Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Sự khác biệt giữa văn hóa đông tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.67 KB, 7 trang )

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ
PHƯƠNG TÂY. LIÊN HỆ VIỆT NAM

1. Phần mở đầu :
Trên con đường toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, con người từ khắp các nước
có cơ hội giao lưu, tiếp xúc và hợp tác làm việc với nhau nhiều hơn. Từ đó, sự giao
lưu văn hóa giữa hai nền văn hóa phươn g Đông - phương Tây ngày càng phổ biến
hơn, đòi hỏi con người không ngừng tiếp thu, cải tiến nền văn hóa sao cho phù hợp
với tình hình phát triển hiện nay nhưng không quên phần giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Cùng với đó sự xuất hiện các tổ chức nói chung và tổ chức xuyên quốc gia
nói riêng là biểu hiện rõ nhất cho thấy sự giao thoa văn hóa trên. Tuy nhiên, sự
giao lưu văn hóa Đông - Tây thực sự không hề đơn giản. Đôi khi, lại xảy ra những
tình huống dở khóc, dở cười; không như mong muốn chỉ vì những ảnh hưởng sâu
sắc từ các điểm khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông- Tây làm ảnh hưởng đến kết
quả hoạt động của tổ chức. Vì vậy, nhóm em xin phân tích đề tài “Sự khác biệt
trong giao tiếp phương Đông và phương Tây. Liên hệ với người Việt Nam.”
Qua đó, rút ra được những ảnh hưởng của các điểm khác biệt này đến hành vi
của con người khi hoạt động trong một tổ chức, để từ đó có thể rút ra được những
bài học kinh nghiệm trong quy tắc ứng xử, giao tiếp trong văn hóa tổ chức.
Để phân tích sự khác biệt trong giao tiếp phương Đông và phương Tây ban đầu
chúng ta khái quát, tìm hiểu cơ sở quan điểm giá trị tinh thần và tôn giáo, quan
niệm bản chất công việc. Sau đó nói lên hiện trạng của nền văn hóa phương Đông
và phương Tây, chỉ rõ sự khác nhau trong giao tiếp và điều đặc biệt hay đáng chú ý
của hai nền văn hóa đó. Bài tiểu luận tìm hiểu từ tư liệu trên mạng, sách báo trong
thư viện về nguyên nhân và các yếu tố làm ảnh hưởng tới nền văn hóa đó. Từ đó
rút ra hậu (kết) quả trong giao tiếp và sự khác nhau của nền văn hóa phương Đông
và phương Tây. Cả nhóm đề ra những giải pháp và chỉ ra những khiếm khuyết của
hai nền văn hóa đó trong giao tiếp. Rút ra kết luận và kết quả nghiên cứu của cả
nhóm.
2. Nội dung:



Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội
loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm.
Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hoá: Xem dáng vẻ con người, lấy đó
mà giáo hoá thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ). Người sử dụng từ
văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 TCN), thời Tây Hán với nghĩa
như một phương thức giáo hoá con người- văn trị giáo hoá. Văn hoá ở đây được
dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hoá
mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết). Ở phương Tây, để chỉ đối tượng
mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ kuitura. Những chữ này lại
có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là
văn hoá với hai khía cạnh: trồng trọt, thính ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và
giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ
có những phẩm chất tốt đẹp.
Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và thay
đổi theo thời gian thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng
vào thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp.
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phương Tây
sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hoá (văn minh)
thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hoá của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hoá hướng về trí lực và
sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo (E.B. Taylor) là đại diện
của họ. Theo ông, văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà
con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Ở thế kỉ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi theo F. Boa (F. Boas), ý nghĩa văn
hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu
cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng
không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn
hoá không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.

A. L. Kroibơ (A.L. Kroeber) và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn) quan niệm
văn hoá là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng
biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình
khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra.


