Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Nhìn lại bi kịch trong cuộc đời hoạn lộ của một số trí thức nho học thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX (khảo sát qua ba tác giả nguyễn du, nguyễn công trứ, cao bá quát)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.37 KB, 66 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------------------

ĐỖ THỊ MINH THU

NHÌN LẠI BI KỊCH
TRONG CUỘC ĐỜI “HOẠN LỘ”
CỦA MỘT SỐ TRÍ THỨC NHO HỌC
THẾ KỈ XVIII - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
(Khảo sát qua ba tác giả: Nguyễn Du, Nguyễn Cơng Trứ, Cao Bá Qt)

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận đƣợc hồn thành dƣới sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các
thầy cơ trong Khoa Ngữ Văn, tổ Văn học Việt Nam và đặc biệt là Thạc sĩ
Nguyễn Thị Việt Hằng - ngƣời hƣớng dẫn trực tiếp. Tác giả khóa luận xin
đƣợc bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô.
Bƣớc đầu nghiên cứu khoa học, khóa luận khơng tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo, góp ý của thầy cơ và bạn đọc.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Đỗ Thị Minh Thu




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Nhìn lại bi kịch trong cuộc đời “hoạn lộ”
của một số trí thức Nho học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX” (khảo sát qua
ba tác giả: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát) là kết quả nghiên
cứu của riêng tơi. Khóa luận khơng sao chép từ bất kỳ tài liệu, cơng trình có
sẵn nào. Nội dung khóa luận chƣa từng đƣợc cơng bố. Nếu sai tơi xin hồn
tồn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả khóa luận
Đỗ Thị Minh Thu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................................. 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 7
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 8
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8
7. Đóng góp của khóa luận ....................................................................................... 8
8. Cấu trúc khóa luận................................................................................................. 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1...................................................................................................... 9
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................................... 9
1.1. Thuật ngữ ............................................................................................................ 9
1.2. Thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX - một giai đoạn lịch sử biến
động ............................................................................................................................ 9

1.3. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và Cao
Bá Quát .....................................................................................................................13
1.3.1. Nguyễn Du ..................................................................................... 13
1.3.2. Nguyễn Công Trứ .......................................................................... 16
1.3.3. Cao Bá Quát ................................................................................. 19
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 22
NHỮNG SẮC THÁI BI KỊCH TRONG CUỘC ĐỜI “HOẠN LỘ”
CỦA NGUYỄN DU, NGUYỄN CÔNG TRỨ, CAO BÁ QUÁT............... 22
2.1. Nguyễn Du - „„hoạn lộ hanh thông‟‟ và tâm hồn u uẩn................................22
2.2. Nguyễn Công Trứ - "hoạn lộ thăng trầm" và tiếng thở dài cuối đƣờng
…. ........................................................................................................ 35
2.3. Cao Bá Quát - “hoạn lộ gập ghềnh” và nỗi niềm kẻ sĩ không gặp thời ......46
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XVIII đến nửa đầu XIX là giai đoạn biến động kinh hoàng của
lịch sử. Trong một thời gian ngắn các triều đại phong kiến liên tục thay thế
nhau, chiến tranh liên miên, lịng ngƣời phân tán, cuộc sống của nhân dân vơ
cùng cực khổ. Trong sự khủng hoảng của thời đại, các trí thức nho học là đối
tƣợng chịu ảnh hƣởng sâu sắc nhất trƣớc sự khủng hoảng trầm trọng của thời
đại. Có thể nói, mỗi ngƣời trong số họ đều ít nhiều nếm trải bi kịch trên con
đƣờng lập thân duy nhất mà xã hội phong kiến vạch ra. Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát không phải là một ngoại lệ.
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng nhƣ hầu hết các trí
thức Nho học đƣơng thời đều chọn thơ ca là nơi gửi gắm tâm tình và ghi lại các
sự kiện trong cuộc đời. Thông qua các sáng tác của họ, ngƣời đọc có thể hình
dung khá trọn vẹn những nỗi niềm, thậm chí ngay cả những sợi dây cảm xúc

tinh tế nhất. Tìm hiểu thơ ca của ba tác giả sẽ là con đƣờng gần nhất để tiếp cận
những tâm sự bi kịch mà họ gửi gắm trong tác phẩm của mình.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới bi kịch của Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát trong cuộc đời làm quan của họ. Các ý kiến tƣơng đối
thống nhất ở khía cạnh cho rằng, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát
đều không có lựa chọn nào khác ngồi việc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”. Trên con đƣờng ấy họ đều vấp phải những bi kịch. Khóa luận đi vào nhìn
nhận bi kịch của ba tác giả với ý nghĩa “nhìn lại” từ góc độ cuộc đời và sáng
tác thơ ca của họ.
Là một sinh viên học chuyên sâu về văn học, tƣơng lai sẽ là ngƣời
nghiên cứu chuyên nghiệp, tác giả khóa luận lựa chọn đề tài: “Nhìn lại bi kịch
trong cuộc đời “hoạn lộ” của một số trí thức Nho học thế kỉ XVIII - nửa đầu

1


thế kỉ XIX (khảo sát qua ba tác giả: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát) sẽ giúp cho công việc hiện tại và tƣơng lai của tác giả.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát là những nhân vật lịch sử.
Cuộc đời, tƣ tƣởng thơ văn của ba tác gia này vẫn còn gây nhiều tranh luận
sôi nổi trong nhiều thế hệ nghiên cứu. Khảo sát những cơng trình nghiên cứu
chúng tơi thấy vấn đề bi kịch trong cuộc đời “hoạn lộ” của một số trí thức
Nho học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX xuất hiện một số tiểu luận trên các
tạp chí, trong lời giới thiệu và các cơng trình văn học sử.
Về tác giả Nguyễn Du, nhà nghiên cứu Đào Duy Anh trong Khảo luận
về Kim Vân Kiều (Quan Hải tùng thƣ, Huế, 1943) cho rằng: “qua hai tập thơ
có thể thấy lịng trung trinh là phần chủ yếu trong tâm tính Nguyễn Du… Cái
lịng ấy, đến lúc chết ông vẫn rất mực trung thành với nhà Lê vua Lê… Thái
độ bất đắc chí của nhà thơ khi làm quan dƣới triều Nguyễn cũng đƣợc ơng

giải thích là bởi nhà thơ luôn mang tâm sự day dứt của kẻ bề tơi phải thờ hai
chúa”.
Nhà phê bình Hồi Thanh trong bài viết Tâm tình của Nguyễn Du qua
một số bài thơ chữ Hán đăng trên Tạp chí Văn nghệ, tháng 3 năm 1960 cũng
chú ý lí giải thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại đƣơng thời. Ông cho
rằng: “Nguyễn Du quả có nhớ tiếc nhà Lê nhƣng nhà thơ nhận rõ vận nhà Lê
đã hết rồi cho nên thật thà đi theo nhà Nguyễn, theo nhà Nguyễn nhƣng vẫn
nhớ tiếc nhà Lê và dƣờng nhƣ có khi nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa”. Tóm lại, theo
Hồi Thanh, thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại là không rõ ràng
nhƣng điều rất rõ ràng là ơng khơng bằng lịng với tồn bộ cuộc đời lúc bấy
giờ. Khơng bằng lịng cho nên nhà thơ khinh bỉ vô cùng những kẻ chỉ nuôi cái
mộng làm quan và thƣơng vô cùng những cảnh đời cơ cực.

