Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía bắc ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.1 KB, 184 trang )

1

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
LÊ VĂN NAM

Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 62 31 01 01
Nghiên cứu sinh: LÊ VĂN NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Võ Văn Đức

2014


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang
thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ:
“Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có
những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính
trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an
ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng. Cục
diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc
tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế”
[35, tr.182-183]. Vì thế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội


mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế lực
thù địch, phản cách mạng đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt
Nam bằng mọi âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực:
Kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình
đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức
mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra.
Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Một số tỉnh
biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế lớn, có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền


3
quốc gia. Trong thời kỳ mới, tình hình biên giới đất liền cũng như biên giới
phía Bắc trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được giải quyết theo
hướng hoà bình, hữu nghị. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông vẫn còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ bất ổn trong khu vực nói chung và giữa Việt Nam với Trung
Quốc nói riêng. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột cả biên giới trên bộ
và trên biển. Cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến
lược “diễn biến hoà bình”… Chính vì vậy, biên giới phía Bắc vẫn là khu vực
chiến lược quan trọng mà các lực lượng thù địch luôn tìm cách lợi dụng,
chống phá cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra hết sức
quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia nói chung, biên giới phía
Bắc nói riêng. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu là phải phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện. Có như vậy
mới tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội vững chắc nhằm đảm bảo quốc phòng an ninh trong thời kỳ mới.
Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn

nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước bằng việc đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội; quốc phòng, an
ninh… đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, các tỉnh biên giới phía
Bắc có điều kiện địa lý khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và không đồng bộ, điểm
xuất phát thấp, đặc biệt là phát triển kinh tế… thực trạng đó đã tác động tới mất ổn
định về kinh tế - xã hội; quốc phòng và an ninh không được đảm bảo. Vì vậy, phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc vừa là yêu cầu cơ bản, lâu dài của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
nói chung, vừa là đòi hỏi cấp thiết cho nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc nói riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế - xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc” làm
luận án tiến sỹ.


4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải
pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
ở một số địa phương.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
+ Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh; chỉ ra những nội dung đã được đề cập nghiên
cứu, cũng như những vấn đề chưa được đề cập, nghiên cứu.
+ Hệ thống hoá và làm rõ khuôn khổ lý thuyết của việc phát triển kinh tế - xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
+ Phân tích và đánh giá đúng việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, chỉ rõ

những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của chúng và những vấn đề đặt ra
trong thời kỳ mới.
+ Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh
tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc trong thời kỳ mới.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.
Cụ thể là: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh
hưởng như: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị…
Trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định đến quốc phòng, an


5
ninh. Ngược lại, quốc phòng, an ninh có tác động tích cực trở lại kinh tế - xã
hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngày nay,
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh
càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế - xã hội ổn định nhanh, bền
vững giữ vai trò quyết định cho đảm bảo quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an
ninh không chỉ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn đảm bảo an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hoà bình, ổn định, là tiền đề,
điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, bền vững. Bởi vậy, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh phù hợp với từng điều
kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể trên từng địa phương.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung làm rõ mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh;
nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và

các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa hẹp là đảm bảo nhu cầu vật chất kỹ thuật, tài chính và nhân lực (xét ở mặt kỹ thuật, thuộc phạm vi chuyên ngành
Kinh tế quân sự - Hậu cần quân sự); theo nghĩa rộng, đảm bảo quốc phòng, an ninh
là chủ quyền quốc gia không bị xâm phạm, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo (môi trường hoà bình, ổn định được đảm bảo), theo đó luận án
nghiên cứu đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa rộng.
- Về không gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó tập
trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng.


6
- Về thời gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tập trung vào
3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2001 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ
Tổ quốc và các văn kiện của Đảng, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh;
những chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh vùng biên giới phía Bắc; các chỉ thị, nghị quyết của Bộ
Quốc phòng; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan, sở, ban,
ngành ở một số tỉnh biên giới phía Bắc; các công trình liên quan đến đề tài đã
được công bố; kết quả điều tra khảo sát nghiên cứu thực tế có liên quan đến
đề tài là cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của kinh tế chính

trị Mác - Lênin; sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp các
phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê so sánh và
phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ nội dung luận án. Phương pháp đó
được vận dụng vào các chương cụ thể như sau:
Chương 1, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ yếu sử dụng phương pháp thống
kê, kết hợp với phương pháp phân tích. Cuối chương sử dụng phương pháp trừu
tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá
trình và những hiện tượng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh đã được nghiên cứu, từ đó tách ra những cái điển hình, bền vững,


7
ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất
của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn,
hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản chất, để thấy
được bản chất của vấn đề mà các công trình khoa học, các đề tài, luận án trước
đó đã nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và phát triển để
làm cơ sở cho nghiên cứu các chương sau của luận án.
Chương 2, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ
yếu sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để hình thành các khái niệm,
phạm trù khoa học đặc trưng cho các mặt khác nhau của các hiện tượng quá trình
phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc, tiến tới hình thành các qui luật, xác lập sự phụ thuộc và tác
động lẫn nhau một cách nhân quả, ổn định của các hiện tượng và quá trình phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh mà đề tài luận án đưa
ra. Cùng với phương pháp trừu tượng hoá khoa học là phương pháp phân tích để
thấy được những nội dung, những nhân tố ảnh hưởng và kinh nghiệm trong phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Chương 3, Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Phương pháp nghiên cứu
trong chương này kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
thống kê so sánh, chuyên gia; sau đó sử dụng phương pháp phân tích và
phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trên cơ sở đó hoàn thành chương 4:
quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Trong suốt quá trình viết luận án, nhất là sự chuyển tiếp, kế thừa nội
dung các chương và nội dung toàn luận án cần phải chú ý vận dụng tốt
phương pháp logic và lịch sử.