Cũng như các dân tộc ở phương Đông, trong quá khứ, người Việt tỏ ra thiếu
khát vọng tìm kiếm cái mới, không thích lập kỷ lục... Họ không có hứng thú lặn
xuống biển sâu, bay vào vũ trụ, không tự hỏi “hai vạn dặm dưới đáy biển” có
gì.
Họ không có hành động để chứng tỏ con người bình đẳng với tự nhiên, bởi
chưa bao giờ trong ý thức xuất hiện ý niệm về điều đó. Họ dễ bằng lòng với
“cái đã có”, họ thường đánh giá các quan hệ, đánh giá sự vật - hiện tượng theo
những
tiêu
chí
do
thế
hệ
trước
trao
truyền
lại.
Không quan tâm trả lời câu hỏi tại sao trước thế giới tức là chưa có các tiền
đề đầu tiên cho phát triển của khoa học, đó là căn nguyên lý giải tại sao phương
Đông đi trước nhưng nhanh chóng tụt hậu so với phương Tây?
Nếu thừa nhận với văn hóa, chỉ có sự khác nhau và không có sự hơn kém, thì
cần khẳng định văn hoá phương Đông, trong đó có văn hóa Việt Nam, là một hệ
thống khá hoàn chỉnh đã hình thành từ hàng nghìn năm trước và có sự khác
nhau nhất định nếu so sánh với văn hóa phương Tây.

Sự khác nhau này thể hiện trước hết ở hệ thống các quan niệm về thế giới,
quan niệm về sự tồn tại của con người và ở các quan niệm, các quy ước văn
hóa, các tiêu chí định danh và định tính sự vật hiện tượng...
Bữa ăn gia đình của người Việt chủ yếu lấy cộng đồng làm đơn vị cơ bản, họ
ăn
cùng
mâm,
gắp
cùng
đĩa,

chấm
cùng
bát...
Đặt sang một bên việc bữa ăn cộng đồng cho phép mọi người có thể nhường
nhịn lúc đói kém, thì tới hôm nay, dù đời sống vật chất được cải thiện hơn
trước thì người Việt vẫn khó thích nghi với kiểu ăn mỗi người một đĩa.
Lối ăn theo định xuất chỉ được chấp nhận trong công việc “ca, kíp”, hoặc bữa
trưa của viên chức. Còn về cơ bản trong một ngày, gia đình vẫn quần tụ quanh
mâm cơm như là hành động biểu thị cho giá trị gia đình.
Bữa ăn cuối ngày (bữa chiều) của đa số gia đình Việt Nam (kể cả ở đô thị)
hiện tại, trở thành một “cuộc họp”. Ở đó, mọi người không chỉ ăn mà còn hỏi
han,
bàn
soạn
công
việc,
nhắc
nhở
việc

học
hành...
Ngược lại, người phương Tây lại lấy cá nhân làm đơn vị cơ bản trong bữa ăn
gia đình, mỗi người một đĩa, mỗi người tự cắt, xẻ thức ăn và người ta dễ thích


nghi

với

fastfood

-

thức

ăn

nhanh.

Sự cố kết lấy cộng đồng làm đơn vị cơ bản thường tạo ra cho cá thể sức mạnh
của số đông đứng sau, đứng cạnh và thường làm cho cá thể khó tách ra khỏi
cộng
đồng
để
tự
sinh
tồn.
Vài thập kỷ gần đây, trước ảnh hưởng của một số vấn nạn có nguồn gốc từ
văn minh công nghiệp tác động không lành mạnh tới sự phát triển của xã hội con người, đã xuất hiện một xu hướng là tìm về với các thành tựu của văn minh

phương
Đông.
Điều này là cần thiết, chỉ tiếc rằng, trong khi say sưa với quá khứ phương
Đông, một số tác giả lại đề cao nó đến mức cực đoan, hy hữu có trường hợp còn
tỏ ra quyết liệt đến mức phủ nhận thành tựu của văn minh phương Tây.
Chuyện không đơn giản như vậy, nếu thừa nhận một thế giới thống nhất thì
cần thừa nhận việc xem xét phương Đông và phương Tây chỉ là xem xét hai
mặtcủa
một
chỉnh
thể.
Không thể bằng tuổi lịch sử của một nền văn hóa để đánh giá nó mạnh hay
yếu, quan trọng hơn là nền văn hóa ấy đã đạt những thành tựu và đóng góp gì
cho văn hóa nhân loại.

