Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHỮNG nét mới TRONG sự PHÁT TRIỂN của CHỦ NGHĨA tư bản HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.25 KB, 16 trang )

Mục lục
Mở đầu……………………………………………………………………….3
1 lý do chọn đề tài…………………………………………………………….3
2 mục đích nghiên cứu đề tài………………………………………………….3
3 đối tượng nghiên cứu đề tài…………………………………………………4
4 phạm vi nghiên cứu đề tài…………………………………………………...4
5 phương pháp nghiên cứu đề tài………………………………………………4
Nội dung
I. Chủ nghĩa tư bản hiện đại và các thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản
1 khái quát chủ nghĩa tư bản hiện đại………………………………………5
2 Các thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản……………………………...8
2.1. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh…………………………9
2.2. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền………………………………..9
II NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
HIỆN ĐẠI……………………………………………………………………...9
1 Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất ……………………………..9
2 Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp………………….11
3 Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những
biến đổi lớn……………………………………………………………….11
4 Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường……………...12
5. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống
kinh tế tư bản chủ nghĩa……………………………………………………….14
1


6 Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường………………………..15
KÊT LUẬN………………………………………………………………….15
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………..16

2



Mở Đầu
1 lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa tư bản(CNTB) với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội ra đời cuối thế
kỷ XVIII,đầu thế kỷ XIX, đến nay trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau.
Lịch sử đã chứng minh từ CNTB tự do canh tranh sang thời kỳ CNTB đôc
quyền.Ở các thời kỳ khác nhau, CNTB có đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội khác
nhau. CNTB hiện đại là một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử phát triển của
CNTB. Đó là CNTB độc quyền nhà nước với nhiều đặc trưng mới được thể hiện rõ
nét từ sau chiến tranh thế giới thứ hai và ngày càng phát triển nhanh các yếu tố tự
phủ định biện chứng. Nhờ sử dụng các tiến bộ khoa học côn nghệ cùng với tính
năng tự điều chỉnh quan hệ sản xuất, CNTB hiện đại làm cho bộ mặt xã hội có
những bước phát triển mới. Tuy nhiên, sự thay đổi phát triển này không làm cho
CNTB thay đổi bản chất,không làm cho nó biến khỏi vũ đại lịch sử. CNTB vẫn
đang tồn tại phát triển. Dưới sự tác động của sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của
kỹ thuật và công nghệ, ngày nay lực lượng sản xuất đã có bước phát triển mạnh
mẽ. Lực lượng sản xuất thay đổi cả về tính chất và trình độ kéo theo sự thay đổi về
quan hệ sản xuất. do đó mà trong các nước chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó cung
mang những đặc điểm mới. đề tài này sẽ một phần nào làm sáng tỏ bản chất của
CNTB hện đại trong sự phát triển của ngày nay.
2. Mục đích nghiên nghiên cứu đề tài
Sự phát triển của khoa học công nghệ trong những thập niên gần, đã làm thay đổi
nhiều mặt của đời sống xã hội, việc áp dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ vào sản xuất đã giúp cho CNTB đạt được những thành tựu to lớn,và bản thân
CNTB đã có những sự thay đổi để phù hợp với sự phat triển đó, dẫn đến hình thành
những nét mới của chủ nghĩa tư bản ngay nay.
Với đề tài “những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại” giúp
làm sáng tỏ sự thay đổi của CNTB ngày nay, những nét mới của CNTB hiện đại,
để từ đó có thê hiểu được bản chất của CNTB hiện đại là thế nào. Và những tác
động của cuộc cách mạng khoa học kỷ thuật với CNTB ngày nay.

3


3 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ bó hẹp trong nghiên cứu những nét mới của CNTB hiện đại, cùng với sự
tác động của cuộc cách mạng khoa học kỷ thuật ngày nay dẫn đến những thay đổi
của CNTB, đó là sự nhảy vọt trong lực lượng sản xuất, hay sự thay đổi trong quan
hệ sản xuất.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian. Chủ yếu là từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, mà trong tâm là
trong khoảng thời gian gần đây, dưới dự tác động của sự phát triển không ngừng
của khoa học công nghệ ngày nay.
Về không gian. Thì đó chính có thể lấy các xã hội ở các nước tư bản phát triển như
Âu – Mỹ làm minh chứng cụ thể nhất để dẫn chứng những chuyển biến của chủ
nghĩa tư bản hiện đại
5 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên ngành để nghiên cứu như
sau.
Phương pháp nghiên cứu logic kết hợp với lịch sử vận dụng các mốc thời gian lịch
sử để thấy được mức độ thay đổi và phát triển những cái mới của chủ nghĩa tư bản.
Các kiến thức của các chuyên ngành khoa học xã hội có liên quan, đặc biệt là
ngành kinh tế học, và ngành chính trị học.

