Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Câu hỏi ôn tập quản lý nhà nước về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.24 KB, 11 trang )

Câu hỏi ôn tập Quản lý nhà nước về Văn Hóa
Câu 1 : Tại sao nói văn hoá là động lực, mục tiêu phát triển linh tế xã
hội
Văn hoá là lĩnh vực sản xuất tinh thần, sáng tạo như nhận định của Mác, tạo
ra những giá trị tinh thần những công trình khoa học, văn hoá nghệ thuật
nhằm xây dựng và phát triển con người. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của
đời sống xã hội thì văn hoá là nền tảng tinh thần của đời sống ấy, và vì thế
hai lĩnh vực đó luôn luôn giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với thực
trạnh sự vận động và phát triển của xã hội
Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá văn hóa và khả năng to lớn. Nó khơI dậy nhân lên
mọi tiềm năng phát triển sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội
sinh quýêt định sự phát triển của công nghiệp hoá hiện đại hóa. Điều này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta khi nguồn tài chính và nguồn lực
vật chất cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá còn hạn hẹp trong khi
đó tiềm lực con người Việt nam lại vô cùng phong phú nếu biết nuôi dưỡng
phát huy khai thác và sử dụng nó một cách hợp lý nhất tiết kiệm nhất . Trong
thời đại ngày nay tư tưởng trên càng có ý nghĩa to lớn khi mà nguồn gốc của
sự giàu có và phát triển toàn diện của đất nước không chỉ là tài nguyên vốn
kỹ thuật mà yếu tố ngày càng trở nên quyết định chính là nguồn lực con
người là tiềm năng và năng lực sáng tạo của con người Việt nam. Nền kinh
tế tri thức thời kỳ mới của sự phát triển xã hội hiện nay bắt nguồn từ chính
đặc điểm này.
Tư tưởng khẳng định văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển thúc đẩy
công nghiệp hoá hiện đại hoá của Đảng ta xuất phát từ quan điểm coi con
người trước hết là tiềm năng và sức mạnh trí tuệ tinh thần và đạo đức là nhân
tố quyết định sự phát triển là vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây
dựng CNXH. Từ đó cần phảI nhấn mạnh coi phát triển văn hoá là lĩnh vực
quan trọng của chiến lược con người còn chiến lược con người lại nằm ở vị
trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong sự nghiệp công
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá. Điều đó cũng có nghĩa là phảI đặt văn


hoá vào trung tâm của những vấn đề kinh tế đồng thời bản thân văn hóa là
lĩnh vực sản xuất đặc biệt góp phần trực tiếp tạo ra động cơ tháI độ , khơI
dậy tiềm năng trong người lao động tạo ra nguồn lực ở trình độ phát triển
ngày càng cao thúc đẩy con người phát triển và hoàn thiện nhân cách .
Mục tiêu phấn đấu “ dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh” là định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời cũng là mục tiêu của văn
hoá, nếu hiểu theo nghĩa rộng của kháI niệm này. Theo cố thủ tướng Phạm


Văn Đồng thì định hướng XHCN là văn hoá và văn hoá là đổi mới đổi mới
là văn hoá
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 đã xác định “ Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người do con người” đồng thời đã
nêu rõ yêu cầu “ tăng trưởng kinh tế phảI gắn với tiến bộ công bằng xã hội
phát triển văn hoá, bảo vệ môI trường”
Như vậy đường lối xây dựng cnxh ở nước ta cũng như trong chủ trương
chính sách văn hoá được coi là mục tiêu cao cả của CNXH. Đó là nhận thức
đúng đắn trước kinh nghiệm của các nước từng hy sinh giá trị tinh thần để
chạy theo lợi ích kinh tế để rồi gánh lấy những hậu quả lớn chưa có phương
cách giảI quyết.
Câu 2. Phân tích những giải pháp quản lý nhà nước để đạt mục tiêu duy
trì và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt nam
Có thể nói bản sắc văn hoá dân tộc là tổng thể những phẩm chất , tính cách
khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của mỗi dân
tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hoá đó là
cáI hồn, cáI cốt, cáI thể hiện diện mạo của một nền văn hoá. Bản sắc văn hoá
là cái tạo nên sự độc đáo sự riêng có của một nền văn hoá. Bản sắc văn hoá
dân tộc được xem là “ kháng thể” để chống lại sự xâm lăng văn hoá.
Với dân tộc việt nam lịch sử dựng nứơc và giữ nước lâu đời của dân tộc VN
đã tạo nên cốt cách con người Việt nam và cốt cách ấy được phản chiếu