8
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Hệ thống hoá và làm rõ hơn một bước cơ sở khoa học về phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và nhận diện những vấn đề đang đặt ra
đối với phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một
số tỉnh biên giới phía Bắc, đặc biệt là trong tình hình phức tạp hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: phần mở đầu; 4 chương, 12 tiết; kết luận; danh mục các
công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng của
thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, mà
là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn
mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đối với Việt Nam, phát triển
KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một quy luật khách quan, là sự thiết lập mối
quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung, hai lực lượng, cái này tạo tiền đề cho phát triển
cái kia và ngược lại. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung gắn
kết đó đều được bổ sung, phát triển. Chính vì vậy, việc khái quát lịch sử vấn đề
nghiên cứu và nghiên cứu, tiếp cận nhiều kênh thông tin, đặc biệt là những công
trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài là vấn đề có ý nghĩa to lớn giúp
cho luận án có cơ sở khoa học trong kế thừa, phát triển.
1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam

1.1.1. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong
thời kỳ Phong kiến
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực và
trên thế giới, nền KT chậm phát triển, nên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kể từ khi
các Vua Hùng dựng nước đến nay, Việt Nam luôn bị nhiều kẻ thù nhòm ngó, tiến
công xâm lược. Tình hình đó đã đặt ra cho dân tộc ta phải nhận thức rõ KT và QP là
những nhân tố có vai trò rất quan trọng, phải chú trọng phát triển KT và thường
xuyên chăm lo đến QP, tạo sức mạnh bền vững bảo vệ vững chắc đất nước. Vì vậy,
ngay từ thời kỳ phong kiến, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đã trở
thành kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kế sách “Dựng nước đi đôi với
giữ nước” đã trở thành nét văn hoá QS, QP độc đáo và là truyền thống quý báu của
dân tộc. Kế sách đó đòi hỏi sự chuẩn bị đất nước đánh giặc ngay từ thời bình; đồng


10
thời, khi chiến tranh xảy ra thực hiện vừa đánh giặc, vừa lao động sản xuất; thắng

giặc rồi thì lo xây dựng đất nước, lúc nào cũng phải sẵn sàng đối phó với mọi kẻ
thù, nhiệm vụ đánh giặc giữ nước gắn với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Thực chất,
đây là sự nhận thức về tính tất yếu của việc kết hợp KT với QP trên cơ sở nhận thức
mối quan hệ chặt chẽ giữa KT với chiến tranh, KT với QP: “Thực túc, bình cường”,
“Phú quốc, binh cường”; đất nước giàu mạnh là cơ sở vật chất tạo ra sức mạnh QP
đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù;
QP mạnh tạo ra môi trường hoà bình cho xây dựng, phát triển đất nước. Kế sách
“Dựng nước đi đôi với giữ nước” của ông cha ta trong thời kỳ phong kiến được
biểu hiện tập trung ở những nội dung sau:
Một là, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều kế sách giữ
nước sáng tạo, linh hoạt; thể hiện sự gắn kết chặt chẽ KT với QP, tiêu biểu là
kế sách “Ngụ binh ư nông” dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần và Lê Sơ;
“Lấy dân làm gốc”, dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường... “Ngụ binh ư
nông” là gửi một bộ phận quân vào nông dân, nông thôn, kết hợp quân với
dân cùng xây dựng quân đội, chỉ duy trì một số lượng quân thường trực hợp
lý. Kế sách “Ngụ binh ư nông” là sản phẩm của nhận thức coi trọng việc binh
với vai trò quan trọng của nông nghiệp nhằm bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa
phát triển KT và củng cố QP, giữa xây dựng LLVT thường trực với LLVT dự
bị. Khi Bàn về kế sách “Ngụ binh ư nông”, nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá:
“Chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh,
hết canh lại về quê làm ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn
nuôi lính, mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay” [63, tr.27]. Nhà
sử học Phan Huy Chú cũng đưa ra lời bình: “Đời xưa binh lấy nghề nông là
có ý phục việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện… Trong thành vua có quân Túc
vệ, đội ngũ đông nghiêm. Còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý nghĩa đời xưa, lúc
vô sự thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn
đủ mà không phải tiêu phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Cái chiến