4


NỘI DUNG
Từ thế kỷ XX trở lại đây, CNTB đã có những bước phát triển mới, từ chủ nghĩa
chủ tư bản độc quyền trong phạm vi quốc gia khu vực, sang chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước trong phạm vi toàn cầu, CNTB do có có sự điều chỉnh , cải cách

nội bộ để thích nghi với hoàn cảnh mới, do tận dụng tốt các khoa học công nghệ
nên đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển khinh tế. trong những thập niên
tới với sự điều chỉnh của mình thì CNTB vẫn có thể đạt được những thành tựu to
lớn khác, CNTB đã có những thay đổi tích cực hơn để giảm bớt các mâu thuẩn
chính, nhờ sự áp dụng cá khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tuy nhiên bản thân nó
cũng không thể nào tránh khỏi mâu thuẩn của quy luật sản.xuất, việc nghiên cứu
CNTB đã được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm, chính vì vậy
nghiên cứu “ những nét mới trong sự phts triển chủ nghĩa tư bản hiện đại” góp
phần nào hiểu được bản chất của CNTB hiện đại
I. Chủ nghĩa tư bản hiện đại và các thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản
1 khái quát chủ nghĩa tư bản hiện đại
Đứng trước những thay đổi của chủ nghĩa tư bản, nhiều người cho rằng xã hội tư
bản hiện nay không còn giống xã hội tư bản thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX như C.
Mác - Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin mô tả nữa. Người ta tuyên bố học thuyết giá trị
thặng dư của C. Mác đã cáo chung và rằng, chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên một
bước mới và không còn là nó nữa.Người ta nói đến một xã hội “hậu tư bản”, một
“chủ nghĩa tư bản nhân dân” hay “chủ nghĩa tư bản xã hội”, trong đó phúc lợi ngày
càng được chia đều cho mỗi người. Điều đó có nghĩa là xã hội hiện nay không còn
phân chia ra kẻ bóc lột và người bị bóc lột; quy luật giá trị thặng dư không còn là
quy luật tuyệt đối của xã hội hiện đại. Vậy xã hội tư bản ngày nay có biến đổi hoàn
..toàn như những học giả tư sản cố tình chứng minh hay không? Chủ nghĩa tư bản
ngày nay có thực sự là “chủ nghĩa tư bản xã hội” hay không? Quy luật giá trị thặng
dư có còn là quy luật tuyệt đối của xã hội tư bản hiện đại hay không? Để nhìn nhận
về vấn đề này, thiết nghĩ cần phân tích hết sức khách quan trên cả ba mặt của quan
hệ sản xuất: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm.