2


Năm 1965, trong phần giới thiệu cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhà
nghiên cứu Trƣơng Chính đã đƣa ra những nhận định khác với nhà nghiên
cứu Đào Duy Anh. Trƣơng Chính khơng phủ nhận thái độ trung với nhà Lê
của Nguyễn Du song theo ông khi ra làm quan với nhà Nguyễn, nhà thơ chỉ
nhớ tiếc nhà Lê nhƣ một nỗi niềm hồi cổ chứ khơng phải ơm mối “cơ trung”.
Ơng cho rằng cái bất đắc chí của Nguyễn Du trong những năm làm quan là do
hiện thực cuộc sống dƣới triều Nguyễn đem lại và tâm sự của Nguyễn Du
trong hai tập thơ này khơng nằm ngồi nỗi nhớ nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về
yên nghỉ, cho đời là một cuộc bể dâu, ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những
ngƣời hèn hạ cầu phú quý công danh…
Tháng 11 năm 1965, tác giả Đào Xuân Quý trong bài viết Nguyễn Du
trong những bài thơ chữ Hán đăng trên báo Văn nghệ cũng có ý kiến bàn về
vấn đề này. Tác giả cho rằng, vấn đề chính của Nguyễn Du không phải là ở
thái độ của nhà thơ đối với các triều đại mà chính là ở chỗ thái độ của Nguyễn

Du đối với toàn bộ cuộc sống đƣơng thời; ở đâu cũng thấy Nguyễn Du khơng
bằng lịng với cuộc sống hiện tại, u uẩn với những nỗi băn khoăn lo lắng của
chính mình. Tâm trạng ấy cho đến những ngày nhà thơ đi sứ ở Trung Quốc
mới thấy thay đổi; nhà thơ phát biểu về nhiều vấn đề, suy nghĩ tỏ ra sắc sảo,
sâu xa và nhiều khi táo bạo nữa.
Trong chuyên luận Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ơng trong thơ
chữ Hán (Tạp chí văn học, tháng 11 năm 1966), nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ
Chi đã đƣa ra những ý kiến khái quát và xác đáng: “Đằng sau hình ảnh Nguyễn
Du với cõi lịng ủ ê tê tái, với cá tính rõ mồn một, một Nguyễn Du nghìn lần
hiện thực hơn cái con ngƣời chỉ biết vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện trƣớc mặt
Gia Long mà sử sách từng ghi lại, ta thấy một điều gì lớn hơn nữa; ấy là những
suy nghĩ nung đúc của nhà thơ về con ngƣời, về xã hội, là cái nhìn phanh phui
đến đáy những nhân cách lịch sử, cũng là sự chiêm nghiệm sâu kín và đầy trắc

3


ẩn về những bạo động của thời cuộc diễn ra trƣớc mắt ông. Ở những thi phẩm
này, Nguyễn Du đã đặt vấn đề trực tiếp về số phận mình, gắn liền với vận
mệnh chúng sinh trong nhiều thời đại, nhất là thời đại ông đang sống”.
Tác giả Hà Minh Đức trong bài viết Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Đến
với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh niên, 2000) về cơ bản cũng đƣa ra
quan điểm tƣơng đồng với các tác giả nhƣ Hồi Thanh, Trƣơng Chính,
Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Lộc khi cho rằng: “điều quan trọng trong tâm hồn
Nguyễn Du, trong thơ chữ Hán của ông không nằm ở thái độ của Nguyễn Du
đối với các triều đại lịch sử mà ở tâm trạng, cái nhìn của ơng đối với cuộc đời.
Cho nên cái phần trong sáng và đáng trân trọng nhất trong những bài thơ chữ
Hán chính là những yêu ghét của nhà thơ – dấu hiệu riêng của những nghệ sĩ
lớn; bởi lẽ ở vào thời đại Nguyễn Du biết yêu ghét không phải là chuyện dễ”.
Trong Lời nói đầu của bộ sách Nguyễn Du tồn tập (Trung tâm nghiên

cứu Quốc học và Nxb Văn học ấn hành năm 1996), Giáo sƣ Mai Quốc Liên
cũng nhận định: “nỗi buồn và sự thất vọng của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán
không phải chỉ là cái buồn của thân thế, nó cịn là cái buồn trƣớc đất nƣớc và
thời cuộc; ấy là cái buồn chứa đầy những ý tƣởng lớn…”.
Về tác giả Nguyễn Cơng Trứ, năm 1998, Trần Đình Sử với nghiên cứu
Con người cá nhân công danh, hưởng lạc ngồi khn khổ trong thơ văn
Nguyễn Cơng Trứ (1778 – 1858) và Cao Bá Quát (1809 – 1854) đã tìm hiểu
về con ngƣời cá nhân trong thơ của Nguyễn Cơng Trứ. Qua q trình phân
tích, tác giả đi đến khẳng định con ngƣời cá nhân trong Nguyễn Công Trứ
đƣợc biết đến với ba phạm trù “công danh, cá nhân, hƣởng lạc và cái ta hơn
ngƣời”.
Đến năm 1999, Trần Ngọc Vƣơng trong Nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam cũng có bài nghiên cứu về con ngƣời Nguyễn Cơng Trứ. Ở đây, tác giả
đã lý giải về “chí nam nhi”, “đầu đội trời chân đạp đất” của nhà thơ.

4


Năm 2003, Trần Nho Thìn trong cuốn Nguyễn Cơng Trứ về tác gia tác
phẩm đã tập hợp tất cả những bài nghiên cứu về cuộc đời cũng nhƣ sự nghiệp
thơ văn của Nguyễn Công Trứ. Cuốn sách gồm hai phần: phần 1 gồm một số
tƣ liệu về lịch sử liên quan đến Nguyễn Công Trứ, phần 2 là những công trình
nghiên cứu tiêu biểu qua các thời kì của nhiều thế hệ các nhà khoa học.
Chúng tôi xin dẫn ở đây một ví dụ tiêu biểu. Trong bài viết Tâm lý và tư
tưởng Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bách Khoa đã có cách lý giải rất hay và sâu
sắc những yếu tố liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Nguyễn Cơng
Trứ. Trong đó ơng đặt vấn đề lý giải về chí nam nhi, về cái nghèo và quan
niệm hành lạc qua thơ văn nhà thơ. Cuối cùng, đứng trên quan điểm duy vật
biện chứng ông đƣa ra bốn định luật về Nguyễn Công Trứ và khẳng định “tâm
lý và tƣ tƣởng cũng nhƣ văn thơ của Nguyễn Công Trứ là những sản vật