trong nền văn hoá VN, tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc. Nói đầy đủ về bản
sắc văn hoá dân tộc VN quả là một vấn đề khó, vì cho đến nay những công
trình nghiên cứu về vấn đề này còn quá ít. Nhưng “ những giá trị văn hoá
truyền thống vững bền của dân tộc và lòng yêu nước nồng nàn cộng đồng
sâu sắc đạo lý “ thương người như thể thương thân” , đức tính cần cù vượt
khó, sáng tạo trong lao động… đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn
để nhân dân ta xây dựng ,một xã hội phát triển , tiến bộ công bằng nhân áI
ngày nay.
Văn hoá gắn liền với con đường đi lên của lịch sử dân tộc. Bản sắc văn hoá
dân tộc Việt nam là vô cùng quý báu. Nhưng bản sắc ấy chỉ thực sự có ý
nghĩa khi nó được bảo tồn và không ngừng phát huy tạo nên sức sống cho
dân tộc.
Làm thế nào để bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc đã đang và sẽ còn là
vấn đề mà các nhà quản lý các học giả và mỗi người VN yêu nước băn
khoăn tìm câu trả lời thích đáng. Đứng trên giác độ quản lý nhà nước
Câu 3 Những yếu tố cơ bản quyết định phương thức quản lý nhà nước
về văn hoá.


Khoa học quản lý đã khẳng định quản lý gồm hai quá trình đan kết vào nhau
một cách chặt chẽ là duy trì và phát triển. Hai quá trình này vừa giữ cho một
thực thể tồn tại độc lập vừa tạo cho nó vận động phát triển. Với quản lý nhà
nứoc nguyên lý này càng có ý nghĩa quan trọng bởi văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội. Nhưng để văn hoá được bảo tồn và phát triển vấn đề cốt yếu
nhất là hình thành những phương thức quản lý thích hợp. Đến lượt mình việc
lựa chọn những phương thức quản lý nhà nước về văn hoá lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố .
Đứng trên giác độ khoa học chính trị, không một nhà nước hiện đại nào lại
không đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng chính trị. Những chủ trương
đường lối quan điểm của Đảng cầm quyền . Mặt khác trong mỗi giai đoạn

phát triển Đảng cầm quyền có những chỉ đạo về văn hoá khác nhau. Mục
tiêu về xây dựng và phát triển văn hoá trong mỗi thời kỳ đặt ra cho nhà nước
vấn đề là phải sử dụng phương thức quản lý nhà nước để hoàn thành được
mục tiêu cơ bản đó.
Văn hoá thuộc phạm trù kiến trúc thượng tầng mối quan hệ giữa thượng tầng
kiến trúc và hạ tầng cơ sở cũng chính là yếu tố quyết định phương thức quản
lý nhà nước về văn hoá. Điều này có thể được nhìn nhận rõ ràng khách quan
khi xem xét các phương thức quản lý của nhà nước trong thể chế kinh tế
khác nhau. Một điều không ai không công nhận là trong thể chế kinh tế thị
trường và thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung các phương thức quản lý
nhà nước được sử dụng rất khác nhau với mức độ ưu tiên rất khác nhau.
Quản lý theo quan niệm tổng thể là sự tác động có định hướng của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý bằng các phương pháp quản lý với các công
cụ đặc thù nhằm đi đến mục tiêu quản lý nhất định. Quan niệm này cho phép
chúng ta đánh giá việc lựa chọn phương thức quản lý nhà nước về văn hoá
còn phụ thuộc vào chính bản thân chủ thể quản lý. Nhà nứơc và đối tượng
quản lý các hoạt động văn hoá. Bản chất của nhà nước sự nhận thức của nhà
nứoc về vai trò của văn hoá trong mỗi thời kỳ sẽ tác động đến thể chế nhà
nước để tìm ra phương thức quản lý phù hợp. Bản thân văn hoá là một lĩnh
vực đặc thù của đời sống xã hội. Những đặc trưng riêng có của văn hoá đòi
hỏi nhà nước phảI hình thành những phương thức quản lý đặc thù. Bởi hơn
ai hết nhà nước là người nhận thức rõ mọi sự dập khuôn, áp đặt chung sẽ
được trả giá bằng các hậu quả quản lý.
Yếu tố thứ tư có thể đặt ra ở đây chính là vấn đề về môi trường văn hoá quốc
tế. Trong thời đại ngày nay sự mở rộng giao lưu kinh tế thương mại đã kéo
theo sự giao lưu về văn hoá. Những ảnh hưởng giữa các nền văn hoá đã trở
nên phong phú hơn đa dạng hơn và phức tạp hơn. Nhà nước với trách nhiệm
của mình phải lựa chọn các phương thức quản lý nhà nước để vừa bảo tồn
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống vừa tiếp thu những tinh hoa văn