5


Để biện minh cho luận điểm của mình các học giả tư sản cho rằng, khoa học ngày

nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế hiện đại cũng đang chuyển
dần sang kinh tế tri thức. Vì vậy, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất không còn đóng vai
trò quan trọng như đã có trong các thế kỷ trước; sở hữu trí tuệ đã thay thế vai trò
của sở hữu tư liệu sản xuất trong việc đưa loài người tiến lên; chủ thể của sự phát
triển và tiến bộ khoa học là các nhà khoa học chứ không phải các ông chủ tư sản.
Trên thực tế, những sáng chế phát minh khoa học và công nghệ được nảy sinh
trong trí não một nhà phát minh nào đó, chỉ anh ta biết và thuộc sở hữu của anh ta.
Song một sáng chế phát minh ở dạng như vậy mới chỉ dừng lại là một tiềm năng
sản xuất. Để trở thành một lực lượng sản xuất mới, phát minh đó phải trải qua một
quá trình ứng dụng, thử nghiệm nhiều lần trước khi có thể sản xuất đại trà. Tất cả
quá trình đó đòi hỏi phải có sự đầu tư, nhiều khi rất tốn kém. Nếu nhà phát minh có
tiền, họ tự mình làm thử nghiệm, công bố kết quả, đăng ký sở hữu trí tuệ rồi đứng
ra sản xuất theo công nghệ mới thì người đó vừa là nhà tư bản vừa là nhà phát
minh. Tuy nhiên, trong xã hội tư bản có rất ít trường hợp như vậy. Phần lớn các
nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu do không có tiền để đầu tư, thử nghiệm nên
buộc phải bán sản phẩm trí tuệ của mình như một thứ hàng hóa cho nhà tư bản.
Nhà tư bản sử dụng hàng hóa đó như một công cụ hữu hiệu để tăng năng xuất lao
động, tăng giá trị thặng dư cho mình. Như vậy, lúc đầu, sáng chế, phát minh, thuộc
sở hữu của nhà khoa học nhưng thông qua hành vi mua và bán trên thương trường,
những sáng kiến, phát minh sau đó đã thuộc sự sở hữu của các nhà tư bản. Điều đó
có nghĩa là những phát minh trong lĩnh vực khoa học và công nghệ chỉ trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp dưới hình thức là tư bản mà thôi.
Trường hợp khác, nếu nhà khoa học bán những phát minh, sáng chế, tức là bán
hàng hóa sức lao động trí óc của mình cho nhà tư bản nhằm kết hợp với các thiết bị
nghiên cứu trong các xí nghiệp khoa học do nhà tư bản tổ chức, thì phát minh sáng
chế đó ngay khi mới ở trong đầu nhà khoa học đã thuộc quyền sở hữu của nhà tư
bản. Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, không thể có việc sở hữu trí tuệ
thay thế cho sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư.
Mặt khác, trong xã hội hiện đại, do đòi hỏi khách quan, trình độ văn hóa và nghề
nghiệp của người công nhân cao hơn trước rất nhiều. Cũng có trường hợp do tính

chuyên nghiệp đặc thù của một khâu sản xuất do một người công nhân nào đó đảm
nhiệm mà anh ta có thể mặc cả với ông chủ. Từ đó, các học giả tư sản cho rằng,
ngày nay quyền lực của nhà tư bản đối với công nhân đã giảm đi bởi vì công nhân
6


cũng có trí tuệ của mình và sở hữu nó như một sự đối trọng với sở hữu tư bản; rằng
mối quan hệ giữa giới chủ và giới thợ đã thay đổi, mối quan hệ đó là quan hệ bình
đẳng, thậm chí có quan điểm cho rằng do người công nhân sở hữu trí tuệ nên họ có
ưu thế hơn so với chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Các quan điểm trên là hoàn toàn
xuyên tạc bởi lẽ, chừng nào xã hội hiện đại vẫn là chế độ tư bản thì mọi quyền lực
chi phối vẫn thuộc về giai cấp nào nắm giữ tư bản, đó là giai cấp tư sản chứ không
có gì thay đổi. Giai cấp tư sản vẫn là giai cấp thống trị và người công nhân vẫn chỉ
là người làm thuê cho ông chủ tư sản mà thôi.
Ở thời C. Mác, sự tách rời giữa tư bản tiền tệ và tư bản sản xuất ở các công ty cổ
phần đã có song chưa nhiều. Nó mới chỉ là những hiện tượng kinh tế mới xuất hiện
ở những ngành kinh doanh lớn. Còn ngày nay, công ty cổ phần đã trở thành phổ
biến, không chỉ ở các công ty lớn, mà cả ở các công ty vừa và nhỏ. Trong các công
ty cổ phần không chỉ các nhà tư bản có cổ phần, mà những người công nhân cũng
có cổ phần. Đương nhiên, lợi tức cổ phần được chia bình đẳng cho mọi cổ phiếu.
Song do lượng cổ phiếu ít ỏi, người công nhân không thể nắm quyền chi phối hoạt
động của công ty. Mặt khác, ngày nay trong các công ty cổ phần, xuất hiện tương
đối phổ biến một tầng lớp giám đốc, điều hành, quản lý. Trên thực tế, những giám
đốc đó vẫn là người làm thuê cho tư bản bởi lẽ, họ điều hành công ty dưới sự lãnh
đạo của hội đồng quản trị. Tuy nhiên, bên cạnh những giám đốc là người làm thuê,
cũng có một lượng không nhỏ những giám đốc đồng thời là chủ tư bản, họ sở hữu
trong tay một tỷ lệ cổ phiếu không nhỏ, có thể giữ địa vị khống chế. Như vậy, các
giám đốc và chủ tư bản đan xen, xâm nhập lẫn nhau, hình thành một hình thức tư
bản tập thể.
Cũng không như trước đây, các công ty cổ phần cũng hoàn toàn không mang tên

