Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của tô hoài (qua một số sáng tác về đề tài lịch sử)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.39 KB, 58 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------------

VŨ THỊ PHƢƠNG

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI
CỦA TÔ HOÀI
(Qua một số sáng tác về đề tài lịch sử)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới T.S Nguyễn Thị Kiều
Anh, cô giáo đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã quan tâm, tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học tập.
Bài khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, kính
mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô giáo.

Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Phương



LỜI CAM ĐOAN

Với đề tài: Thế giới nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Tô
Hoài (qua một số sáng tác về đề tài lịch sử), tôi xin cam đoan bài viết này là
kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm hiểu của tôi, dưới sự hướng dẫn của T.S
Nguyễn Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan là không sao chép hay trùng tên đề
tài với những tác giả cùng nghiên cứu về truyện thiếu nhi của Tô Hoài.
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 1
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 2
4. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................ 2
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................... 3
7. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 3
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TRUYỆN
VIẾT VỀ THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI ........................................ 4
1.1. Khái quát về văn học thiếu nhi ............................................................... 4
1.1.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 ..................................... 4
1.1.2. Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám 1945......................................... 6
1.2. Nhà văn Tô Hoài và truyện viết cho thiếu nhi........................................ 8
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp nhà văn Tô Hoài ............................................. 8
1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài ............................. 12
Chương 2. CÁC LOẠI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN VIẾT CHO

THIẾU NHI VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CỦA TÔ HOÀI ..................................... 17
2.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật .............................................. 17
2.1.1. Khái niệm nhân vật ........................................................................ 17
2.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật ........................................................... 18
2.2. Các loại nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi về đề tài lịch sử
của Tô Hoài .................................................................................................. 18
2.2.1. Nhân vật thiếu nhi yêu nước, dũng cảm, mưu trí ........................... 19


2.2.2. Nhân vật mang đầy sức mạnh, nghị lực trong chinh phục thiên
nhiên ......................................................................................................... 24
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI (QUA MỘT SỐ
SÁNG TÁC VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ) .............................................................. 27
3.1. Miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình và hành động.......................... 28
3.1.1. Miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình ......................................... 28
3.1.2. Miêu tả nhân vật thông qua hành động ......................................... 32
3.2. Nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật ................................... 37
3.2.1. Lời đối thoại của nhân vật ............................................................. 37
3.2.2. Lời độc thoại nội tâm của nhân vật ............................................... 44
3.3. Nhân vật được thể hiện qua lựa chọn chi tiết tiêu biểu, cụ thể, chính
xác ................................................................................................................ 46
KẾT LUẬN .................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tô Hoài là nhà văn có đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam. Hơn
nửa thế kỉ sáng tác không biết mệt mỏi, ông đã dành toàn bộ tâm huyết, sức

lực của mình cho nghệ thuật. Mỗi chặng đường sáng tác của Tô Hoài đều gắn
với những chặng đường của lịch sử xã hội Việt Nam. Cho đến nay Tô Hoài là
nhà viết văn xuôi có số lượng tác phẩm nhiều nhất trong nền văn học hiện đại
Việt Nam. Sáng tác của ông phong phú, đa dạng cả về đề tài lẫn thể loại và
được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến đón nhận, được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm tìm hiểu.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Tô Hoài có một mảng văn học đặc
biệt dành cho tuổi thơ. Ông là một trong số ít nhà văn chuyên nghiệp luôn
quan tâm đến độc giả thiếu nhi và được coi là một trong những người có
công đặt viên gạch đầu tiên cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam hiện đại.
Sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài trải dài theo sự nghiệp văn chương đồ sộ
của ông và chủ yếu được viết từ ba đối tượng: loài vật, những tấm gương
thiếu nhi yêu nước và từ những câu chuyện trong truyền thuyết, dã sử.
Tìm hiểu về Tô Hoài và những sáng tác của ông viết cho thiếu nhi đã
được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Song trong đó tập trung nhiều ở
mảng truyện đồng thoại. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: Thế giới nhân vật trong
truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài (qua một số sáng tác về đề tài lịch sử).
2. Lịch sử vấn đề
Giáo sư Hà Minh Đức nhận định: “Tô Hoài đến với tuổi thơ từ những
trang viết đầu tay của mình. Ở những tác phẩm viết cho thiếu nhi của ông
chứa đựng nhiều tư tưởng đẹp và những chân trời rộng mở, lòng yêu cuộc
sống và tạo vật bao la, tình yêu thương những người nghèo khổ và bất hạnh,