11

công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống, cái oai hùng ba lần đánh bại quân
Nguyên cũng đủ cho biết binh lực hai đời cường thịnh là thế nào” [18, tr.8];
“Đời Lý… ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên
canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý…
binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương… Phép nuôi
binh đời Lê sơ đại để theo phép ngụ binh ư nông của các đời Lý, Trần, không
phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau, cứ theo phép đấy không đổi”
[18, tr.20]. Như vậy, có thể nói, kế sách “Ngụ binh ư nông” là một cơ chế
hoàn hảo về mặt động viên và sử dụng nguồn nhân lực trong việc xây dựng
LLVT phòng giữ đất nước, xây dựng tiềm lực QP mạnh trên cơ sở phát triển
KT với củng cố lực lượng QS. Nhờ cơ chế này đã tạo ra binh mạnh, lương
nhiều trong thời bình và khi thời chiến xảy ra, sẽ tao ra một lực lượng hùng
hậu toàn dân là lính, cả nước đánh giặc.
Hai là, các triều đại phong kiến luôn quan tâm đến việc xây dựng lực lượng,
khuyến khích việc di dân lên các vùng biên giới, hải đảo, thực hiện chính sách giãn
dân, khai hoang lập ấp ở các vùng biên ải để khai phá đất hoang, phân bố lại lực
lượng, tăng cường lực lượng tại chỗ, vừa làm giàu cho đất nước, vừa phục vụ cho
nhiệm vụ giữ nước, tạo ra thế trận đánh giặc từ xa và thực hiện gửi lực lượng, tích
trữ lương thực trong dân để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh bảo vệ biên cương
đất nước, như thực tiễn ông cha ta đã thực hiện đưa quân lính lên khai hoang lập ấp
ở vùng biên giới Quảng Yên, Lạng Sơn.
Ba là, nhiều triều đại phong kiến như: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ… rất
coi trọng mở mang hệ thống giao thông thuỷ, bộ như: kênh nhà Lê ở Thanh
Hoá và Nghệ An; kênh Vĩnh Tế ở Tây Nam Bộ… với mục đích vừa phục vụ
nhu cầu giao lưu phát triển KT, vừa đảm bảo QP, QS như: cơ động lực lượng,
phương tiện QS, vận tải tiếp tế, thông tin liên lạc khi chiến tranh xảy ra.
Bốn là, để chuẩn bị cho công cuộc giữ nước từ thời bình, các triều đại
phong kiến thường xuyên quan tâm đến phát triển nhiều ngành KT có tính



12
lưỡng dụng, tiêu biểu là các ngành thủ công nghiệp trong nước, nhất là các
ngành nghề có liên quan đến QP để vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đảm
bảo nhu cầu QP của đất nước.
Trên thực tế, từ thế kỷ XI, ở nước ta (Đại Việt) đã hình thành và phát triển
các xưởng thủ công của triều đình vừa sản xuất các sản phẩm mang tính chất KT
như sản xuất các sản phẩm dân sinh dùng trong hoàng gia, cung đình, vừa sản
xuất sản phẩm trực tiếp đảm bảo cho các nhu cầu QS như: đảm bảo nhu cầu xây
dựng LLVT, quân đội, thuyền chiến, vũ khí… Thời Lý đã sản xuất được thuyền
lớn đảm bảo cho thuỷ quân tác chiến trên sông lớn và biển gần; vũ khí hạng nặng
như máy bắn đá… Thời Trần đã sản xuất được “Thần cơ song pháo” là một loại
hoả pháo có uy lực mạnh. Thời Lê đã sản xuất ra các loại thuyền chiến, vũ khí rất
phong phú và có tác dụng chiến đấu rất cao… Các lò thủ công gia đình cũng được
quan tâm phát triển, thời bình tập trung sản xuất các sản phẩm dân sinh đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương; thời chiến sẵn sàng chuyển sang sản
xuất các sản phẩm đảm bảo nhu cầu QS như: khai mỏ, đúc đồng, rèn sắt, đóng
thuyền, sản xuất vũ khí… Đây là các cơ sở sản xuất cung cấp chủ yếu các loại vũ
khí cho các lực lượng dân binh, thổ binh và còn đảm bảo cung ứng, sửa chữa vũ
khí cho cả quân triều đình khi chiến tranh xảy ra. Những nội dung trên cho thấy,
các triều đại phong kiến nước ta đã quan tâm phát triển nhiều ngành KT có tính
lưỡng dụng, vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đáp ứng nhu cầu tăng cường khả
năng đảm bảo QP, AN của đất nước.
1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
1.1.2.1. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược
Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -



13
Lênin về mối quan hệ KT với chiến tranh, KT với QP, kế thừa truyền thống, kinh
nghiệm kết hợp KT với QP trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, sự
nhận thức về phát triển KT với đảm bảo QP ở Việt Nam luôn có những phát triển
mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, “Chỉ thị của Ban Chấp
hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945), xác định nhiệm vụ
cần kíp của cách mạng lúc này là “Phải củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp xâm lược, bại trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân” [26, tr.26-27].
Qua Chỉ thị cho thấy Đảng đã nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kháng chiến
và kiến quốc. Thực chất, đó là sự nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo phát
triển KT với đảm bảo QP của Đảng, Nhà nước trong điều kiện kháng chiến. Vấn
đề đảm bảo QP với phát triển KT thông qua hoạt động của quân đội trong thời gian
chuẩn bị cho kháng chiến cũng được Đảng nhận thức sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị
QS toàn quốc của Đảng (19/10/1946), đã xác định nhiệm vụ lao động sản xuất của
quân đội: “Những nơi bộ đội đóng, lấy đại đội hay trung đội độc lập làm đơn vị, bắt
buộc phải tham gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi” [26, tr.128-129]. Khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ra phạm vi cả nước, Đảng
ra Chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến” (22/12/1946). Chỉ thị xác định: Toàn dân
kháng chiến, kháng chiến khắp nơi; mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một
pháo đài; mỗi viên đạn diệt một quân thù; cướp súng giặc để bắn giặc… tăng gia
sản xuất để kháng chiến; giữ gạo muối nuôi quân; vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc… “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” là sự phát triển nhận thức của Đảng về
phát triển KT với đảm bảo QP.
Để tiếp tục thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết Hội nghị cán bộ
Trung ương của Đảng (từ ngày 3 đến 6/4/1947) đã xác định: “Tổ chức căn cứ
địa không những ở vùng rừng núi mà ở cả đồng bằng”; “Áp dụng chiến thuật
tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi”; “Phá KT địch bằng cách tẩy chay và
QS phá hoại”; “Tích cực xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến, vừa kiến



14
quốc, và lập nền kinh tế tự túc”; “Thực hành việc bộ đội tăng gia sản xuất”
[26, tr.180-181, 185]. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ III (15/6/1947), tiếp
tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ tăng gia sản xuất của quân
đội: “Các chính trị viên cần làm cho bộ đội hiểu rằng tăng gia sản xuất là một
nhiệm vụ quan trọng” [25, tr.172]; mặc dù trong thời kỳ này, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ chiến đấu là chủ yếu, nhưng quân đội đã quán triệt và nhận
thức sâu sắc nhiệm vụ sản xuất. Tiếp tục chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 3 năm
1951) xác định: Muốn kháng chiến trường kỳ, phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng
KT, tài chính, phải coi nhiệm vụ KT, tài chính là một nhiệm vụ rất quan trọng. Đây
chính là những phát triển mới trong nhận thức phù hợp với thực tiễn của Đảng ta về
mối quan hệ giữa KT với chiến tranh và QP; đồng thời, thể hiện sự nhất quán trong
thực hiện chủ trương kết hợp KT với QP ở nước ta trong giai đoạn này.
Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi,
nhân dân ta thực hiện công cuộc khôi phục KT đất nước sau gần 2 năm, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng),
ra Nghị quyết về kế hoạch nhà nước năm 1957. Nghị quyết xác định: “Trong
khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế, các ngành công tác còn phải kết hợp chặt chẽ
với nhiệm vụ củng cố các khu vực tự trị, nhiệm vụ củng cố quốc phòng,
nhiệm vụ đấu tranh chính trị để thực hiện thống nhất nước nhà” [27, tr.262].
Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ khôi
phục, phát triển KT gắn với đảm bảo QP trong thời kỳ mới.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, có thể thấy rằng,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), thể hiện sự nhận thức
hoàn chỉnh của Đảng về đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP xuyên suốt thời
kỳ này. Nghị quyết Đại hội xác định, cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại
có hai nhiệm vụ chiến lược: “Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở Miền Bắc.



15
Hai là, giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn toàn độc lập và dân chủ trong cả nước” [28,
tr.916]. Như vậy, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về kết hợp xây dựng
KT với củng cố QP trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược là thắng lợi của
việc Đảng đã tiếp tục phát triển đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” trong
kháng chiến chống thực dân Pháp thành đường lối kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng, phát triển KT với tăng cường, củng cố QP, tạo nên một hậu phương vững
chắc, rộng lớn khắp cả nước để tiến hành chiến tranh giải phóng thắng lợi.
1.1.2.2. Thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội đến khi tiến
hành công cuộc đổi mới
Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà được độc lập, thống nhất, cả
nước đi lên xây dựng CNXH, với kinh nghiệm thực tiễn 30 năm chiến tranh
giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định, vấn đề kết hợp KT với
QP là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của đường lối xây dựng
nền KT XHCN trên phạm vi cả nước. Đại hội chỉ rõ: “Phải kết hợp đúng đắn
kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước
đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta” [29, tr.58]. Đường lối đó chỉ ra, xây
dựng nền KT đất nước trong thời bình, phải đồng thời đáp ứng cùng một lúc
các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN; mở rộng quan hệ KT với
các nước, đảm bảo QP, AN thường xuyên vững chắc. Theo đó, vấn đề kết hợp
QP với KT trong hoạt động của quân đội tiếp tục có sự phát triển trong nhận
thức của Đảng, Nhà nước. Ngày 17 tháng 3 năm 1976, Bộ Chính trị khoá IV
đã ra Nghị quyết số 250-NQ/TW “Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng
kinh tế”. Nghị quyết đã xác định mục đích, nhiệm vụ KT và phương hướng
nhiệm vụ căn bản trong xây dựng KT của quân đội. Đây là mốc đánh dấu sự
chuyển biến kịp thời trong nhận thức của Đảng về kết hợp QP với KT trong điều
kiện mới, đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.