một ông chủ nào nữa. Điều hành công ty là những liên minh tạm thời của những
nhà tư bản. Điều đó, làm cho công nhân và nhân viên của các hãng trong công ty
nhiều khi không biết ông chủ thực sự của mình là ai. Ngược lại, các ông chủ cũng
không biết công nhân của mình là ai. Trong các hệ thống đó, dường như giữa chủ
tư bản, công nhân và nhân viên làm thuê không còn ranh giới nữa; tư bản làm quản
lý, giám đốc làm chủ sở hữu và công nhân cũng được chia lợi tức cổ phiếu như nhà
tư bản, mọi người đều trở thành tư sản và đều phải lao động và chẳng ai bóc lột ai
nữa.Trên thực tế, không phải thu nhập của mọi tầng lớp đều như nhau, do lượng cổ
phiếu khác nhau nên xét về thu nhập thực tế, công nhân vẫn là công nhân, nhà tư
bản vẫn là nhà tư bản. Giai cấp tư sản vẫn là giai cấp bóc lột, vẫn sống nhờ vào lao
7


động làm thuê. Chỉ có khác là trong một công ty hiện đại, người ta không thể biết
được chính xác giá trị thặng dư do người công nhân nào sản xuất và nộp cho ông
chủ tư bản cụ thể nào.
Ngày nay, với sự xuất hiện những nhà máy tự động hóa cao, làm xuất hiện huyền
thoại về “nhà máy không người”. Từ đó, các học giả tư sản lại xuyên tạc, phủ nhận
học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác từ góc độ khác. Họ cho rằng, ngày nay, máy
móc hiện đại đã thay thế lao động sống. Ở những nhà máy tự động, “nhà máy
không người” không có lao động sống và do đó không còn bóc lột giá trị thặng dư
nữa.
Trong phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư, C. Mác đã phát hiện ra tính
chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: lao động cụ thể và lao động trừu
tượng. Vận dụng lý luận đó vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác phát
hiện ra tư bản bất biến và tư bản khả biến. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa, với tính chất là lao động cụ thể, lao động của người công nhân đã chuyển
nguyên vẹn giá trị cũ của máy móc, nguyên nhiên liệu vào sản phẩm lao động mới
và làm cho sản phẩm đó có một giá trị sử dụng xác định. Tuy nhiên, vẫn là quá
trình lao động đó, nhưng với tính chất lao động trừu tượng, người công nhân đã

sáng tạo ra một giá trị mới, trong đó có giá trị thặng dư. Như vậy, dù cho máy móc,
các tư liệu lao động có hiện đại, có vai trò quan trọng, nếu không có chúng thì quá
trình sản xuất không diễn ra thì giá trị thặng dư vẫn chỉ do lao động sống của công
nhân sản xuất chứ không phải do máy móc tạo ra.
Mặt khác, máy móc không thể tự chạy mà phải có người công nhân vận hành cho
nó chạy và theo dõi quá trình vận hành đó để xử lý lỗi khi gặp sự cố kỹ thuật. Nói
cách khác, vẫn phải có lao động sống của người công nhân làm nhiệm vụ giám sát,
điều hành trong quá trình tự động hóa của máy móc. Hơn nữa, để một dây chuyền
tự động hoạt động, cần phải có một bộ phận nhân viên lo đầu vào sản xuất, tiếp
liệu đúng thời hạn và chất lượng; một bộ phận nhân viên khác lo đầu ra sản phẩm,
quảng bá, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm. Nếu các bộ phận này không làm tốt thì nhà
máy không thể hoạt động được. Như vậy, không thể có cái gọi là “nhà máy không
người” bởi trong quá trình sản suất vẫn không thể thiếu được lao động của người
công nhân với tư cách là lao động sống.
2 Các thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản
8