hoá thời đại để làm giàu thêm cho văn hoá dân tộc. Môi trường văn hoá quốc
tế lành mạnh hay chưa lành mạnh phù hợp hay chưa phù hợp có ý nghĩa
quyết định để nhà nước tạo dựng các phương thức quản lý nhà nứoc định
hướng nền văn hoá phát triển theo hướng mở hay khép kín…
Câu 4. Tại sao nói quản lý theo hình thức pháp luật là một trong những
hình thức cơ bản quan trọng nhất trong quản lý văn hoá. Nhà nước cần
làm gì để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật trong quản lý văn
hoá.
Khoa học nhà nước và pháp luật khi đề cập đến giai cấp thống trị đã nhấn
mạnh sự thống trị trên ba mặt : kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng. Để duy
trì sự thống trị của mình, giai cấp thống trị phải làm sao cho ý chí của giai
cấp mình bao trùm trong đời sống xã hội. Và pháp luật là sự thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị sử dụng pháp luật làm phương tiện
cơ bản nhất để quản lý mọi mặt đời sống xã hội trong đó có văn hoá.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của mọi xã hội. Sự quản lý nhà nước đối với
văn hoá chính là để định hướng cho văn hoá phục vụ cho mục đích của giai
cấp , của dân tộc. Nhưng văn hoá là một lĩnh vực phức tạp, đa chiều cạnh
nhà nước phải có được một hình thức quản lý hiệu lực và hiệu quả nhất.
Quản lý theo hình thức pháp luật là một trong những hình thức cơ bản nhất
trong quản lý văn hoá. Điều này bắt nguồn từ bản thân đặc trưng vân hoá và
vai trò của pháp luật cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Văn hoá có tính bao trùm ảnh hưởng lâu dài và bền vững. Văn hoá liên quan
đến vấn đề tư tưởng và tinh thần của cả chế độ. Nhà nước trước hết phải sử
dụng pháp luật để tạo lập hướng đI cho văn hoá và chỉ có pháp luật nhà nước
mới có thể ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, ý chí của giai cấp thống trị mới có
thể bao trùm lên mọi khía cạnh của hoạt động văn hoá,
Văn hoá là một lĩnh vực nhạy cảm. Những biến động của đời sống chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội đều được phản chiếu trong văn hoá. Văn hoá trong
các thời điểm nhất định có thể có những biểu hiện mất trật tự, lộn xộn do

những xu hướng phát triển tự phát… Để lập lại trật tự kỷ cương trong văn
hoá thì hình thức pháp luật được xem là hữu hiệu nhất bởi hiệu lực của pháp
luật đảm bảo bằng sự cưỡng chế của bộ máy công quyền mà không một
công cụ quản lý nào có được.
Hình thức quản lý nhà nước bằng pháp luật là bản quan trọng nhất nhưng
không phải là duy nhất. CHính vì vậy cùng với hình thức này nhà nước còn
quản lý văn hoá bằng các quy ước chính sách, kế hoạch. Nhưng có thể khẳng
định được rằng thiếu các hình thức quản lý bằng các quy ước chính sách
quản lý nhà nước có thể không toàn diện, hiệu quả quản lý có thể không như