16
Tuy nhiên, khi mọi việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu phục vụ
nền KT đất nước sau chiến tranh, thì chúng ta phải đương đầu với những khó
khăn, phức tạp mới; trong đó nổi lên là hai cuộc chiến tranh xâm lược biên
giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của các thế lực thù địch. Trước tình hình
đó, Đại hội V của Đảng tiếp tục có nhận thức sâu sắc về kết hợp KT với QP:
“Kết hợp chặt chẽ KT với QP, QP với KT, từng bước phát triển kinh tế quốc
phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực KT của đất nước”.
Những năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ XX, đất nước vừa có hoà bình,
vừa xảy ra chiến tranh, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời
sống của nhân dân trở nên cấp bách. Để phát huy vai trò của quân đội, Bộ
Chính trị đã ra Nghị quyết bổ sung về nhiệm vụ quân đội làm KT trong 5 năm
(1981 - 1985). Theo đó, quân đội tập trung vào thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây
dựng cơ bản, hàng không dân dụng, hợp tác KT với Lào, Campuchia... đảm
bảo kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ QS với nhiệm vụ xây dựng KT; ưu tiên lựa
chọn các công việc có tính cấp bách, các công trình có giá trị KT lớn và có
quan hệ chặt chẽ giữa KT với QP, tính toán kỹ và quản lý chặt chẽ, từng bước
nâng cao hiệu quả KT, chống tham ô, lãng phí. Mặc dù từ đầu thập kỷ 80 đến
cuối năm 1986, tình hình KT - XH Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tình trạng
lạm phát gia tăng, Đảng, Nhà nước vẫn kiên trì đường lối xây dựng KT kết
hợp với củng cố QP, phát huy tốt nhất những kết quả xây dựng KT đảm bảo
cho QP. Theo đó, việc kết hợp KT với QP trong các hoạt động của quân đội
tiếp tục được duy trì, có những bước phát triển mới.
1.1.2.3. Thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế
Kế thừa và phát triển chủ trương chiến lược kết hợp KT với QP trong thời kỳ
mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra phương hướng cơ



17
bản và những nội dung lớn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc kết hợp KT với QP,
QP với KT theo phương hướng cơ bản, lâu dài; đồng thời, có dự kiến để kịp thời
điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo chiến thắng. Trên cơ sở đó,
Đại hội chỉ ra những nội dung cụ thể của việc kết hợp: “Kết hợp trong công tác quy
hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực lượng sản xuất; xây
dựng các ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển kinh tế địa phương phải nhằm tạo ra thế
bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng trong cả nước
và trong từng địa phương” [30, tr.67].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, việc phát triển
KT gắn với xây dựng nền QP càng được chú trọng hơn trong tình hình mới.
Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với
kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên
từng địa phương” [31, tr.85].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, diễn ra trong bối
cảnh chúng ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
Đại hội xác định, kết hợp KT với QP gắn liền với phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân, từng bước tăng cường tiềm lực QP và AN của đất nước. Đại hội
chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP trong việc quy hoạch và phát triển các
vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo
đảm QP - AN làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể” [32, tr.184].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục phát triển
đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP của Đại hội VIII và cụ thể hoá trong
những năm đầu của thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế
với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [33, tr.40]. Theo đó,
Nghị quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ QS Trung ương về:
“Nhiệm vụ sản xuất xây dựng KT của quân đội trong thời kỳ mới, tiếp tục sắp



18
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội”. Nghị
quyết số 21, 37, 39, 53 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về phát triển KT - XH và
đảm bảo QP, AN của 4 vùng (đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và
vùng KT trọng điểm phía Nam, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, trung
du và miền núi phía Bắc) và Nghị quyết 54 - NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát
triển KT - XH và đảm bảo QP, AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020. Những định hướng cơ bản đó đảm bảo về chính
trị và cơ sở khoa học cho giải quyết quan hệ phát triển KT gắn với QP - AN
trong từng khu vực.
Thực tiễn nêu trên đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển các khu KT - QP, xây dựng các khu QP - KT
với mục tiêu tăng cường QP, AN là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn chiến lược
và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo” [43, tr.110]. Đại
hội cũng chỉ ra: “Xây dựng CNQP trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự
chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo
hướng hiện đại, vừa phục vụ QP vừa phục vụ dân sinh” [34, tr.110].
Kết hợp KT với QP, AN vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là
giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức
thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu
mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra những
vấn đề cơ bản cần nắm vững về kết hợp KT với QP, AN trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán
và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
“Kết hợp chặt chẽ KT với QP - AN, QP - AN với KT trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT - XH và trên từng địa bàn” [35, tr.82].
Tiếp đó, chiến lược phát triển KT - XH 10 năm (2011 - 2020) chỉ rõ: “Gắn kết QP