Với kiểu tư duy khác nhau khi tiếp cận thế giới, đẩy tới các kiểu quan niệm, các
phương thức sinh tồn, các phong cách sống, các tập quán và thói quen... khác
nhau. Vì thế, đến thời hiện đại, để tổng kết một (các) lĩnh vực hoạt động của một
dân tộc, không thể không xem xét một (các) lĩnh vực ấy theo chiều lịch đại, tức là
phải xem xét trong tính lịch sử.
Mấy chục thế kỷ trước, văn hóa Hy Lạp ra đời. Điểm độc đáo của nền văn hóa
này là ở chỗ nó phối kết và phát triển lên một trình độ cao những thành tựu về tổ
chức xã hội, về toán học, thiên văn học, kỹ thuật chế tạo kim loại, canh tác nông
nghiệp, văn tự Phénicie,... đã tiếp thu từ văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập, Ba Tư...
Kinh tế thương nghiệp, sự ra đời của các thành bang, ngay từ đầu đã làm cho
văn hóa Hy Lạp - cái nôi của văn hóa phương Tây, đi theo khuynh hướng khác
hẳn
phương
Đông.



Thật ra, xét về nguồn gốc thì phương Đông hay phương Tây đều có điểm xuất
phát từ kinh tế - văn hóa nông nghiệp dưới hai hình thức chủ yếu là chăn nuôi và
trồng trọt. Tới khi kinh tế thương nghiệp xuất hiện ở hai vùng đất này thì cũng
đồng thời xuất hiện những xu hướng phát triển khác nhau.
Nguyên nhân:
Sâu xa : sự khác biệt về điều kiện tự nhiên địa lí khí hậu, xã hội lịch sử kinh tế văn
hóa. Môi trường sống của cộng đồng dân cư phương Đông và phương Tây có sự khác
biệt rõ nét. Trong khi phương Đông sống trong môi trường sống là xứ nóng, sinh ra
nhiều mưa ẩm tạo nên những con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú nên cái
gốc hoạt động kinh tế chủ yếu là trồng trọt, buộc người dân phải sống định cư tạo nên
VĂN HÓA kiểu nông nghiệp là có cuộc sống lâu dài, ổn định, và điều đó sẽ tạo nên
lối sống cộng đồng đoàn kết, lối sống tập thể và tình cảm, trọng cộng đồng… còn
phương Tây sống trong môi trường xứ lạnh, với khí hậu khô hình thành nên các vùng
đồng cỏ chăn nuôi nên có nền kinh tế gốc là du mục, sống theo lối di cư nên mang
tính chất “động”trọng tính chất cá nhân, sống khép kín hơn , trọng nguyên tắc pháp
luật.
Trực tiếp:
Bên cạnh đó còn xuất phát từ sự khác biệt về ngôn ngữ, tín ngưỡng phong tục tạp
quán …những yếu tố đó đã dẫn đến sự khác biệt trong cách ứng xử với môi trường tự
nhiên và XH, và một khi những yếu tố đó gặp nhau, sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn, phủ
định, nếu k dung hợp dc các yếu tố đó sẽ làm mâu thuẫn giữa nền VĂN HÓA phương
Đông và phương Tây trở nên căng thẳng, tới một mức nhất định thì sẽ xảy ra xung
đột.
Thực tế, các nền VĂN HÓA thường tồn tại những nguyên tắc, chuẩn mực nhất định,
những nguyên tắc đó có thể là hữu ích đối với một thực thể VĂN HÓA nào đó, song
có thể là có hại. Do vậy những nền VĂN HÓA sẽ có xu hướng chống lại các yếu tố
VĂN HÓA trái ngược gây ra các mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn sắc tộc diễn ra
mạnh mẽ ở các nước có phần lớn có sự đa dạng và chủng tộc, VĂN HÓA.
Một nguyên nhân khác không kém quan trọng là thái độ bá quyền VĂN HÓA của