phong kiến…”.
Năm 2007, trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam (tập2) do Nguyễn
Đăng Na chủ biên, các tác giả cơng trình cho rằng: “tiếng nói chí nam nhi là
chủ đề lớn nhất tập trung xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ thuở
hàn vi và thời làm quan bất đắc chí”.
Nguyễn Lộc nhận xét con đƣờng công danh lận đận Nguyễn Công Trứ:
“… tƣ tƣởng công danh ở Nguyễn Công Trứ cuối cùng thất bại, nhà thơ bất
mãn với xã hội đã lao vào ăn chơi ngông nghênh, khinh bạc…”[ 15, tr.650].
Tuy rằng nhận xét hơi phiến diện nhƣng phần nào đó gợi lên con đƣờng công
danh Nguyễn Công Trứ.
Về tác giả Cao Bá Qt, Nguyễn Huệ Chi khi Tìm hiểu nhân sinh quan
tích cực trong thơ Cao Bá Quát, 1961 cho rằng: “Thật không phải là quá đáng
khi nhận định thơ văn Cao Bá Quát là tiếng nói xuất phát từ con tim. Thành
thật trong cuộc đời, thành thật trong thơ văn, cho nên ơng đã ghi đƣợc những
cảm xúc cực kì sâu sắc, từa hồ ngƣời khác khơng thể nào có đƣợc. Cao là

5


ngƣời biết ghét, biết yêu đúng mực, biết kiêu ngạo với những kẻ mà ông
khinh thị mà cũng biết cảm thông với những con ngƣời lao khổ thấp cổ bé
họng”.
Tố Hữu trong bài Cao Bá Quát - Một khí phách hào hùng - Một nhà
thơ lỗi lạc của dân tộc nhận xét: “Đọc thơ Cao bá Quát càng thấy ông không
những là một thi tài lỗi lạc vƣợt trội trên văn đàn mà càng cảm phục một nhân
cách lớn, một tinh thần cao thƣợng, một phí phách ngoan cƣờng...”.
Trong cuốn Về con người cá nhân trong văn học Việt Nam, Nxb Giáo
dục, 1997 tác giả Trần Đình Sử nhấn mạnh: “Nhìn chung thơ văn ơng thể hiện
con ngƣời của ơng một cá nhân mạnh mẽ ngang tàng, sống ngồi thói tục, ơng
tài cao nhƣng chí khơng ở cơng danh, dám làm điều cấm kị”.

Trong cơng trình Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Xuân Diệu lý giải vấn
đề chí khí và tâm huyết trong thơ văn Cao Bá Quát: “Chí khí là sức mạnh yêu
mến bên trong muốn tỏa tung ra to lớn; khi chí khí ấy khơng thi thố đƣợc thì
đọng lại thành tâm huyết trong hồn thơ kia”.
Nguyễn Hữu Sơn qua bài viết Cao Bá Quát và những suy tưởng trong
thơ (tạp chí Nghiên cứu văn học số 2 - 2005) đã cho ngƣời đọc nhận ra một
Cao Bá Quát trong một dáng vẻ khác, dáng vẻ của một con ngƣời với bao câu
hỏi có ý nghĩa chiều sâu suy tƣởng, với bao chất chứa đầy vơi nhƣ lời nhà
nghiên cứu đã nhận định: “Thơ văn Cao Bá Quát chất nặng suy tƣ, suy tƣởng
và những trăn trở về cuộc sống, về cõi nhân gian, về kiếp con ngƣời. Ơng
đam mê và nhạy cảm, đề tài thơ ơng sâu sắc và rộng lớn. Đi bất cứ đâu, gặp
bất cứ việc gì ơng cũng có những tứ thơ lạ. Ông quan sát chiêm nghiệm và
phát hiện đƣợc những điều thật thú vị mà thƣờng nhân không mấy ai chú ý.
Ơng làm thơ trên đƣờng đi thi, nhìn ra cửa bể mà liên tƣởng con đƣờng công
danh, đi trên bãi cát mà nghiệm sinh số kiếp con ngƣời, gặp cơn mƣa ông liên
tƣởng tới cuộc thay đổi và ƣớc ao những năm tháng thanh bình...”.

6


Những cơng trình trên, nhìn chung chƣa đi vào khảo sát một cách đầy
đủ, chi tiết và hệ thống chung về bi kịch trong cuộc đời “hoạn lộ” của ba tác
giả: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao bá Quát. Những nhận định, đánh giá
trên đã gợi mở cho chúng tôi nhiều hƣớng tiếp cận, để có thể lĩnh hội và vận
dụng vào đề tài của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả khóa luận hƣớng tới các mục đích chính sau:
Tìm hiểu những nét chính về bối cảnh lịch sử giai đoạn thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX nhằm lí giải cơ sở xã hội dẫn đến những bi kịch trong
cuộc đời hoạn lộ của ba trí thức Nho học: Nguyễn Du, Nguyễn Cơng Trứ,
Cao Bá Quát.

Điểm qua những mốc chính trong tiểu sử cùng quá trình sáng tác của ba
nhà nho để thấy đƣợc mối liên hệ hữu cơ giữa tâm trạng của họ với sự biểu
hiện trong sáng tác thơ ca của họ.
Đi sâu khám phá những sáng tác thơ ca chữ Hán của Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát nhằm phác họa thế giới bi kịch trong cuộc
đời “hoạn lộ” của họ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu nói trên, khóa luận đặt ra
những nhiệm vụ cụ thể, tƣơng ứng là:
Từ cái nhìn hiện đại trở về quá khứ, cụ thể là giai đoạn xã hội phong
kiến Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX.
Tái hiện lại cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát.
Phân tích những sáng tác thơ ca chữ Hán tiêu biểu để chỉ ra sắc thái bi
kịch trong cuộc đời “hoạn lộ” của ba tác giả: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát.

7


5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng khám phá của đề tài khóa luận là thơ ca của Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát trong phạm vi vấn đề bi kịch trên cuộc đời
“hoạn lộ” của họ.
Khóa luận cũng mở rộng, liên hệ, so sánh với các tác giả khác trong
phạm trù văn học Việt Nam trung đại.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau đây:
Phƣơng pháp lịch sử

Phƣơng pháp hệ thống
Cùng các thao tác: phân tích, miêu tả, giảng bình…
7. Đóng góp của khóa luận
Về khoa học: thấy đƣợc nỗi niềm, tâm sự mang tính bi kịch của ba tác
giả Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát qua thơ chữ Hán.
Về thực tiễn: góp phần nghiên cứu, giảng dạy, học tập các tác phẩm
văn chƣơng nói chung, nhất là văn chƣơng chữ Hán của các tác giả tiêu biểu
trong nền văn học Việt Nam trung đại (đặc biệt là ba nhà thơ Nguyễn Du,
Nguyễn Cơng Trứ, Cao Bá Qt - đối tƣợng tìm hiểu của đề tài).
8. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận đƣợc bố cục nhƣ sau:
Mở đầu
Nội dung
Chƣơng 1. Những vấn đề chung
Chƣơng 2. Những sắc thái bi kịch trong cuộc đời “hoạn lộ” của Nguyễn
Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thuật ngữ
Thuật ngữ “hoạn lộ” đƣợc sử dụng để chỉ con đƣờng làm quan của các
trí thức Nho học thời xƣa.
Theo nghĩa chiết tự “hoạn” nghĩa là làm quan, làm kẻ tôi tớ, hầu hạ,
“lộ” nghĩa là con đƣờng, đƣờng đi.