19
với AN. Kết hợp chặt chẽ QP, AN với phát triển KT - XH trên từng địa bàn lãnh
thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án” [35, tr.138].
Trong báo cáo chính trị Đảng tiếp tục xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP,
AN; QP, AN với KT trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” [35, tr.234]. Qua đó, thể hiện
tính nhất quán, xuyên suốt thực hiện chủ trương kết hợp phát triển KT - XH gắn
với đảm bảo QP, AN trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta luôn coi đó vừa là đường
lối, quan điểm, vừa là giải pháp chiến lược; mỗi bước đổi mới, phát triển KT - XH
luôn gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần đảm bảo thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
1.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số quốc
gia trên thế giới
Jayawardena , trong công trình nghiên cứu “Một kết cấu khái niệm
nghiên cứu quốc phòng và phát triển kinh tế quốc gia”, [84] đã làm rõ: thứ
nhất, quan niệm hiện nay và cấu trúc lý luận của QP; thứ hai, xác định các
đặc điểm bối cảnh QP của Sri Lanka và thứ ba, phát triển cấu trúc khái niệm
để nghiên cứu quan hệ giữa QP và phát triển KT. Theo Dr MM Jayawardena,
phần lớn các nghiên cứu đã tập trung vào mối quan hệ giữa QP và tăng trưởng
KT hoặc các yếu tố liên quan của nó chứ không phải là phát triển KT; theo
Ông, Sandler và Hartely đã khảo sát và trình bày kết luận của nhiều nghiên
cứu về khía cạnh KT vĩ mô của QP với chủ để “Tăng trưởng KT, phát triển và
chi tiêu quân sự” nhưng hầu như chưa có bất kỳ một phân tích toàn diện nào
về QP và phát triển KT. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, một nghiên cứu tổng



20
quan về QP và phát triển KT mà tăng trưởng KT được đưa ra xem xét là yêu
cầu cần thiết. Nghiên cứu này về cơ bản sẽ mở ra những nghiên cứu nghiêm
túc cả về lý thuyết và thực nghiệm; trong bối cảnh này, kết luận rằng những lý
do chính cho những sai sót về tri thức chủ yếu là do thiếu những nghiên cứu
tổng quan toàn diện về QP và nền KT, hoặc phát triển KT sẽ cung cấp cơ sở
cho những nghiên cứu chuyên sâu mà có thể lấp khoảng trống trong kiến thức
về QP và phát triển KT.
Wolfgang-Peter Zingel với tác phẩm: “An ninh quốc gia và phát triển kinh
tế: phát triển an ninh - an ninh đang phát triển” [89] đã đi từ quan niệm phát
triển KT, các chỉ báo, chiến lược, sự hỗ trợ, tái cấu trúc và thay đổi; quan niệm
AN, những mối đe doạ, sự thống nhất và toàn vẹn quốc gia, sự can thiệp, AN và
lý thuyết KT, những rủi ro và sự thất bại của nhà nước trên các lĩnh vực như:
hàng hoá, dịch vụ, hạ tầng cơ sở, nhà ở, tài chính, tiền tệ, lao động, giáo dục, y tế
và các dịch vụ XH. Công trình nghiên cứu đã đưa ra các trường hợp can thiệp
của một số nước Nam và Đông Nam Á, chỉ ra những ảnh hưởng KT và XH của
sự can thiệp. Những ảnh hưởng KT của một sự can thiệp phụ thuộc vào: thứ
nhất, hoàn cảnh tại thời điểm can thiệp; thứ hai, loại can thiệp; thứ ba, bối cảnh
đi cùng với sự can thiệp và thứ tư, có thể được coi là quan trọng nhất, sự chấp
nhận can thiệp của nhân dân sở tại.
Trong công trình nghiên cứu của Adam Posen và Daniel K. Tarullo: “Báo
cáo của nhóm nghiên cứu về kinh tế và an ninh quốc gia” [80], các tác giả đã đi
vào làm sáng tỏ đâu là những đúng đắn và sai lầm trong tư duy hiện nay về KT
và AN quốc gia. Trong trường hợp nước Mỹ, toàn cầu hoá KT đã làm tăng cả
năng lực lẫn nguy cơ bị tổn thương của nước Mỹ. Khả năng của Mỹ hạn chế sự
dịch chuyển công nghệ và thương mại sang các nước khác bị suy giảm so với
vác thập kỷ trước; trong dài hạn sự hợp nhất và phát triển KT quốc tế sẽ nâng
cao AN quốc gia Mỹ. Một vài quan điểm sai lầm cho rằng AN KT và quốc gia