mục tiêu mong muốn của chủ thể nhưng hoạt động quản lý vẫn diễn ra.
Nhưng thiếu pháp luật thì quản lý nhà nước tất yếu không thể tồn tại.
Quản lý nhà nước về văn hoá bằng các hình thức pháp luật có vai trò quan
trọng quyết định đến quản lý nhà nứoc. Vậy để nâng cao hiệu quả của công
cụ này chúng ta cần phải làm gì ?
-Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ thống nhất. Cần có sự phối hợp liên
ngành giữa các cơ quan để xây dựng pháp luật về văn hoá để pháp luật nói
chung và pháp luật liên quan đến văn hoá nói riêng không xung đột mâu
thuẫn với nhau.
-Các văn bản luật cần được hướng dẫn kịp thời bằng văn bản của chính
phủ( cho đến nay Luật di sản văn hoá còn thiếu 4 nghị định hướng dẫn)
-Nâng cao khả năng dự báo về tiến trình văn hoá để dự thảo các văn bản
pháp luật tránh tình trạng ứng phó thụ động khi có những biến cố xảy ra mới
tìm cách để xây dựng các văn bản để điều chỉnh…
Câu 5. Nêu tên các phong trào thi đua xây dựng môI trường văn hoá
đang được triển khai trong cả nước.
Văn hoá VN theo cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thì nó mang tính cộng đồng
sâu sắc tính cộng đồng gồm 3 cái trục: gia đình, làng và nước. CHính tính
cộng đồng của văn hoá làm cho văn hoá có ảnh hưởng cả bề rộng và bề sâu.

Điều này đối với quản lý nhà nước một ý nghĩa đặc biệt đó là để bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá phải tìm về cộng đồng văn hoá, để tạo dựng môi
trường văn hoá phải tìm về xây dựng các phong trào văn hoá trong cộng
đồng
Trong những năm gần đây ở nước ta các phong trào thi đua xây dựng môi
trường văn hoá quả thực phù hợp với mong đợi của các cộng đồng dân cư và
tất yếu sự gặp gỡ của ý Đảng lòng dân sẽ làm nên kỳ tích. ở đây chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu về các phong trào văn hoá đang được triển khai rộng khắp
này.
Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” là một chủ
trương lớn của Đảng và nhà nước ta. Phong trào này đã lôi cuốn được đông
đảo quần chúng tham gia tạo nên sức sống mới trong đời sống văn hoá cộng
động. Những giá trị văn hoá truyền thống tạo nên một môi trường văn hoá
dân tộc và hiện đại.
Phong trào “ gia đình văn hoá, làng văn hoá” đã tạo nên môi trường văn hoá
gia đình môi trường văn hoá làng xã lành mạnh góp phần tích cực vào việc
xây dựng và hoàn thiện nhân cách cá nhân. Phong trào này không những có
ý nghĩa lớn về mặt văn hoá mà còn tạo ra sự phát triển toàn diện trong đời
sống cộng đồng.


Phong trào “ thực hiện dân chủ ở cơ sở” đã được phát động trong một
khoảng thời gian dài. Dân chủ ở cơ sở đã thực sự đem lại những kết quả to
lớn về nhiều mặt. Sự tham của người dân vào các hoạt động của chính quyền
trong đó có hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá làng xã cộng
đồng đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn các giá trị văn hoá dân tộc mà
nếu phiến diện chúng ta vô tình gạt bỏ.
Phong trào xây dựng quỹ khuyến học khuyến tài, các hội bảo trợ cho văn
hoá giáo dục. Đây là một nét đẹp của văn hoá dân tộc mang tính truyền
thống mà trong những năm gần đây có dịp được khôi phụcvà phát triển