Có rất nhiều cách hiểu về “hoạn lộ”, ở đây ngƣời viết trình bày cách
hiểu nhƣ sau: Từ điển Tiếng Việt “hoạn” nghĩa là quan lại, “lộ” có nghĩa là
con đƣờng [12, tr.709]. Theo đó thuật ngữ “hoạn lộ” có nghĩa là con đƣờng
cơng danh của quan lại thời phong kiến.
Thuở xƣa các bậc Nho sĩ đều đi theo con đƣờng mà Nho giáo đặt ra:
“tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ”, nơm na là “Học hành - thi cử - đỗ
đạt và ra làm quan”, con đƣờng thi đỗ và làm quan đƣợc gọi chung là con
đƣờng khoa hoạn. Trên con đƣờng ấy có những ngƣời thì hanh thơng, ngƣợc
lại có ngƣời lại trầy trƣợt, bi kịch mãi. Cuộc đời “hoạn lộ” của trí thức nho
học có những màu sắc riêng thậm chí đó là những thăng trầm và nỗi niềm
riêng, nói đến “hoạn lộ” là nói đến quá trình làm quan ấy của họ.
1.2. Thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX - một giai đoạn lịch sử biến
động
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Đàng Ngoài rồi lan rộng ra cả nƣớc.
Chiến tranh phong kiến kéo dài khiến cho nơng nghiêp đình đốn, ruộng đất
phần lớn tập trung trong tay bọn quan lại địa chủ. Tô thuế rất nặng nề, mất
mùa, đói kém xảy ra liên tiếp. Nhu cầu chi tiêu tăng lên, nhân dân không thể
nộp thuế, đành phải bỏ làng xiêu tán. Làng xóm trở nên điêu tàn, sức sản xuất

9


bị tàn phá. Ngƣời nông dân tha phƣơng cầu thực khắp nơi, nhiều ngƣời chết
đói, chết bệnh trên đƣờng. Ở Đàng Ngồi, hình thành chế độ “vua Lê chúa
Trịnh”, vua Lê chỉ ngồi làm vì, tất cả quyền hành tập trung vào phủ chúa,
chuyên quyền, độc đoán. Các chúa Trịnh thƣờng lo việc ăn chơi và xây dựng
chùa chiền nhiều hơn là lo việc trị nƣớc. Nhu cầu chi tiêu trong phủ chúa tăng
lên, trong khi đó nhân dân khơng có khả năng nộp thuế; nhà nƣớc đặt lệ mua
quan bán chức để thu thóc, tiền. Sự suy đồi của khoa cử đẻ ra hàng loạt quan
lại tham nhũng, dốt nát. Có thể nói, chính quyền phong kiến giai đoạn này từ

Trung Ƣơng đến địa phƣơng đều thối nát, tệ nạn tham nhũng hối lộ ngày càng
trầm trọng. Ở Đàng Trong, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ phong kiến
dần trở nên gay gắt và từ giữa thế kỉ XVIII, Đàng Trong bắt đầu rơi vào cuộc
khủng hoảng trầm trọng. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xƣng vƣơng,
xây dựng Phú Xuân thành kinh đô, tổ chức lại bộ máy nhà nƣớc. Các gia đình
quan lại, quý tộc cũng đua nhau xây dựng dinh thự, đua nhau chơi bời xa xỉ.
Phủ huyện, làng xã nằm trong tay bọn quan lại cƣờng hào tham nhũng. Chính
trị thối nát, nhân dân lầm than. Họ là lớp ngƣời gánh chịu mọi tai họa của tự
nhiên, mọi thiệt thịi, bất cơng của xã hội, mọi thứ thuế má, sƣu dịch của triều
đình.
Phong trào nơng dân khởi nghĩa thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX đã
nổ ra liên tục. Các nhà nghiên cứu lịch sử đã gọi giai đoạn này là giai đoạn
của những cuộc khởi nghĩa nông dân. Trƣớc khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc,
trong bốn mƣơi năm liền, nông dân Bắc Hà không năm nào không nổi dậy.
Phong trào không phải chỉ bó hẹp ở một vài địa phƣơng mà lan rộng trong
toàn quốc, sức mạnh nhƣ vũ bão. Ðỉnh cao của phong trào khởi nghĩa lúc này
là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và cuộc khởi nghĩa này đã dành đƣợc thắng lợi vẻ
vang: Ðánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nƣớc; đánh tan hơn hai
mƣơi vạn quân Thanh xâm lƣợc, lập nên một vƣơng triều phong kiến mới với

10


nhiều chính sách tiến bộ. Nhƣng đáng tiếc là Quang Trung chỉ ở ngôi đƣợc
mấy năm. Sau khi Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lại trở nên lục đục. Nhân
cơ hội ấy, Nguyễn Ánh đã trở lại tấn công nhà Tây Sơn, lập nên triều đại nhà
Nguyễn (1802). Triều Nguyễn là một tân triều, nhƣng không đại diện cho cái
mới. Buổi đầu, để củng cố địa vị thống trị của mình nhà Nguyễn đã thực hiện
đƣợc một số chính sách tiến bộ nhƣng họ cũng không phải là một chế độ lý
tƣởng dành cho các trí thức Nho học cống hiến hết mình. Vì thế dƣới triều

Nguyễn các cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra.
Phong trào nông dân khởi nghĩa giai đoạn thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ
XIX không những làm cho giai cấp phong kiến thống trị kinh hồn khiếp vía,
mà cịn làm cho hệ tƣởng chính thống và nền văn hóa phục vụ giai cấp phong
kiến bị khủng hoảng và sụp đổ [15, tr.48].
Trong lịch sử, các triều đại vừa sụp đổ lẫn các triều đại lên thay thế
đều nhanh chóng tìm đến Nho giáo nhƣ một công cụ thống trị tinh thần
không thể thiếu. Dƣới cảnh triều đại nhƣ vậy những nhà nho hành đạo, dù có
hanh thơng đến mấy cũng khơng bày tỏ sự hài lịng của mình mà ngƣợc lại
liên tục xuất hiện với con ngƣời chán nản với thực thế cai trị của triều đình,
bày tỏ ƣớc nguyện và dấn thêm một bƣớc nữa là cáo quan về ẩn dật. Bất kì
nhà nho nào cũng biết, cũng tâm đắc với quan niệm “bậc đại thần ẩn thì ẩn
giữa triều đình, bậc trung ẩn thì ẩn nơi thành thị, chỉ những tiểu ẩn thì mới
ẩn nơi rừng suối”[31, tr.157].
Với tƣ tƣởng nho giáo chính thống, cuộc đời nhà nho đều đi theo con
đƣờng học hành - thi cử - đỗ đạt - ra làm quan, cùng lý tƣởng “tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ” với tƣ tƣởng “trí quân trạch dân”. Nhƣng trƣớc xã hội
loạn lạc, các nhà nho cũng mất niềm tin vào triều đình, chữ “trung” khơng
cịn ngun vẹn. Viện sĩ V.M.Alechxeep gọi đó là “bi kịch của nhân cách nhà
nho và của hệ tƣ tƣởng quan lại” [31, tr.38].