21
Mỹ bị đe doạ bởi sự tăng trưởng KT tương đối nhanh hơn ở các nơi khác trên thế
giới; hay toàn cầu hoá KT có nghĩa rằng các biện pháp trừng phạt KT và các áp
lực tương tự được Mỹ áp dụng sẽ có hiệu quả hơn. Trên cơ sở phân tích đó, công
trình nghiên cứu cũng chỉ ra những thách thức chủ yếu hiện nay đối với nước
Mỹ từ góc độ phát triển KT và AN quốc gia và các nguyên tắc chủ yếu để ứng
phó là sự tích hợp chính sách KT và AN quốc gia, trong đó chính sách KT trong
nước phải được thay đổi.
Cuốn sách “Kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd and Hartley Keith
[87] đã đề cập tới các nội dung: Dưới cách tiếp cận KT, QP được coi là một
loại hàng hoá công, hàng hoá công gắn với sự thất bại của thị trường, do
không có khả năng loại trừ việc sử dụng hàng hoá này nên nó không khuyến
khích thị trường sản xuất và cung cấp, trong khi cũng do không có tính cạnh
tranh nên nó cũng không có lý do hạn chế người sử dụng (nói cách khác, chi
phí cận biên cho người sử dụng là bằng không); nói một cách đơn giản, hàng
hoá công không thể đóng gói và bán trên thị trường. Sự thất bại của thị
trường sẽ dẫn đến các ngoại ứng và cần có sự can thiệp của nhà nước. Công
trình nghiên cứu còn nhấn mạnh rằng: Khi xây dựng một lý thuyết để hiển
thị mối quan hệ giữa QP trong phát triển, nhà nghiên cứu cần phải tính toán
những tác động về mặt cung (chẳng hạn lợi ích phát sinh thêm về mặt công
nghệ, ngoại ứng tích cực) và các yếu tố về mặt cầu (ví dụ tác động chèn ép
đầu tư hoặc xuất khẩu). Một mô hình đầy đủ có thể được đặc trưng bởi mối
quan hệ phức tạp giữa lĩnh vực QP và phần còn lại của nền KT. Trên cơ sở
đó, cuốn sách đã đi vào phân tích nhu cầu QP, việc chạy đua vũ trang, chính
sách liên minh, công nghiệp, thương mại QP… KTQP không chỉ hướng tới
chi tiêu quân sự và các cuộc đối đầu có vũ trang mà chúng còn là lợi ích
được hiểu là động lực của chi tiêu vũ trang, xung đột và các khía cạnh KT
liên quan của lĩnh vực quân sự. Sự hiểu biết đúng đắn về những động lực này



22
chắc chắn sẽ thúc đẩy các biện pháp kiểm soát việc sản sinh các loại vũ khí và sự
bất ổn của xung đột, từ đó đóng góp cho phúc lợi và tương lại của nhân loại.
Trong cuốn “Sách tra cứu về kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd và
Hartley Keith [88], các ông đã đi sâu vào ba vấn đề lớn: thứ nhất, chi tiêu
quân sự trên thế giới nhằm giải quyết các vấn đề xung đột, khủng bố, liên
minh quân sự và chạy đua vũ trang, thứ hai, phân tích chi tiêu QP và tăng
trưởng KT; khảo sát chi tiêu quân sự ở các nước đang phát triển, đi sâu phân
tích các mặt cụ thể của KTQP như: các mô hình khuyến khích quá trình cung
ứng QP, các vấn đề KT của nguồn nhân lực quân sự, cơ sở công nghiệp QP,
KTQP dưới giác độ nghiên cứu và phát triển, chính sách công nghiệp trong
lĩnh vực QP, tác động đến khu vực của chi tiêu QP; thứ ba, nhìn nhận QP và
KTQP trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó đi vào các nội dung cụ thể như tổng
quan vấn đề KT của xung đột, vấn đề KT chính trị của gìn giữ hoà bình, chủ
nghĩa khủng bố tiếp cận từ lý thuyết trò chơi và phân tích thực chứng; KT
chính trị của các biện pháp trừng phạt KT; các vấn đề KT của chạy đua vũ
trang; thương mại, công nghiệp QP và một khảo sát về nền KT hoà bình.
Intriligator trong bài viết, “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng” [83] cho rằng: KTQP được xem xét như là một bộ phận của nền KT
gắn liền với những vấn đề liên quan đến QP, bao gồm mức độ chi tiêu QP, cả
trong tổng thể và trong bộ phần của toàn bộ nền KT; tác động của chi tiêu QP
tới sản phẩm và lao động ở cả trong nước và tác động tới các nước khác trên
trường quốc tế; các lý do cho sự tồn tại và quy mô của lĩnh vực QP; quan hệ
của chi tiêu QP tới sự thay đổi công nghệ, các hạng mục chi tiêu QP và quan
hệ giữa lĩnh vực QP với sự ổn định hoặc bất ổn định quốc tế.
Reppy Judith trong bài viết: “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng: một bình luận” [85] đã xác định bản chất và phạm vi của KTQP trên cơ sở
hợp nhất quan niệm của Intriligator nhưng tập trung vào các đặc điểm về mặt thể



23
chế duy nhất của hệ thống QP và Ông cho rằng, KTQP có thể mở rộng hơn tới
mức bao gồm cả các yếu tố phi quân sự trong định nghĩa về AN quốc gia. (ví dụ
bảo vệ môi trường). Nhiều ý kiến đồng ý với Reppy rằng, các đặc điểm về mặt thể
chế duy nhất là thích hợp để hiểu KTQP. Chẳng hạn, các hợp đồng cộng thêm phí
sẽ tạo nên ý nghĩa hơn khi ai đó nhận ra rằng người mua (ví dụ BQP) có thể sẽ cân
nhắc lại lựa chọn thay đổi thông số của một hệ thống vũ khí được đề xuất vào thời
điểm cuối cùng. Một hợp đồng cộng thêm phí sẽ chuyển rủi ro của việc thay đổi
tiêu chuẩn kỹ thuật từ người cung cấp sang người mua.
1.2.2. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam
1.2.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số khu
vực, tỉnh, thành phố trên cả nước
Cho tới nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Có thể nói, đây là
những công trình nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho chủ trương
phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước ta:
Trần Xuân Trường và Nguyễn Anh Bắc, trong cuốn Vấn đề kết hợp
kinh tế với quốc phòng ở nước ta [77] đã khẳng định, vấn đề kết hợp KT với
QP là một nội dung của đường lối xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc ở nước
ta, một quy luật phổ biến với mọi nước XHCN. Từ khẳng định đó, các tác giả
đã phân tích, luận chứng làm rõ mối quan hệ, vai trò ngày càng tăng của nhân
tố KT với chiến tranh và QP; đồng thời, làm rõ tính quy luật; yêu cầu, phương
thức, đặc điểm, mức độ, trình độ, nội dung kết hợp KT với QP ở nước ta. Tác
giả còn chỉ ra, để KT và QP gắn bó khăng khít với nhau đến mức như là một,
phải có sự am hiểu, thống nhất hành động của cán bộ, đảng viên và toàn thể
nhân dân; có một hệ thống tổ chức lãnh đạo, quản lý thống nhất dựa trên một
hệ thống pháp luật đầy đủ; có cơ quan tham mưu và cán bộ tham mưu giỏi.



