luật của người có đất bị thu hồi đã góp phần quan trọng vào thành
11


công của dự án, giúp dự án được triển khai thực hiện theo đúng tiến độ đề ra; đó là
cơ sở quan trọng để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
1.1.2.2. Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai nói chung và pháp luật
về thu hồi đất nói riêng
Thông qua quá trình tổ chức thực hiện pháp luật đất đai nói chung và pháp
luật về thu hồi đất nói riêng chúng ta mới có cơ sở để tổng kết, đánh giá thực tiễn
mức độ hoàn thiện, đồng bộ và hiệu quả của hệ thống pháp luật. Bởi vì thực tiễn là
tiêu chuẩn, là thước đo của lý luận. Trên thực tế thực hiện pháp luật về thu hồi đất
trong những năm qua đã chứng minh có rất nhiều quy định của pháp luật không
còn phù hợp với thực tế cuộc sống, gây rất nhiều khó khăn cho quá trình tổ chức
thực hiện. Chẳng hạn, vấn đề xác định giá đất để bồi thường; nguyên tắc bồi
thường; tài sản được bồi thường; dự án khu tái định cư và chất lượng nhà tái định
cư. Những vấn đề đó cần được tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi cho phù hợp với điều
kiện mới hiện nay.
1.1.2.3. Khắc phục những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của cơ quan nhà
nước về công tác thu hồi đất
Thông qua việc thực hiện pháp luật về thu hồi đất, đặc biệt là hình thức áp
dụng pháp luật về thu hồi đất của cơ quan nhà nước, bằng việc thanh tra, kiểm tra

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sự giám sát của các cơ quan dân cử, các
phương tiện truyền thông và quan trọng hơn là sự giám sát của nhân dân, chúng ta sẽ
kịp thời phát hiện ra những sai phạm, yếu kém của các cơ quan cũng như cán bộ có
thẩm quyền trong quá trình tổ chức thực hiện việc thu hồi đất. Trên cơ sở đó cấp có
thẩm quyền kịp thời uốn nắn và có những giải pháp đồng bộ để khắc phục những tồn
tại, yếu kém đã phát hiện.
1.1.2.4. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Do đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuyệt đối
tuân thủ các quy định pháp luật của Nhà nước. Thực hiện đúng pháp luật trên
thực tế sẽ làm cho pháp chế được bảo đảm. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
12


về thu hồi đất, các chủ thể (đặc biệt là cơ quan nhà nước) phải thực hiện đầy đủ
các quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung, nhất là các quy định của
pháp luật về thu hồi đất.
Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là nghiêm cấm mọi sự vi phạm pháp
luật từ phía các chủ thể trong quá trình này, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi
vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Thực
hiện pháp luật về thu hồi đất tốt, hiệu quả sẽ làm cho yêu cầu này được thực hiện.
Vai trò chính góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực
hiện pháp luật về thu hồi đất, chủ yếu thuộc về các cơ quan nhà nước và người có
thẩm quyền trong hoạt động áp dụng pháp luật. Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa
luôn buộc các chủ thể này phải sử dụng có hiệu quả, phát huy cao độ hiệu lực pháp
luật để pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đi vào cuộc sống, để đảm bảo
lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người có đất bị thu
hồi.
Có thể thấy, thực hiện pháp luật về thu hồi đất có vai trò quan trọng, được
thể hiện trên nhiều khía cạnh như đã phân tích. Trong các vai trò cụ thể này, không

có vai trò nào quan trọng hơn mà chúng tác động lẫn nhau, thể hiện những khía
cạnh khác nhau đối với thực hiện pháp luật về thu hồi đất.
1.2. Nguyên tắc, nội dung và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích kinh tế xã hội
1.2.1. Nguyên tắc đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất về mục đích kinh tế xã hội
Các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại Điều
74 Luật Đất đai 2013 nhằm buộc các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia
vào vào quan hệ bồi thường, hỗ trợ phải tuân thủ. Các nguyên tắc bồi thường này
đã đảm bảo sự công bằng về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với Nhà
nước. Các nguyên tắc bồi thường bao gồm:
- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai 2013 thì được bồi thường; trường
hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
13