11


Nguồn gốc cảm quan bi kịch ở ngƣời tài tử chính là những phẩm chất
của họ. Theo cách diễn của Mác, đó là bi kịch của cái mới ra đời chƣa hội đủ
điều kiện tồn tại. Nguyễn Du cảm nhận sâu sắc sự vô nghĩa của những giá trị
“thiêng liêng” trong mắt các nhà nho chính thống. Ai có thể “trung” mãi mãi,
vô điều kiện với một triều đại khi mà “cổ kim vị kiến thiên niên quốc”, ai có
thể tự hào về hoạn lộ hanh thơng, khi nhìn trong triều ngoài nội “ai ai cũng

đều là Thƣợng quan, mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La”. Phạm Thái đã
hăm hở chống lại triều đại mới (Tây Sơn) trên tinh thần phục Lê, rồi nhanh
chóng nhận ra tính chất “nhất khứ bất phục phản” của tiến trình lịch sử, khơng
tìm đâu ra ý nghĩa tích cực của đời sống, chỉ uống rƣợu tìm lãng quên:
Chết về Tiên Bụt cho xong kiếp
Đù ỏa trần gian sống mãi chi.
Trong cuộc đời cũng đã bạo gan “đu đôi” với ông ranh mãnh nhất,
thâm thúy nhất và cũng tài năng nhất của triều Nguyễn là Minh Mạng, cũng
đã từng coi thƣờng những thăng trầm trong hoạn lộ. Nguyễn Công Trứ khi
đến tuổi vãn niên vẫn phải cay đắng thú nhận “Ông Hy Văn tài bộ đã vào
lồng”. Cao Bá Quát có kêu gọi “Chớ thấy ngƣời bạch diện thƣ sinh mà cƣời
rằng đa cùng tài tử”, thì trong đời thực, ngƣời tài tử ấy vẫn mãi “đa cùng”.
Trong số các nho sĩ đó khơng ai tìm đƣợc ra câu trả lời đích thực khả dĩ vỗ về
những cảm nhận nhức nhối đó.
Trƣớc những rối loạn của triều đại, cùng với sự sụp đổ của Nho giáo
khi chính quyền nhà Nguyễn lên cai trị, Nho sĩ đã mất dần niềm tin vào chế
độ, chữ “trung” đã khơng cịn ngun vẹn. Có thể nói, trong hoàn cảnh lịch sử
xã hội đầy biến động, các nhà nho khơng thể thực hiện đƣợc lý tƣởng của
mình, lý tƣởng mà họ đã tiếp thu từ cửa Khổng sân Trình. Với tƣ cách nhà
nho chân chính, sự mâu thuẫn giữa lý tƣởng và thực tiễn đời sống đen tối
đang diễn ra chính là cội nguồn của những bi kịch trên con đƣờng “hoạn lộ”.

12


1.3. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và
Cao Bá Quát
1.3.1. Nguyễn Du

Nguyễn Du là tài năng xuất chúng. Cũng nhƣ các Nho sĩ khác, ông

cũng chọn con đƣờng khoa cử và cuộc đời Nguyễn Du gặp rất nhiều khó
khăn.
Nguyễn Du (1766 – 1820) tên tự là Tố Nhƣ, hiệu là Thanh Hiên, sinh
năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hƣng. Trong bản gia phả của họ Nguyễn làng
Tiên Điền phát hiện năm 1966 có ghi ngày sinh của Nguyễn Du là 23 tháng
11 năm Ất Dậu, tính ra dƣơng lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766. Nguyễn Du
sinh ra trong một ra đình đại quý tộc, có thế lực bậc nhất lúc đƣơng thời.
Gia đình cũng nhƣ dịng họ Nguyễn Du có rất nhiều ngƣời làm quan to
dƣới triều Lê - Trịnh. Ngay từ nhỏ Nguyễn Du đã nổi tiếng khôi ngô, đƣợc
sống một cuộc sống nhung lụa trong gia đình quý tộc và giàu sang. Nhƣng
cuộc sống này kéo dài không đƣợc bao lâu thì những biến cố của thời đại và
của gia đình đã nhanh chóng đẩy nhà thơ ra giữa bão táp của cuộc đời.
Năm mƣời một tuổi Nguyễn Du mồ côi cha, mƣời hai tuổi mồ côi cả
cha lẫn mẹ. Nhƣng cha của Nguyễn Du có nhiều vợ (8 bà), đông con (21 con),
nên cái chết của cha mẹ không ảnh hƣởng tới đời sống vật chất của Nguyễn
Du. Vì Nguyễn Du đƣợc ngƣời anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản - một ngƣời
nổi tiếng là tay ăn chơi đệ nhất Kinh thành Thăng Long thuở ấy nuôi dƣỡng
thay cha. Chính cảnh đời mồ cơi cha mẹ đã làm tổn thƣơng Nguyễn Du rất
nhiều, thiếu nơi nƣơng tựa về tinh thần và tình cảm. Phải chăng nỗi tổn
thƣơng từ tấm bé này đã tạo ra tính cách trầm lặng ở thi sĩ.
Đang sống một cuộc sống yên ổn với Nguyễn Khản thì Nguyễn Du lại
chịu ảnh hƣởng của xã hội lúc bấy giờ với những sự kiện liên tiếp ập tới: Vụ
án năm Canh Tí (1780), Khản bị hạ ngục; hai năm sau (1782, năm Canh Dần)