24
Trần Thái Bình trong bài “Quan hệ giữa kinh tế và QP - AN trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [8] đã xác định: Quan hệ giữa KT và QP,
AN là mối quan hệ cơ bản, được hình thành từ trong quá trình dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Ngày nay, mối quan hệ này có vị trí đặc biệt quan trọng,
nhất là trong bối cảnh nước ta đang xây dựng, phát triển nền KT thị trường
định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Vì vậy,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa KT và QP, AN là đòi hỏi tất yếu khách quan
trong suốt quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hết sức coi trọng
việc thực hiện tốt mối quan hệ này và đã thu được những kết quả quan trọng,
tương đối toàn diện, cả về nhận thức, tổ chức thực hiện. Bên cạnh kết quả đã
đạt được, nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa KT với QP, AN
còn hạn chế ở một số vấn đề. Để nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa KT
với QP, AN đáp ứng yêu cầu hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu đó là: nâng cao nhận thức cho
cán bộ các cấp, các ngành về mối quan hệ giữa KT với QP, AN; nâng cao hiệu
quả vận hành cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa KT với QP,
AN; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có liên quan đến
mối quan hệ giữa KT với QP, AN; coi trọng kết hợp phát triển KT với củng cố
QP, AN trong hoạt động KT đối ngoại. Tuy nhiên, bài viết chưa có điều kiện
đi vào nghiên cứu mối quan hệ giữa KT với QP, AN; các lĩnh vực đặc thù hay
ở từng khu vực cụ thể.
Tác giả Trần Trung Tín, luận án tiến sĩ kinh tế “kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở nước ta hiện nay” [66] đã góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận kết hợp
KT với QP trong thời kỳ mới ở Việt Nam; làm rõ mối quan hệ giữa phát triển
KT với củng cố QP, từ đó xác định quan điểm mang ý nghĩa chỉ đạo và đề ra



25
những biện pháp kết hợp KT với QP một cách hiệu quả. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp mang tính định hướng ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, luận án chưa
đi sâu nghiên cứu về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên từng
địa bàn cụ thể.
Giáo trình giáo dục QP dùng cho bồi dưỡng kiến thức QP, AN đối
tượng 1, Kết hợp phát triển KT - XH gắn với tăng cường QP, AN trong quá
trình CNH, HĐH đất nước [16] đã chỉ rõ, sự phát triển KT - XH gắn với QP,
AN đã trải qua một quá trình nhận thức lâu dài. Nhưng do điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử, chúng ta chỉ hiểu nó trong mối quan hệ kết hợp giữa hai lĩnh vực
KT với QP và QP với KT. Hiện nay, mối quan hệ kết hợp không chỉ dừng lại
ở hai lĩnh vực trên mà còn được đan xen, mở rộng giữa KT với XH và QP với
AN. Bản chất của sự kết hợp phát triển KT - XH gắn với QP, AN ở nước ta
trong thời kỳ mới được hiểu là sự gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực
KT - XH với QP, AN thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước và từng
địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Tác giả Phạm Đức Nhuấn, luận án tiến sĩ kinh tế, “Xây dựng tiềm lực kinh tế
quân sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”[62] đã đề cập tới việc xây dựng tiềm
lực KT quân sự Việt Nam luôn gắn với tiềm lực KT, tiềm lực khoa học kỹ thuật của
XH; tiền lực KT quân sự là cơ sở nền tảng cho KT - XH. Sự phát triển về KT quân
sự có ý nghĩa trực tiếp cho sự phát triển QP, AN và xét trên một phương diện khác,
nó là động lực cho sự phát triển trên các mặt của đời sống XH. Theo góc độ nghiên
cứu khác, tác giả đã tiếp cận hàm lượng chất xám, hàm lượng khoa học trong sự
phát triển các thành tố KT và QP, AN. Sự phát triển các yếu tố KT đều nằm trong
một bức tranh tổng thể, hữu cơ của sự tương tác các mặt, các thành tố QP, AN; ở đó,
đã xuất hiện những dấu hiệu bản chất của quan hệ KT với QP, AN.
Kết hợp chặt chẽ KT với QP đã có nhiều bài viết như: “Xây dựng tiềm
lực QP, AN trong chiến lược phát triển KT - XH” của Bùi Phan Kỳ [50]; “Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với vấn đề mối quan hệ KT với QP, AN trong



×