2.1. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
- CNTB với tư cách là một hệ thống ra đời từ cuối thế kỷ XVIII. Thời kỳ đầu, chủ
nghĩa tư bản có vai trò cách mạng tiến bộ, thủ tiêu chế độ phong kiến, thúc đẩy lịch
sử phát triển nhanh chóng.
- Đến giữa thế kỷ XIX, sự phát triển của công nghiệp lớn TBCN tạo ra những đột
phá lớn về phát triển kinh tế- xã hội, thúc đẩy cạnh tranh tự do, mở rộng thị trường.
- Từ nửa sau thế kỷ XIX, chạy đua săn tìm lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh
tự do dẫn đến tình trạng sản xuất quá thừa => KHKT mang tính chu kỳ.
2.2. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền
- Bước vào thế kỷ XX, CNTB chuyển từ thời kỳ tự do cạnh tranh sang thời kỳ chủ
nghĩa đế quốc với việc xác lập quyền thống trị của các tổ chức độc quyền lũng
đoạn ở các nước tư bản chủ nghĩa.

- Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập niên 70 thế kỷ XX, với nhiều
biện pháp điều chỉnh về chính trị, kinh tế, quan hệ sản xuất, nắm được cách mạng
khoa học kỹ thuật, do vậy chủ nghĩa tư bản đã tạo nên bước phát triển mới mạnh
mẽ về lực lượng sản xuất, về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, hình thành
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước - CNTB hiện đại.
- Từ cuối thập niên 70 thế kỷ XX đến nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại chuyển sang
giai đoạn độc quyền quốc tế (độc quyền xuyên quốc gia).
II NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN HIỆN ĐẠI
1 Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất .
- Chủ nghĩa tư bản đang trong bước quá độ từ cơ sở vật chất kỹ thuật truyền thống
sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất - đó là kinh tế trí thức
Kinh tế tri thức có những đặc trưng là:Các tài sản vật thể (physical assets) như đất
đai, nhà máy, thiết bị không cònđóng vai trò như trước. Chất xám, vốn con người
có ý nghĩa quyết định sức mạnh kinh tế. Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí
quan trọng.Các hoạt động kinh tế đều được “số hoá” và được vận hành trên các
siêu xa lộ thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi. Thông tin sẽ đóng
9


vai tròquyết định nhất và có vai trò như “bản vị của mọi hoạt động kinh tế”Các
quan niệm truyền thống và phương thức sản xuất kinh doanh sẽ thay đổi.Ví dụ, sở
hữu trí tuệ được đề cao, quản lý theo mạng sẽ thay thế phương phápquản lý theo
thứ bậcTuy nhiên hiện nay loài người mới ở bước quá độ. Những biểu hiện cụ thể
của bước quá độ là sự thay thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống docuộc
cách mạng công nghiệp mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trêncơ sở
của những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, mà tập trung ở các
lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học. . . thể hiện trongnhững
thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền. . . tác động nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít
năng lượng. Các tư liệu sản xuất này hết sức đa dạng, phong phú cả vế đốitượng

lao động lẫn tư liệu lao động. Các công cụ thiết bị tự động hoá ngày càngphát triển
thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hoá. Có thể nói khái quát là hiện đã có ba
loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động hoá. Đó là:
+ Máy tự động trong quá trình hoạt động
+ Máy công cụ điều khiển bằng số
+ Người máy. Đặc biệt là người máy(Robot) đã từng bước thay thế phần
công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho người lao
động,đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do người máy điều
khiểnnhững công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã bước đầu
đượcthử nghiệm để người máy thay thế.Tính cách mạng của tư liệu sản xuất trước
hết thể hiện ở công cụ lao động dâychuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản
xuất. Do vậy, phương thức sảnxuất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ
thuật cơ khí sang bán tự động và tự động và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri
thức đã xuất hiện.Nguyên nhân của bước quá độ này là do tác động của cuộc cách
mạng khoahọc và công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với
những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung là kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin,
vật liệumới, công nghệ sinh học, công nghệ hải dương. . . đã tạo ra những thành
tựu mớivà được chủ nghĩa tư bản.
_ Thứ hai, giáo dục - đào tạo được tăng cường làm cho tố chất công nhân được
nâng cao, từ đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và
sức cạnh tranh. Đội ngũ người lao động làm thuê lực lượng sản xuất cơ bản, cũng
có sự biến đổi cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng
10


hoá sức lao động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư liệu
sản xuất. Cho đến nay đội ngũ lao động ở các nước tư bản phát triển đã đạt trình độ
văn hoá chuyên môn nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đã có sự thay đổi theo chiều
hứơng tiến bộ và các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu qủa.