13


chỗ dựa về quyền lực và kinh tế của Nguyễn Khản khơng cịn: chúa Trịnh
Sâm chết; lại hai năm liên tiếp, 1784 kiêu binh bất bình, tìm giết Nguyễn
Khản và phá sạch dinh cơ của ông tại Kinh thành, Khản phải bỏ chạy đến

nƣơng nhờ Nguyễn Điều, ngƣời em ruột khi đó đang làm trấn thủ Sơn Tây.
Cảnh sống lầu son gác tía của Nguyễn Du dƣờng nhƣ chấm dứt từ đây.
Nhƣng năm 1783, lúc đó Nguyễn Du mƣời tám tuổi, cịn bé nên vẫn
tiếp tục đi học, ơng đi thi Hƣơng ở Sơn Nam, đậu tam trƣờng.
Dƣới triều Lê, Nguyễn Nghiễm có một ơng quan họ Hà, giữ chức
Chánh thủ hiệu đội quân hùng hậu hiệu ở Thái Nguyên nhƣng khơng có con
trai, xin Nguyễn Du về làm con nuôi. Sau khi ngƣời họ Hà mất, Nguyễn Du
đƣợc kế chân làm chức ấy.
Các sự kiện liên tiếp diễn ra “long trời nở đất” ập tới đối với họ Nguyễn
Tiên Điền nói chung và với Nguyễn Du nói riêng: Tây Sơn do Nguyễn Huệ
lãnh đạo dƣới sự quân sƣ của Nguyễn Hữu Chỉnh đem quan ra diệt Trịnh, xếp
đặt lại trật tự Bắc Hà năm Bính Ngọ 1786. Trƣớc cảnh tƣợng đó, Nguyễn Du
chƣa hết bàng hồng thì đến cuối tháng 12 năm Mậu Thân 1788, Nguyễn Huệ
chính thức lên ngơi hồng đế, dựng lên triều Quang Trung và ngay sau đấy,
đầu mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789 đại phá quân Thanh, đuổi vua Lê Chiêu
Thống khỏi Kinh thành Thăng Long. Cảnh vật Sơng Rum và Ngàn Hống vẫn
cịn đó, nhƣng bức tranh thành vua Lê - chúa Trịnh - chỗ dựa tƣởng nhƣ không
bao giờ lay chuyển của họ Nguyễn Tiên Điền giờ đã bị sụp đổ. Chính bức
tranh ấy đã giáng một địn chí mạng xuống đầu Nguyễn Du.
Cũng giống nhƣ kẻ bề tôi khác của nhà Lê, Nguyễn Du cảm thấy đau
đớn, tìm cách ruồng rẫy, hết nổi lên chống Tây Sơn ở Thái Nguyên bị thất
bại, lại toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh để diệt Nguyễn Huệ nhƣng
không thành. Bế tắc càng thêm bế tắc.

14


Nhƣng có một điều đáng chú ý là trong thời gian “mƣời năm gió bụi”
và những năm về quê sống “dƣới chân Hồng Lĩnh”, ở đây nhà thơ có thể tiếp
xúc với quần chúng nhân dân, sống gần gũi với họ, đó là ngọn nguồn ni

dƣỡng tinh thần dân tộc và tƣ tƣởng nhân văn của nhà thơ.
Nguyễn Du sống ở Hồng Lĩnh đến đầu mùa thu 1802. Cùng năm này,
Nguyễn Ánh đã thơn tính triều đại nhà Nguyễn Quang Trung, lập ra triều đại
nhà Nguyễn Gia Long. Dù rất trung thành với triều đình phong kiến Lê - Trịnh,
nhƣng Nguyễn Du đã ra làm quan cho vƣơng triều Gia Long. Ông đƣợc bổ làm
Tri huyện và đƣợc cử lên cửa Nam Quan tiếp sứ thần Trung Quốc.
Năm 1805, Nguyễn Du đƣợc thăng Đông các điện học sĩ, phong tƣớc
Du Đức hầu. Năm 1807, đƣợc cử làm giám khảo trƣờng thi hƣơng ở Hải
Dƣơng. Năm 1809, đƣợc bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Nguyễn Du đã giữ
chức này trong bốn năm liền.
Năm 1813, Nguyễn Du thăng Cần chánh điện học sĩ và đƣợc cử làm
Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nƣớc, năm 1815 ông đƣợc thăng Hữu
Tham tri Bộ Lễ. Năm 1820 Minh Mạng lên ngôi, định cử ông làm Chánh sứ
sang Trung Quốc lần nữa, để cầu phong, nhƣng chƣa kịp đi thì đến tháng 9
năm 1820 ông mất đột ngột.
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dƣới triều đại nhà Nguyễn nhìn
chung rất thuận lợi, khơng có trở ngại gì. Trong suốt gần hai mƣơi năm làm
quan, Nguyễn Du xin về bốn lần, lần dài nhất là sáu tháng, còn những lần
khác chỉ một vài tháng rồi ra làm việc lại. Ông đƣợc thăng chức rất nhanh và
có lúc đƣợc giữ những chức vụ tƣơng đối quan trọng. Mặc dù nhận đƣợc sự
đặc cách của triều đình nhà Nguyễn, nhƣng Nguyễn Du vẫn có điều bất nhƣ ý
sâu sắc đối với đƣơng thời. Đại Nam chính biên liệt truyện viết: “Nguyễn Du
là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngồi tỏ vẻ giữ gìn cung kính, mỗi lần
vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như khơng biết nói năng gì”. Có lần Gia Long

15


trách ông: “Nhà nước dùng người cứ kẻ hiền tài là dùng chứ không phân biệt
Nam Bắc. Ngươi với ta đã được ơn tri ngộ, làm quan đến bực Á khanh, biết

việc gì phải nói cho hết chức trách của mình, biết việc gì thì phải nói cho hết
chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè, sợ hãi, chỉ vâng lời dạ cho qua
chuyện”[15, tr.320].
Khi Nguyễn Du qua đời, quan lại ở Kinh nhiều ngƣời làm câu đối
phúng viếng, hết lời ca ngợi tài hoa rất mực của ông.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc. Ông sáng tác bằng cả chữ Hán và
chữ Nơm.
Về chữ Nơm có các tác phẩm chính: Văn tế thập loại chúng sinh (Văn
chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Đoạn trường tân thanh
(Truyện Kiều).
Đáng chú ý là các tập thơ chữ Hán, sáng tác biểu hiện rõ nhất thế giới
tâm trạng giằng xé, mâu thuẫn, bi kịch của Nguyễn Du: Thanh Hiên thi tập,
sáng tác trong khoảng từ (1786-1804), tức là chặng đƣờng “mƣời năm gió
bụi” về quê dƣới chân núi Hồng và một vài năm ra làm quan. Nam trung tạp
ngâm, sáng tác trong khoảng thời gian (1805-1812) thời gian ra làm quan ở
Huế và cai bạ Quảng Bình. Bắc hành tạp lục, sáng tác trong khoảng (18131814) thời gian đi sứ Trung Quốc.
1.3.2. Nguyễn Cơng Trứ
Ngƣời xƣa nói rằng: ở đời có ba điều bất hủ: một là lập công, hai là
đức, ba là lập ngôn. Lập công tất là công nghiệp vẻ vang trong bốn cõi, lập
đức tất là đức trạch lƣu truyền đến muôn đời, lập ngơn tất là ngơn luận văn
chƣơng, có bổ ích cho nhân tâm thế đạo. Trong ba điều ấy có đƣợc một, vẫn
đã khó, mà gồm đƣợc cả ba chƣa dễ mấy ai. Thƣờng xét nƣớc ta có một bậc
vĩ nhân, nói về cơng thời cơng rất lớn, nói về đức thời đức rất dày, mà nói về
ngơn thì ngơn luận văn chƣơng rất có giá trị. Vậy nên nƣớc nhà có đƣợc một

16


bậc vĩ nhân nhƣ vậy, quốc dân ta há không nên tôn sùng, nên kỷ niệm, nên
tƣợng đồng bia đá hay sao?