mạnh mẽ. Trong lịch sử dân tộc ở làng xã VN xưa đã từng có những học
điền( ruộng khuyến học) cô quả điền… để giúp đỡ những người nghèo hiếu
học. Phong trào xây dựng các quỹ khuyến học trong những giai đoạn hiện
nay vừa mang ý nghĩa văn hoá vừa là biểu hiện của kết quả xã hội hoá giáo
dục.
Phong trào về nguồn tìm trong vốn cổ là phong trào văn hoá để khơI dậy
những mạch nguồn văn hoá dân tộc tạo nên sự tiếp nối của dòng chảy văn
hoá dân tộc. Phong trào này có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu về giá
trị văn hoá dân tộc, phát hiện những trầm tích trong địa tầng văn hoá.
Câu 6. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về văn hoá và
phân tích các nội dung đó.
*Xây dựng thể chế: Để quản lý tốt hoạt động văn hoá trong quá trình xã
hội hoá văn hoá thì nhà nước cần chú trọng xây dựng thể chế văn hoá. Trong
nội dung xây dựng thể chế thì nhà nước chú trọng tới việc xây dựng thể chế
mềm và thể chế cứng.
-Thể chế cứng: nghĩa là nhà nước quản lý văn hoá bằng pháp luật. Trong
lĩnh vực này lại bao gồm 2 nội dung nhỏ đó là quản lý trên bình diện quốc tế
thì có đề cập tới những bộ luật, điều luật có tính quốc tế về văn hoá mà Việt
Nam tham gia đó là công ước quốc tế về quyền tác giả, luật bảo hộ sản xuất
bằng đĩa, và Việt Nam cũng cần tích cực tham gia vào các điều ước này để
tạo thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về văn hoá.
+Trên bình diện quốc gia, hầu hết các quốc gia đều có những điều luật
về văn hoá, ở Việt Nam cũng vậy sự quản lý nhà nước về văn hoá thể hiện
ngay trong Hiến Pháp-văn bản pháp luật cao nhất của nước ta, và hàng loạt
các đạo luật riêng đối với 1 số hoạt động văn hoá như luật về tổ chức bộ máy
quản lý văn hoá, luật bảo vệ di sản văn hoá, bảo vệ quyền tác giả, luật xuất
bản, báo chí… tóm lại nội dung quản lý nhà nước về văn hoá của Việt Nam
được tóm lại ở 12 lĩnh vực cơ bản và các văn bản này đã tạo 1 hành lang
pháp lý cho hoạt động văn hoá khi thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hoá
trong nền kinh tế thị trường.



+Trong quản lý nhà nước về văn hoá, cũng đặt ra những vùng cấm
trong hoạt động văn hoá như nghiêm cấm các hoạt động về chính trị làm tiết
lộ bí mật quốc gia, thất thoát di sản văn hoá quốc gia, xâm phạm quyền tác
giả, đặc biệt là nghiêm cấm làm băng hoại đạo đức phá hoại nhân phẩm.
-Thể chế mềm là quản lý nhà nước về văn hoá bằng quy ước vì hoạt động
văn hoá là loại hoạt động dân sự, gắn với xã hội nên áp dụng thể chế này sẽ
có hiệu quả hơn.
+Ngày nay Đảng và nhà nước ta đã đề ra 1 số nội dung quản lý văn
hoá đó là việc xây dựng đời sống văn hoá ở cở sở phù hợp với từng điều
kiện của địa phương, và từ đó chúng ta chú trọng xây dựng quy ước tập
trung vào 1 số lĩnh vực sau: thông tin tuyên truyền, các cầu lạc bộ; Thư viện,
sách báo, giải trí, thể thao; Văn nghệ quần chúng.; Xây dựng gia đình văn
hoá và nếp sống văn hoá. Bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, giáo dục truyền
thống.
+Ngoài ra nhà nước ta còn xây dựng các quy ước về nếp sống như lễ
hội, tết, cưới xin, ma chay, cũng như các quy ước về gia đình văn hoá, làng
văn hoá. Nhà nước ta làm như vậy là để tăng cường vai trò của cộng đồng
trong việc quản lý các hoạt động văn hoá.
*Hệ thống các chính sách về văn hoá: đây là 1 nội dung có ý nghĩa to lớn
trong điều kiện nề kinh tế thị trường nhằm điều chỉnh những bất bình đẳng
trong văn hoá do thị trường tạo ra, khích lệ hỗ trợ cho những xu hướng văn
hoá vì chính sách văn hoá là sự thể chế hoá các quan điểm và phương hướng
phát triển văn hoá, nhằm tác động lên các nhóm cộng đồng văn hoá, cộng
đồng chính trị và cộng đồng dân cư để giải quyết các vấn để phát sinh trong
quá trình văn hoá.
+Hầu hết các chính sách văn hoá của nhà nước đều thể hiện dưới hình
thức các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan pháp luật và nhà nước.
+Khi thực hiện chính sách văn hoá cần phải có sự tăng cường hợp tác