2 Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp
- Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân
tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi
cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công nhân. Nhưng trên thực tế, công
nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân chia quyền lực, nên phân
tán hóa quyền khống chế cổ phiếu cũng không thể làm thay đổi địa vị làm thuê của
người lao động.
- Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp,
đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là sự
xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm khoảng
40-50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một phần
vốn, rất nhiều trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa
vị nghề nghiệp khá tốt, đã không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền
thống nữa.
- Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sợ điều chỉnh về quan hệ sản
xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng trưởng
khá lớn.Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ
nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản
xuất, mà bắt nguồn từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa
dịu được tính gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ
nghĩa tư bản muốn tồn tại và phát triển cũng phải lo giải quyết các vấn đề xã hội,
giải quyế mối quan hệ giữa tư bản và lao động, song song với sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất và cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân
3 Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi
lớn

11


Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, thể chế

quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước điều
chỉnh và cải cách lớn.
- Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng
ngang và mạng lưới. Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống kiểu kim tự tháp
truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo chiều dọc, thay
thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ và theo chiều ngang
nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn giản trình tự quyết sách,
phát huy đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của toàn thể công nhân nhằm nâng
cao hiệu quả công tác.
- Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng với
những thay đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh nghiệp thiết lập hệ
thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung cấp thích
hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng gần gũi với khách
hàng hơn).
- Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu cầu đối
với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thế lực mà là phải có kỹ năng và tri
thức cao hơn để họ phát huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng
suất lao động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai loại hình
lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã không
ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường của công ty.
Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng tạo hơn cũng
được phát triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức sống và hiệu
quả cao.
4 Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường
Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò điều chỉnh của nhà nước tư bản
bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động
củacuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một
cách mạnh mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đã đưa tới sự ra đời của nhiều ngành mới như: điện tử,

12


năng lượng,hàng không vũ trụ. Phát triển những ngành này một mặt đòi hỏi phải có
nguồn vốn rất lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề
có tri thức cao, được đào tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà tư bản không thể
tự giải quyết được và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi
hỏi các quốc gia phải có chiến lược kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định
hướng cho sự phát triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu tư lớn cho việc
nghiên cứu khai triển, đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ tầng mới. Những
việc này chỉ có nhà nước mới giải quyết nổi. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu
thông được đẩy mạnh, sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm
nảy sinh những mâu thuẫn mới mang tính quốc tế, chỉ có nhà nước mới đứng ra
điều chỉnh, giải quyết và phối hợp được các hoạt động mang tính quốc tế. Ngoài ra,
để đối phó với những biến động kinh tế, chính trị, xã hội, diễn ra trong và ngoài
nước như: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chạy đua kinh tế vàquốc phòng
anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải phóng dân tộc và đối Phó với
những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp và những khuyết tật của cơ chế
thị trường, không ngoài ai khác là nhà nước phải trực tiếp can thiệp vào các khâu
của quá trình tái sản xuất xã hội để đảm bảo cho sự vận động bình thường của nền
kinh tế.
Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt động của nhà
nước.Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu tư cũng như các chính sách
kinh tế nói chung cần phải đáp ưng được nhiều hơn bao giờ hết các thông số của
nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã mở ra những cơ hội mới cho phép mở rộng vai trò của thị
trường. Những thay đổi này làm cho chính phủ có một vai trò mới va khác biệt. Nó
không còn là người đảm bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và
người điều tiết hoạt động xã hội.

Cuộc cải cách hành chính được thực hiện trên cơ sở xác định lại vai trò của nhà
nước. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính là thực hiện “chính phủ gọn nhẹ”,cơ
cấu lại bộ máy chính quyền trung ương, thực hiện phi tập trung hoá, phân cấp
mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phương. Chính phủ trước đây vừa là người cầm
lái vừa là người bơi chèo con thuyền quốc gia. Ngày nay, cầm lái và bơi chèo được
tách riêng ra. Chính phủ cầm lái chứ không phải là bơi chèo. Việc cầm lái đòi hỏi
13