những nước lớn, góp phần “khác biệt” VĂN HÓA trở thành “xung đột”. Chủ nghĩa bá
quyền VĂN HÓA luôn cho rằng VĂN HÓA của mình là có giá trị phổ biến, do đó đổi
xử bất bình đẳng với VĂN HÓA của các quốc gia và các dân tộc khác. Chính điều đó
đã dẫn đến phản ứng của những nền VĂN HÓA khác và làm nảy sinh các xung đột
VĂN HÓA


Hậu quả : xung đột văn hóa
Trong VĂN HÓA xung đột được hiểu là sự mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau giữa các giá
trị VĂN HÓA khác nhau , như : tín ngưỡng, phong tục, tạp quán, lối sống, lao động.
Xung đột VĂN HÓA có nhiều hình thức biển hiện, song bản chất của nó là sự va đập
gây gắt giữa các quan niệm khác nhau về giá trị một khi không đượcgiải quyết thì dẫn
đến xung đột…
Vậy xung đột VĂN HÓA giữa phương Đông và phương Tây chính là sự mâu thuẫn
giữa các giá trị hoặc yếu tố như phong tục tạp quán , lối sống, tín ngưỡng … giữa
phương Đông và phương Tây được đẩy đến mức cao trào và biểu hiện ra bên ngoài
dưới nhiều hình thức khác nhau.
3. Kết luận :
Văn hóa phương Đông – Tây có sự khác biệt nhau rõ rệt và điều này ảnh hưởng khá
lớn đến hành vi con người trong tổ chức. Phân tích sự khác nhau giữa văn hóa Đông –
Tây để giúp nhà quản trị có thể hiểu được sự khác biệt trong hệ thống chuẩn mực, hệ
thống giá trị các nhân, cũng như sự khác nhau trong hành vi, lối sống … Để họ có thể
đưa ra những cách thức, chiến lược phù hợp để dung hòa, nhưng vẫn không làm mất
đi bản chất riêng của mỗi nền văn hóa. Từ đó, tạo sự ổn định nội bộ, phát triển có lợi
cho cá nhân và tổ chức.


1. Bảng phân công nhiệm vụ và tự đánh giá điểm theo nhóm:
STT


Họ và tên

1

Dương Thị Ngọc Ánh (NT)

2

Ngô Vương Trung Trực

3

Nguyễn Minh Ngọc

4

Nguyễn Thị Ánh Hồng

5

Nguyễn Thị Thanh Ngân

6

Nguyễn Thị Thu Liễu

7

Nguyễn Thị Thùy Trang


8

Trần Tấn Tài

Mã số SV

Nội dung phân công

Thời gian thực Kết quả thực hiện
hiện

Điểm
THANG
ĐiỂM 10

17072241

Phần kết luận

7 ngày

Hoàn thành tốt

9

17027141

Phần nội dung

7 ngày


Hoàn thành tốt

9

17009561

Hùng biện

7 ngày

Hoàn thành tốt

9

17016761

Phần nội dung

7 ngày

Hoàn thành tốt

9

17012401

Phần nội dung

7 ngày


Hoàn thành tốt

9

17077301

Hùng biện

7 ngày

Hoàn thành tốt

9

17012871

Phần nội dung

7 ngày

Hoàn thành tốt

9

17013851

Phần mở bài

7 ngày


Hoàn thành tốt

9



×