với các cơ quan công quyền ở mọi cấp đặc biệt là ở địa phương vì đặc biệt
phải đáp ứng được mối quan tâm của 3 nhóm cộng đồng.
+Hiện nay các chính sách văn hoá của chính phủ Việt Nam đều tập
trung vào 1 số các mục tiêu cơ bản như sau: Mục tiêu về sự phát triển văn
hoá ở cơ sở; Hoạt động sáng tạo văn hoá, nghiên cứu sưu tầm, bảo tồn và
phát huy văn hoá truyền thống. Mục tiêu về phát triển đội ngũ cán bộ văn
hoá, về sự quản lý và phân cấp quản.
*Đầu tư tài chính cho văn hoá: Đây là 1 nội dung cần thiết vì hầu hết tất cả
các quốc gia trên thế giới đều có khoản đầu tư này để xây dựng 1 nền văn
hoá cho cả đất nước. Ở nước ta cơ cấu đầu tư cho văn hoá bao gồm phần
ngân sách cho giáo dục, khoa học, nghệ thuật và những công việc văn hoá,
phát thành truyền hình báo chí, thể dục thể thao…


-Nguồn đầu tư hiện nay cho văn hoá chủ yếu là lấy từ ngân sách nhà nước
do bộ văn hoá thông tin quản lý ở cấp vĩ mô, còn sở ch quản lý ở các địa
phương. Ngoài ra còn có các nguồn đầu tư từ các tổ chức và cá nhân.
-Khi đầu tư ngân sách cho văn hoá thì chính phủ cũng áp dụng những nguồn
tài chính trong đầu từ để đạt được mục tiêu quản lý nhà nước về văn hoá.
Câu 7. Cần chú trọng vào những tiêu chí nào để đầu tư một cách có hiệu
quả đối với các sản phẩm và hoạt động văn hoá.
Đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho phát triển. Có lẽ đây là nhận thức chung
của mọi quốc gia khi nhìn nhận vấn đề đầu tư cho văn hoá. Nhưng nói đến
đầu tư cho văn hoá là phải tính đến hiệu quả mặc dù đầu tư cho văn hoá hiệu
quả không phải dễ lượng hoá và dễ nhận biết trong một sớm một chiều. Với
ý nghĩa đó nhà nước cần chú trọng vào những tiêu chí nào để đầu tư một
cách có hiệu quả đối với các sản phẩm và hoạt động văn hoá.
TRước hết nhà nước cần phảI nhận diện về mức độ thích ứng với cơ chế thị
trường của các sản phẩm và hoạt động văn hoá để có hướng đầu tư thích
hợp. Việc nhận diện này để đi đến kết luận : hoạt động nào cần đầu tư toàn

bộ, hoạt động nào cần đầu tư một phần, hoạt động nào chỉ cần hỗ trợ ban
đầu. ở nước ta việc đầu tư toàn bộ được thực hiện đối với các hoạt động văn
hoá không có thu. Vấn đề đặt ra ở đây chính là làm sao để xác định được
đúng các sản phẩm văn hoá, hoạt động văn hoá cần thiết phải có sự đầu tư để
tồn tại phát triển tránh sự cào bằng, đầu tư dàn trải dẫn đến thiếu hiệu quả.
Tiêu chí quan trọng được nhiều người quan tâm rằng đó là chất lượng của
sản phẩm và hoạt động văn hoá. Thật ra đặt vấn đề chất lượng của văn hoá là
rất chung chung bởi đánh giá chất lượng của văn hoá không phảI là điều đơn
giản không thể chấp nhận sự tuỳ tiện chủ quan. Chất lượng văn hoá cần phảI
được cụ thể hoá bằng các tiêu chí cụ thể rõ ràng và cơ bản. Đó là các sản
phẩm văn hoá hoạt động văn hoá tiêu biểu cho đời sống cộng đồng các sản
phẩm hoạt động văn hoá biểu hiện xu thế vận đông của văn hoá tương lai,
các sản phẩm văn hoá là kết tinh của bản sắc văn hoá dân tộc, các sản phẩm
văn hoá có giá trị văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại. Và mỗi tiêu chí cụ
thể này nên được xem là một tiêu chí để đầu tư.
Các sản phẩm, hoạt động văn hoá tiêu biểu cho đời sống cộng đồng. Sự đầu
tư vào các hoạt động này sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển, sự thăng hoa
của văn hoá cộng đồng. Sự đầu tư của nhà nước phù hợp với ý chí cộng
đồng thì tất yếu các dự án đầu tư sẽ được nhân dân ủng hộ, tự giác thực hiện.
Sự phát triển văn hoá cộng đồng đưa đến sự hoàn thiện nhân cách phẩm chất
tâm lý cộng đồng. Đó là hiệu quả đầu tư vô cùng lớn lao trong đầu tư cho
văn hoá.