Bậc vĩ nhân ấy là ai? Là cụ Uy Viễn tƣớng công Nguyễn Công Trứ.
Nay chinh Nam, phạt Bắc thế là công; tịch thổ thực dân, thế là đức, văn
chƣơng lỗi lạc, ngôn luận hùng hồn thế là ngôn. Công nhƣ vậy, đức nhƣ vậy,
ngôn nhƣ vậy, mà cái danh thơm của tƣớng cơng hình nhƣ trong quốc dân cịn
ít kẻ biết mà ca tụng, xƣng vƣơng là bởi vì hành trạng của tƣớng cơng ít kẻ
hiểu đƣợc rõ, văn chƣơng của tƣớng cơng ít kẻ biết đƣợc tƣờng.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu
là Ngô Trai, biệt hiệu là Hy Văn. Quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh.
Cũng nhƣ nhiều Nho sĩ khác dƣới thời đại ông, Uy Viễn tƣớng cơng
cũng khơng có con đƣờng lập thân, lập nghiệp nào hơn là theo nghiệp bút
nghiên, khoa cử. Nhƣng ở ơng, ý chí và quyết tâm thành đạt kiên trì, bền bỉ
đến lạ lùng. Vốn sáng dạ từ nhỏ, lại đƣợc cha rèn luyện sớm trở thành một
con ngƣời tài hoa, thơng minh, khống đạt. Là con nhà nho thanh bần, ông
mong ƣớc thi cử đỗ đạt để mở mày mở mặt đƣợc ra làm quan, để ra tay kinh
bang tế thế. Nhƣng phải chờ mãi đến năm 1807 (khi ông đã 29 tuổi), triều
Nguyễn mới mở khoa thi hƣơng đầu tiên, kỳ thi này ông không đỗ. Đến khoa
Quý Dậu (1813 ông đã 36 tuổi) những tƣởng “miếng khoa giáp ăn xanh
phƣờng sỹ tử” thì ơng cũng chỉ trúng sinh đồ. Mãi đến năm 1819, khoa thi
hƣơng lần thứ ba ông mới giành đƣợc thủ khoa (lúc 41 tuổi).
Ông đƣợc bổ làm quan giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử qn và sau đó
ơng liên tiếp giữ chúc Tri huyện Đƣờng Hào, Hải Dƣơng (năm 1823), Tƣ
nghiệp Quốc tử giám (năm 1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (năm 1825),
Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ Hình (năm 1826). Năm 1828

17


Nguyễn Cơng Trứ thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ,
chuyên coi việc khai khẩn đất hoang.

Là một kẻ sĩ hành đạo trong hoàn cảnh thời thế đổi thay, giá trị bị đảo
lộn, cuộc đời làm quan của ơng có nhiều bƣớc gập ghềnh, trầy trật, nhiều
phen lên voi xuống chó. Trong hai mƣơi tám năm làm quan, Nguyễn Công
Trứ bị giáng chức và cách chức cả thảy đến năm lần.
Năm 1831, vì đề cử một ngƣời làm huyện thừa thiên huyện Tiền Hải,
Thái Bình khơng đúng thủ tục, Nguyễn Công Trứ bị giáng làm Tri huyện.
Năm 1834, đi đánh Nùng Văn Vân ở Thái Nguyên, Nguyễn Công Trứ bị khiển
trách chậm trễ, “đáng lễ phải cách chức nhƣng sau chiếu cố, ông chỉ bị phạt
giáng ba cấp”. Năm 1835, vì chuyện một ngƣời tù vƣợt ngục, ông bị giáng bốn
cấp, đổi về kinh. Năm 1840, Nguyễn Cơng Trứ khơng tích cực thi hành một
chỉ dụ của vua, ơng bị Bộ hình tun án trảm giam hậu sau đó khơng thấy lợi,
nên giáng ơng làm Tuần phủ tỉnh An Giang, Nam Bộ. Không chỉ nhƣ vậy, đến
năm 1843 ơng bị cách chức và bắt làm lính thú lên trấn ở biên thùy Quảng
Ngãi. Và cuối cùng đến năm 1847, ơng thăng làm Phủ dỗn phủ Thừa Thiên.
Nhƣng lúc đó Nguyễn Cơng Trứ vừa trịn bảy mƣơi tuổi, ông xin về nghỉ hƣu.
Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời làm quan đã đƣợc đặt chân đến nhiều
nơi, tiếp xúc với nhiều hạng ngƣời, mắt thấy nhiều sự kiện, biến cố, cảnh ngộ.
Cùng với tài năng, chí khí và ý thức về cá nhân, vốn kinh lịch sử từ cuộc sống
phong phú, đa dạng dƣới thời Lê Mạt - Nguyễn sơ là những nhân tố hun đúc
nên bản lĩnh và cá tính độc đáo của con ngƣời Nguyễn Cơng Trứ. Sự thăng
trầm trên con đƣờng làm quan đã tạo nên một Nguyễn Công Trứ “ngất
ngƣởng” trƣớc cuộc đời.
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ không tập trung thành những
thi văn tập riêng, nhƣng khá phong phú, đa dạng. Về văn, là những bài tấu,
sớ… một số bài phú, câu đố… về thơ, gồm khoảng 50 bài tứ tuyệt, bài cú luật

18


Đƣờng chủ yếu bằng quốc âm. Đặc biệt, Nguyễn Công Trứ đã để lại hơn 60

bài thơ hát nói. Đây là di sản có vị trí quan trọng trong văn học dân tộc. „„Thơ
văn Nguyễn Công Trứ bao hàm một nội dung khá phức tạp, kết tinh một trạng
thái ý thức của thời đại: vừa ca tụng con người hoạt động, lại vừa ca tụng lối
sống hưởng lạc, cầu nhàn, vừa ca tụng Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo giáo,
vừa lạc quan tin tưởng lại vừa bi quan thất vọng; vừa tự khẳng đinh mình lại
vừa phủ định mình” [15, tr.528].
Nói tóm lại, Nguyễn Cơng Trứ là một ơng quan có đủ những phẩm chất
tốt đẹp, thanh, cần, thận, trực, là con ngƣời hết lịng vì dân vì nƣớc, có đủ đức
tính: trung, dũng, nhân, trí, tín; là một trí thức cao đẹp, ln có tƣ tƣởng nhập
thế, ln ln hành động vì cuộc đời, vì con ngƣời. Nhƣng cuộc đời làm quan
của Nguyễn Công Trứ gặp rất nhiều trắc trở, khó khăn, trầy trật. Ơng bị giáng
chức, cách chức nhiều lần, bị nhiều phen lên voi xuống chó.
1.3.3. Cao Bá Quát
Cao Bá Quát (1808-1855) - nhà thơ Việt Nam, là một danh sĩ sống vào
thời vua Tự Đức, tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đƣờng, ơng có một hiệu nữa là
Mẫn Hiên, ngƣời làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc
ngoại thành Hà Nội. Ông là anh em sinh đôi với ngƣời anh Cao Bá Đạt.
Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ viết:
Dõi đời khoa bảng xuất thân,
Trăm năm lấy chữ thanh cần làm bia
Qua hai dịng thơ đó, có thể thấy dịng họ Cao có truyền thống khoa
bảng, nhƣng đến đời thân phụ ông là Cao Huy Giảng nhà nho danh tiếng
nhƣng không đỗ đạt gì. Ơng từng làm nghề dạy học để kiếm sống, cũng vì
nghèo mà gia đình phải dời về phố Đình Ngang Hà Nội để làm ăn.
Thuở nhỏ Cao Bá Quát đã nổi tiếng là ngƣời thông minh, mẫn tiệp,
hóm hỉnh, lại thêm tính ngang tàng, phóng túng khơng chịu khép mình vào