thuộc Trung ương (gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) xem xét để hỗ trợ. Pháp
luật quy định xem xét hỗ trợ cho người bị thu hồi đất trong trường hợp không đủ
điều kiện là xuất phát từ thực tế sử dụng đất ở nước ta; khi Nhà nước thu hồi đất để
sử dụng mang lại lợi ích chung, Nhà nước vẫn thực hiện hỗ trợ để bù đắp một phần
những thiệt hại mà người bị thu hồi phải gánh chịu và giúp họ ổ định cuộc sống.
-Người bị thu hồi đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có
cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng
giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi. Theo đó, người sử
dụng đất nông nghiệp nếu tự ý sử dụng làm đất phi nông nghiệp thì chỉ được bồi
thường theo đất nông nghiệp; người sử dụng đất phi nông nghiệp (không phải là
đất ở) theo qui định của pháp luật nhưng tự ý sử dụng làm đất ở thì chỉ được bồi
thường theo đất phi nông nghiệp (không phải là đất ở). Việc bồi thường được thực
hiện bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi

thường thì được bồi thường bằng nhà ở, hoặc bằng tiền cho phù hợp với thực tế tại
địa phương.
- Người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhưng chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo qui định của pháp luật thì phải trừ đi
khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để
hoàn trả ngân sách. Nghĩa vụ tài chính bao gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền
thuê đất đối với đất do Nhà nước cho thuê, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng
các thửa đất khác của người có đất bị thu hồi (nếu có)…Quy định này của pháp
luật nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai dưới khía cạnh kinh tế. Đảm bảo sự
công bằng về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với Nhà nước.
- Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất để thực hiện các khoản hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi.
Hiện nay Việt nam đang trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, ngân
sách Nhà nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo kinh phí để bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất. Thực tế cho thấy sau khi đầu tư vào
các dự án, ngân sách Nhà nước phải bỏ ra một khoản tương đối lớn để đầu tư
14


nhưng đem lại giá trị gia tăng từ đất chưa được cao mà chủ yếu thuộc về các nhà
đầu tư. Trong thời gian tới Nhà nước cần có những quy định cụ thể để điều tiết một
phần lợi ích từ việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện các
khoản hỗ trợ, bồi thường cho người sử dụng đất.
1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì
mục đích kinh tế xã hội
1.2.2.1 Đối tượng được bồi thường
Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về đối tượng
được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: tổ chức,
cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở

nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất.
Theo quy định tại Luật Đất đai 2013 thì đối tượng bồi thường, hỗ trợ được
mở rộng hơn bao gồm cả cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo; người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu
hồi đất cũng được bồi thường, hỗ trợ. Việc đối tượng được mở rộng về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là cần thiết để phù hợp với thực tế sử dụng đất ở
Việt Nam hiện nay; quyền lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất là cộng đồng
dân cư, cơ cở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân
nước ngoài. Đảm bảo tính tương thích về pháp luật trong quá trình hội nhập quốc
tế; xóa dần sự khác biệt về quyền sử dụng đất giữa người Việt Nam định cư ở nước
ngoài với người Việt Nam ở trong nước. Thúc đẩy, khuyết khích động viên người
Việt Nam định cư ở nước ngoài hướng về tổ quốc để đầu tư phát triển làm cho đất
nước ngày càng giàu mạnh.
1.2.2.2. Điều kiện được bồi thường
Theo Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của
Chính phủ, người bị Nhà nước thu hồi đất có một trong các điều kiện sau đây thì
được bồi thường:
- Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất
đai.

15


- Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật về đất đai.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường,
thị trấn (sau đây gọi chung là UBND cấp xã) xác nhận không có tranh chấp mà có
một trong các loại giấy tờ sau đây:
+ Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm
1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai

của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
+ Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn
liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất (Giấy tờ thừa kế theo quy
định của pháp luật, giấy tờ tặng cho nhà đất có công chứng xác nhận của UBND
cấp xã tại thời điểm tặng, cho, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất của cơ
quan, tổ chức giao nhà và có xác nhận của UBND cấp xã);
+ Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất
ở trước ngày 15/10/1993 nay được UBND cấp xã xác nhận;
+ Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy
định của pháp luật.
+ Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng
đất;
- Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ trên mà
trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định
thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa
phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm
muối tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được
16


UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh
chấp.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có một trong các loại giấy tờ
đã quy định ở trên, nhưng đất đã được sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993 nay

được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của tòa
án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi
hành.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có một trong các loại giấy tờ
đã quy định ở trên, nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến thời điểm
có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch;
không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm quyền phê
duyệt đã công bố công khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và
được UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có
quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước,
nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử
dụng.
- Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa,
miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử
dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
- Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
+ Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã
nộp không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước;
+ Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho
việc chuyển nhượng không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước;
+ Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.
1.2.2.3. Quy định về bồi thường đất và tài sản, vật kiến trúc
Nghị định số 47/2004/NĐ-CPcủa Chính phủ quy định:
17


* Bồi thường đối với đất phi nông nghiệp là đất ở:

- Người sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở
được bồi thường bằng việc giao đất ở mới, nhà ở tại khu TĐC hoặc bồi thường
bằng tiền theo đề nghị của người có đất bị thu hồi phù hợp với thực tế ở địa
phương.
- Diện tích đất bồi thường bằng việc giao đất ở mới cho người có đất bị thu
hồi cao nhất bằng hạn mức giao đất ở tại địa phương; trường hợp đất ở bị thu hồi
có diện tích lớn hơn hạn mức giao đất ở thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất của
địa phương và số nhân khẩu của hộ gia đình bị thu hồi đất, xem xét, quyết định
giao thêm một phần diện tích đất ở cho người bị thu hồi đất, nhưng không vượt quá
diện tích của đất bị thu hồi.
* Bồi thường đối với đất nông nghiệp:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi được bồi
thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không có đất để bồi thường thì được
bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng.
* Bồi thường tài sản, vật kiến trúc, cây cối hoa màu
- Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân được
bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật
tương đương do Bộ Xây dựng ban hành. Giá trị xây dựng mới của nhà, công trình
nhân với đơn giá xây dựng mới của nhà, công trình do UBND cấp tỉnh ban hành
theo quy định của Chính phủ.
- Đối với nhà, công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng nêu trên
được bồi thường theo mức sau:
Mức bồi thường nhà ở, công trình = giá trị hiện có của nhà ở công trình hiện
tại * một khoản tiền tính bằng tỉ lệ phần trăm giá trị hiện có của nhà, công
trình
Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định bằng tỷ lệ phần
trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình nhân với giá trị xây dựng của nhà, công
trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành.

18



Một khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công
trình do UBND cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường tối đa không lớn hơn
100% giá trị xây dựng mới của Nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương
với nhà, công trình bị thiệt hại;
- Đối với nhà, công trình xây dựng khác bị tháo dỡ một phần, mà phần còn
lại không còn sử dụng được thì bồi thường cho toàn bộ nhà, công trình; trường hợp
nhà, công trình xây dựng khác phá vỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại và sử dụng
được phần còn lại thì được bồi thường phần giá trị công trình bị phá dỡ và chi phí
để sửa chữa, hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của
nhà, công trình trước khi bị phá dỡ.
- Tài sản gắn liền với đất thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 64
quy định về thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai của Luật Đất đai năm 2003 thì
không được bồi thường.
- Đối với mồ mả: Đối với việc di chuyển mồ mả, mức bồi thường được tính
cho chi phí về đất đai, đào, bốc, di chuyển, xây dựng lại và các chi phí hợp lý khác
có liên quan trực tiếp.
- Đối với cây trồng, vật nuôi:
+ Mức bồi thường đối với cây hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng thu
hoạch của vụ thu hoạch đó. Giá trị sản lượng vụ thu hoạch được tính theo năm suất
của vụ cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và
giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất.
+ Mức bồi thường đối với cây lâu năm:
Cây mới trồng = Chi phí đầu tư ban đầu + chi phí chăm sóc
Cây đang thu hoạch = (Số lượng từng loại cây x giá bán cây) - giá trị thu
hồi (nếu có).
+ Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm
khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển,
phải trồng lại.

+ Cây rừng trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên
giao cho các tổ chức, hộ gia đình trồng, quản lý chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường
19


theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho
người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng.
Đối với vật nuôi (thủy sản) được bồi thường theo quy định sau:
+ Đối với vật nuôi mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì
không phải bồi thường;
+ Đối với vật nuôi mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì
được bồi thường thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì
bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể
do UBND cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế.
1.2.2.4. Quy định về hỗ trợ
Theo Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định như sau:
* Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư:
Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất nông nghiệp trong địa giới hành
chính phường, trong khu dân cư thuộc thị trấn khu dân cư nông thôn, thửa đất nông
nghiệp tiếp giáp với ranh giới phường, ranh giới khu dân cư thì ngoài việc được
bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng 20- 50% giá đất ở trung
bình của khu vực có đất thu hồi theo quy định trong bảng giá đất của địa phương,
diện tích được hỗ trợ không quá 05 lần hạn mức giao đất ở địa phương.
* Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
nông nghiệp thì được hỗ trợ ổn định đời sống theo quy định sau:
- Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng
+ Không phải di chuyển chỗ ở: thời gian hỗ trợ 6 tháng
+ Phải di chuyển chỗ ở: thời gian hỗ trợ 12 tháng
+ Phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc

có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa 24 tháng.
- Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng
+ Không phải di chuyển chỗ ở: thời gian hỗ trợ 12 tháng
+ Phải di chuyển chỗ ở: thời gian hỗ trợ 24 tháng

20


×