Đầu tư cho các sản phẩm văn hoá hoạt động vănhoá biểu hiện xu thế vận
động của văn hoá tương lai có thể làm cho nhiều người băn khoăn nghi ngờ
cho là không tưởng ảo tưởng. Thật ra đây là vấn đề đã được đặt ra từ trong
các nước phát triển. Văn hoá theo tiến trình lịch sử vận động và phát triển .
Có những sản phẩm văn hoá ra đời là sự manh nha của văn hoá tương lai.
CáI mới cần phảI được nuôi dưỡng để ngày càng phát triển vững bền.

Các sản phẩm văn hoá là kết tinh của bản sắc văn hoá dân tộc cũng là một
hướng đầu tư . Bản sắc văn hoá dân tộc nếu thiếu sự quan tâm đầu tư có thể
bị mai một, suy yếu và nền văn hoá hiện đại sẽ có thể mất cội rễ sâu xa của
mình không thể đứng vững trước những sự xâm lăng văn hoá.
Câu 8. Hãy trình bày những nội dung cơ bản của phương thức quản lý
nhà nước về văn hoá và sự thể hiện các nội dung đó trong thực tiễn
quản lý nhà nước như thế nào?
1.quản lý văn hoá bằng pháp luật là phương thức quản lý tốt nhất
Luật pháp phải thực sự là công cụ của quản lý nhà nước về văn hoá và công
tác tư tưởng. Đó là việc ban hành hệ thống các văn bản pháp luật đối với các
hoạt động văn hoá để phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành nhân
cách, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, hạn chế những tiêu cực
mà thị trường văn hoá tạo ra. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá phải đi đôI
với yêu cầu quản lý bằng pháp luật.
Hiện nay ở nước ta vấn đề xây dựng và thi hành pháp luật đang là nhu cầu
cấp thiết của quản lý văn hoá. Các văn bản pháp luật về văn hoá còn thiếu,
gây khó khăn cho việc quản lý của lĩnh vực này. Chính sách cho văn hoá
không thể thay thế luật pháp trong việc quản lý. Quản lý theo đúng luật sẽ
góp phần tích cực vào việc lập lại trật tự kỷ cương trong tình hình văn hoá
xã hội hiện nay đang có nhiều lộn xộn và đang cần khẩn trương giảI quyết.
2.Quản lý văn hoá bằng các chương trình kế hoạch quốc gia về phát triển
văn hoá.
Chính sách văn hoá là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động các chính sách
các cách làm thiết thực các phương pháp quản lý hành chính và phương
pháp ngân sách dùng làm cơ sở cho hoạt động văn hoá.
Chính sách văn hoá được hình thành như một chỉnh thể trong một quá trình
tác động lẫn nhau giữa ba nhóm cộng đồng( cộng đồng văn hoá, cộng đồng
công chúng cộng đồng chính trị) không thể chỉ đơn phương của một, hai
nhóm nào
3.Quảnlý văn hoá bằng đầu tư tài chính cho văn hoá . Đầu tư cho văn hoá là