19



khuôn khổ. Năm 23 tuổi, ông đậu cử nhân nhƣng thi Hội thì cứ trƣợt mãi.
Cuộc sống long đong suốt mƣời năm, Cao Bá Quát sống cuộc đời của một
hàn sĩ, một “tài tử đa cùng” nay đây mai đó, khi dạy học, lúc ngao du phóng
lãng, cùng bạn bè làm thơ.
Năm 33 tuổi, Cao Bá Quát vào Kinh giữ chức Hành tẩu ở bộ Lễ. Ít lâu
sau, ơng đƣợc cử làm sơ khảo trƣờng thi Thừa Thiên và thấy một số bài thi
hay mà phạm húy, Cao Bá Quát cùng với một ngƣời bạn lấy son hòa với
muộn đèn chữa lại cho họ. Việc bị phát giát, Cao Bá Quát bị kết tội xử chém
nhƣng sau đó đƣợc giảm án và đày vào Đà Nẵng. Nhân có phái bộ đi công án
ở Indonexia, Cao Bá Quát đƣợc cử làm phu dịch để lấy công chuộc tội. Lúc
trở về, ông đƣợc giữ chức cũ một thời gian rồi bị thải.
Năm 1847, Cao Bá Quát đƣợc triệu vào Viện hàn lâm làm công việc
sƣu tầm và sắp xếp các tài liệu thơ văn cho vua dùng. Thời gian làm việc ở
Kinh lần này, ông ngao du nhiều với các quan lại, danh sĩ. Các bạn thân của
ông nhƣ Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Hàm Ninh, Miêu Thẩm… đều là những
nhà thơ tài hoa, nổi tiếng lúc bấy giờ. Nhƣng cũng chính trong thời gian này,
Cao Bá Quát nhận ra biết bao nhiêu cái xấu xa, thối nát của vua quan nhà
Nguyễn và ông không tiếc những lời châm chọc. Và chính những lời châm
chọc đả kích đó đã làm cho vua quan triều đình nhà Nguyễn căm ghét ơng.
Đến năm 1854, Cao Bá Quát bị buộc phải rời Kinh đô về Bắc, nhận chức
giáo Thụ phủ ở Quốc Oai, Sơn Tây. Giữa lúc đó, vùng Sơn Tây, Bắc Ninh hạn
hán nặng, nạn châu chấu hoành hành, đời sống nhân dân bị đẩy vào bƣớc
đƣờng cùng. Trƣớc cảnh bế tắc đó, triều đình lại khơng ngó ngàng tới, nhân
dân đã đứng lên chống lại. Một số cuộc khởi nghĩa của nông dân đã diễn ra,
mƣợn cớ phù Lê, tôn Lê Duy Cự làm Minh chủ, còn Cao Bá Quát tự xƣng là
Quốc sƣ, kêu gọi nhân dân ngƣời Kinh, ngƣời Mƣờng tham gia khởi nghĩa.
Trên lá cờ của nghĩa quân ghi 2 dòng chữ lớn:

20



Bình Dƣơng, Bồ Bản vơ Nghiêu Thuấn,
Mục Dã, Minh Điều, hữu Võ Thang
(Ở Bình Dƣơng và Bồ Bản khơng có những vua tốt nhƣ Nghiêu Thuấn,
(thì) ở Mục Dã, Minh Điều phải có những ngƣời chống lại nhƣ Võ Thang).
Cuộc khởi nghĩa định nổ ra ở Mỹ Lƣơng, nhƣng chƣa chuẩn bị chu đáo
thì kế hoạch bị lộ phải bùng nổ sớm, kéo dài đƣợc vài tháng thì bị dập tắt. Cao
Bá Quát hi sinh giữa trận tiền. Triều đình ra lệnh tru di ba họ ông. Sau khi bị
tru di, sách vở nhà họ Cao ít ngƣời dám tàng chữ nên thất lạc nhiều. Tuy vậy
cho đến nay, sáng tác của Cao Bá Quát đƣợc nhân dân lƣu giữ gom góp lại
cũng rất đáng kể: gồm hơn 1300 bài thơ, chủ yếu viết bằng chữ Hán, 21 bài
văn, trong đó có phú Nơm và một số tác phẩm ca trù.... Về chữ Hán, khối
lƣợng thơ nhiều hơn, đƣợc tập hợp trong các tập:
Cao Bá Quát thi tập, Cao Chu Thần di thảo, Cao Chu Thần thi tập,
Mẫn Hiên thi tập. Số lƣợng những tác phẩm còn lại của Cao Bá Quát thuộc
vào nhiều nhất so với các tác gia văn học trung đại Việt Nam. Giáo sƣ:
Nguyễn Đình Chú từng nhận xét về thơ văn Cao Bá Quát: „„Thơ văn Cao Bá
Quát là thơ văn của một con người có khát vọng cao cả, có nhân cách cứng
cỏi mà chế độ phong kiến đương thời không dung nạp nổi. Cao Bá Qt có
thơ Nơm nhưng Cao Bá Qt trước hết là nhà thơ vào loại tiêu biểu nhất cho
giá trị thơ chữ Hán xưa"[6, tr.198].
Cao Bá Quát là một con ngƣời tài năng, có khí phách khác thƣờng,
phóng túng nhƣng cuộc đời của ông lận đận và nhiều bi kịch.
Trở lên là cái nhìn khái lƣợc về cuộc đời và sự nghiệp thi ca của ba tác
giả Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Chúng ta thấy ở đây, những
dấu ấn đậm nét và cũng rất riêng ở mỗi thi sĩ. Dù “mỗi ngƣời mỗi vẻ” nhƣng
cả ba nho sĩ - thi sĩ đều có sự gặp gỡ của những nhà nho “sinh bất phùng
thời”. Họ gửi gắm tâm sự ấy qua sáng tác thơ ca nhƣ một phƣơng tiện “tỏ
lịng”. Khóa luận sẽ đề cập vấn đề này ở chƣơng sau.


21


×