phải cónhững người nhìn nhận được toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năng
có thể cân
đối được các yêu cầu trái ngược nhau về nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải có
những người chú ý tập chung vào một nhiệm vụ và thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Các
tổ chức cầm lái cần phải tìm ra những phương pháp tốt nhất để đạt được những
mục tiêu của mình. Xã hội hoá và tư nhân hoá là con đường làm giảm nhẹ gánh
nặng của nhànước trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội, làm cho chính phủ gọn
nhẹ, chỉ tập chung vào việc cầm lái. Nhà nước không teo đi mà trái lại, mạnh mẽ,
chắc chắn và năng động hơn. Nhà nước “thực hiện” và “thi hành” được thay bằng
một nhà nước “cai trị “ mạnh vì nó chỉ làm cái việc quyết định và lãnh đạo và việc
thực hiện giao nhiệm vụ cho người khác.
Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự
pháttriển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của chủ nghĩa tư bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát
triển,thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh.
- Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế nhằm nâng
cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia. Những năm 90 của thế kỷ XX, việc thiết
lập thị trường chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối
với châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có ý nghĩa không thể xem nhẹ.
- Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX, dù là

Mỹ hay châu Âu đều áp dụng mô hình chính sách "Con đường thứ ba", trên thực tế
là sự
dung hòa quan niệm giá trị truyền thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự
do với một số biện pháp của chủ nghĩa bá thủ mới, đóng vai trò tích cực cho việc
xoa dịu những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
- Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận
dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu
thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.
5 Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
14


Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền bành trướng
thế lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các công ty xuyên
quốc gia được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài trên quy mô lớn,
các công ty xuyên quốc gia mua và thôn tính các tài sản ở nước ngoài, không
ngừng tăng cường thực lực, mở rộng thị phần. Cùng với sự phát triển nhanh của
toàn cầu hóa kinh tế, ngày càng nhiều xí nghiệp trong nước trở thành công ty
xuyên quốc gia. Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc
gia đã trở thành lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư
bản độc quyền liên quốc gia phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng
mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ,dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu
hóa, các công ty xuyên quốc gia đã có tác động lớn đến các mặt của đời sống chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn
thế giới.
6 Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư bản chủ nghĩa
ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, những xung đột

kinh tế như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái, chiến tranh lãi suất
mà trước đây thường có giữa các nước phương Tây đã giảm xuống. Việc giải quyết
mâu thuẫn giữa các nước phương Tây đã giảm xuống và thường áp dụng hình thức
thương lượng thỏa hiệp chứ không đối kháng gay gắt như trước. Những năm gần
đây, phối hợp và hợp tác quốc tế được tăng cường rõ rệt, hiệu quả cũng không
ngừng được nâng cao. Vai trò của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế phát huy
tác dụng ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh tế quốc tế và trở thành một
trong những chủ thể mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩaTăng cường
điều tiết và phối hơp quốc tế có vai trò không thể xem nhẹ trong việc xoa dịu mâu
thuẫn bên trong và bên ngoài các nước tư bản chủ nghĩa, tạo không gan phát triển
rộng lớn hơn cho chủ nghĩa tư bản.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên chúng ta có thể kết luận về hình thức quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa ngày nay đã có những biến đổi nhất định. Song về bản chất, quan hệ
sản xuất trong xã hội tư bản hiện đại vẫn không có gì thay đổi, vẫn là chế độ sở
15


hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất mà thôi. Điều đó cũng có nghĩa
quy luật giá trị thặng dư vẫn là quy luật tuyệt đối của xã hội tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay, với những thành tựu đáng kể của nó, là sự chuẩn bị tốt
nhất những điều kiện tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Tuy nhiên, bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải
thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
sẽ diễn ra bằng phương pháp hòa bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc
vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chung trong
từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng

TÀI LIỆU THAM KHỎA
1 . Lê Văn Sang.Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập I, II, (NXB Chính trị quốc gia-Hà

Nội 1995)
2 . PGS-TS Đỗ Lộc Diệp :Chủ nghĩa tư bản ngày nay – mâu thuẫn nội tại, xu thế,
triển vọng(NXB KH-XH 2003)
3 Nguyễn Trường (2010), Thế giới thời hậu chiến tranh lạnh, Nxb Tri Thức, Hà
Nội.
4 Angus Maddison (2011), Kinh tế thế giới – Một thiên niên kỷ phát triển, Nxb
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
5 Michel Beaud (2002), Lịch sử chủ nghĩa tư bản, Nxb Thế Giới, Hà Nội
6 .F. A. Hayek (2016), Tự do kinh tế và chính thể đại diện, Nxb Tri Thức, Hà Nội
7 trungtamwto.vn
8 vepr.org.vn
9
10

16



×