đầu tư cho sự phát triển . Văn hoá có được đầu tư thì mới có điều kiện để
vận động phát triển, có điều kiện để góp phần vào sự tiến bộ chung của xã
hội. Đầu tư cho văn hoá để định hướng hỗ trợ cho các xu hướng văn hoá tiêu


biểu cho cộng đồng cho sức mạnh dân tộc, khởi đầu cho xu hướng văn hoá
tương lai. Đầu tư cho văn hoá với tư cách là một hoạt động sản xuất cũng
cần được tính toán đến hiệu quả đầu tư. Cấp ngân sách cho văn hoá cũng
kèm theo những quy tắc như bất kỳ hoạt động tài chính nào khác khi yêu cầu
đặt ra phảI đạt tới mục tiêu quốc gia mà Đảng và nhà nước ta đã đặt ra.
4.Một trong những nhiệm vụ cấp bách của quản lý nhà nước về văn hoá hiện
nay là củng cố tổ chức tăng cường về đào tạo đội ngũ cán bộ, đổi mới hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này như một biện
pháp quan trọng để đổi mới nâng cao trình độ quản lý trước yêu cầu phát
triển của sự nghiệp văn hoá trong công cuộc chấn hưng đất nước . Lý luận
và thực tiễn quản lý đòi hỏi sự cần thiết phảI kết hợp tính ổn định và sự đổi
mới cán bộ quản lý ở tất cả các cấp.
Câu 9. Các ấn phẩm văn hoá nghe nhìn của nước ngoài đang thâm nhập
vào nước ta cùng với quá trình VN hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tình hình trên đặt ra những yêu cầu gì đối với công tác quản lý nhà
nước về văn hoá.
Một điều bức xúc đang diễn ra khiến chúng ta phảI đặc biệt quan tâm trong
công tác quản lý nhà nước về văn hoá là những sản phẩm văn hoá độc hại
không phù hợp với truyền thống dân tộc đang được thâm nhập vào nước ta
bằng nhiều con đường khác nhau. Điều đó làm ô nhiễm môi trường văn hoá
trong nước và làm phương hại đến mục tiêu mở rộng giao lưu quốc tế trên
lĩnh vực văn hoá của chúng ta. Ngành văn hoá thông tin đang tăng cường
phối hợp với các ngành khác để ngăn chặn kịp thời những sản phẩm văn hoá
độc hại này để cho ngọn gió văn hoá bên ngoài thổi vào luôn trong lành và
bổ ích.

CHỉ có biết giữ gìn, khai thác và phát triển nâng cao bản sắc riêng của nền
văn hoá dân tộc thì mới có được giá trị bản thân trong tiếp xúc và đối thoại
với các nền văn hoá khác và cũng chỉ trên cơ sở đó mới tiếp thu được những
tinh hoa của văn hoá thế giới.
Trước tình hình thực tế của sự thâm nhập văn hoá nước ngoài yêu cầu cơ
bản đặt ra ở đây là vừa tiếp thu được các giá trị thời đại của văn hoá nước
ngoài làm giàu cho nền văn hoá dân tộc vừa phảI ngăn chặn loại bỏ các sản
phẩm văn hoá tráI với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Yêu cầu này quả
không phảI là đơn giản đối với công tác quản lý nhà nước về văn hoá ở nước
ta hiện nay.
Một là nhà nước phảI chăm lo xây dựng nền văn hoá VN tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc. Sự phát triển phong phú đa dạng hiện đại của nền văn hoá
Vn sẽ là chất đề kháng những văn hoá ngoại lai không phù hợp thâm nhập
vào nước ta.


Hai là nhà nước có kế hoạch chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm: Bộ văn hoá
thông tin, HảI quan , bộ đội biênphòng.,.. đẩy mạnh các hoạt động kiểm
duyệt các sản phẩm văn hoá đưa vào nước ta , ngăn chặn loại bỏ các sản
phẩm văn hoá đưa vào nước ta, ngăn chặn loại bỏ các sản phẩm văn hoá
không lành mạnh. Xử lý nghiêm mọi hành vi nhập lậu, lưu hành các sản
phẩm văn hoá độc hại.
Ba là trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế cần phảI
hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp bản sắc dân tộc và
yêu cầu của thời đại. Xây dựng gia đình văn hoá phát huy trách nhiệm của
gia đình trong việc truyền thụ những giá trị văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ
khác.




×