1


sự cảm phục những tấm gương anh hùng trong chiến đấu…Song những tư
tưởng biểu hiện nhất quán qua mấy chục tác phẩm viết cho thiếu nhi của Tô
Hoài là lòng yêu thương và trân trọng con người và đối tượng được ngưỡng
mộ trước hết là những mầm nụ còn tươi non đang cần được bồi đắp để bước

vào đời. Đối với các em ngòi bút của Tô Hoài được bộc lộ nhiều phẩm chất
mới lạ. Ông không chỉ đến với các em trong một thời điểm nào đó của văn
chương và cuộc đời. Ông là nhà văn của các em” [4, tr.37]. Nghiên cứu mảng
văn sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài, các tác giả đều khẳng định Tô Hoài là
nhà văn của thiếu nhi. Từ những trang văn đầu tiên đến những tác phẩm gần
đây nhất, Tô Hoài vẫn thể hiện một tâm hồn tươi trẻ, ân cần và cảm thông.
Ông luôn xem văn học thiếu nhi là công cụ có tác dụng giáo dục trực tiếp và
sâu sắc đối với các em. Với rất nhiều đầu sách có giá trị viết cho thiếu nhi,
sáng tác của Tô Hoài đã trở thành món ăn tinh thần quen thuộc với bạn đọc
nhỏ tuổi cả nước. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyện viết cho thiếu
nhi của Tô Hoài, nhưng chủ yếu tập trung ở mảng đề tài viết về loài vật,
truyện đồng thoại, chưa quan tâm nhiều đến những câu chuyện về lịch sử, tiểu
thuyết lịch sử. Vì vậy chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu những tác phẩm lịch sử tiêu
biểu viết cho thiếu nhi của Tô Hoài. Qua đó làm rõ hơn sự phong phú trong
tài năng sáng tác dành cho trẻ thơ của Tô Hoài.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận có mục đích khám phá thế giới nhân vật và nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài về đề tài lịch sử.
Từ đó thấy được những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học thiếu nhi nói riêng.
4. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thế giới nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi qua một số sáng tác về
đề tài lịch sử của Tô Hoài.

2


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý thuyết khoa học của đề tài.

Thống kê các nhân vật có trong các sáng tác về đề tài lịch sử của Tô
Hoài.
Nghiên cứu làm rõ các đặc trưng và nghệ thuật xây dựng nhân vật.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát và đi sâu vào nghiên
cứu những tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi về đề tài lịch sử của Tô Hoài
như: Hoa Sơn, Kim Đồng, Vừ A Dính, Nhà Chử…
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Phương pháp phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp thống kê, so sánh.
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lí luận: Xây dựng cơ sở khoa học của đề tài, tìm hiểu, phân tích
những đặc điểm về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài.
- Về mặt thực tiễn: Qua tìm hiểu, phân tích, bài viết sẽ góp phần thiết thực
vào hoạt động học tập, nghiên cứu, đánh giá về truyện thiếu nhi của Tô Hoài.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về văn học thiếu nhi và truyện viết cho thiếu nhi
của Tô Hoài.
Chương 2. Các loại nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi về đề tài
lịch sử của Tô Hoài.
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện viết cho thiếu
nhi về đề tài lịch sử của Tô Hoài.

3


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TRUYỆN VIẾT

VỀ THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI
1.1. Khái quát về văn học thiếu nhi
Trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Theo nghĩa hẹp, văn
học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng
cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một
phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi
vào phạm vi đọc của thiếu nhi, như Đôn Ki-hô-tê của M.Xéc-van-tex, Rô-binxơn Cơ-ru-xô của Đ.Đi-phô, Gu-li-vơ du kí của Gi.Xuýp-tơ,…” [6, tr.412-413].
Từ lâu đã có một bộ phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. Ở Việt
Nam, bắt đầu từ thế kỉ XX đã xuất hiện các tác phẩm văn học viết cho trẻ em,
nhưng phải đến sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền văn học thiếu nhi mới
chính thức được hình thành. Đến nay trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, văn
học thiếu nhi Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa dạng và thực sự
trở thành một bộ phận quan trọng của nền văn học dân tộc. Về cơ bản, có thể
chia các giai đoạn của văn học thiếu nhi Việt Nam thành hai thời kỳ phát
triển: Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 và thời kỳ sau Cách mạng
tháng Tám 1945.
1.1.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945
Trong thời kỳ phong kiến, trẻ em Việt Nam không có điều kiện để tiếp
xúc với sách văn học dành cho lứa tuổi của mình, bởi không có sách dành cho
lứa tuổi của trẻ thơ . Nhưng bù lại tuổi thơ của các em lại đong đầy tình cảm
từ những lời hát ru ngọt ngào của mẹ, từ những câu chuyện cổ tích bà hay kể,
hay những câu ca dao dân ca, thành ngữ, tục ngữ phong phú từ trong dân
gian. Sang đến đầu thế kỉ XX, văn học dành cho trẻ em bắt đầu được chú ý.

4


Khi chữ quốc ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhân dân, khi việc in ấn và
kinh doanh sách đang phát triển, người ta nghĩ ngay tới việc in sách cho thiếu
nhi. Bên cạnh một số sách tập hợp, ghi chép lại những tác phẩm văn học dân

gian của dân tộc, còn có một số tác phẩm văn học thiếu nhi của Pháp, có thể
kể đến các tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: Tản Đà với tập thơ “Lên sáu lên
tám”(1921), Nguyễn Văn Ngọc với “Đông Tây ngụ ngôn”, các câu chuyện
ngụ ngôn của La Phông-ten… những quyển sách đầu tiên này đã thực sự đem
lại niềm say mê hứng thú cho trẻ thơ.
Sang đến năm 1930, văn học viết cho trẻ em trở nên phong phú, đa
dạng hơn. Trên văn đàn công khai xuất hiện hai khuynh hướng: lãng mạn và
hiện thực, nhóm Tự Lực văn đoàn cho ra đời những cuốn sáng tác dành cho
thiếu nhi thành thị như: “Hoa xuân”, “Hoa mai”, “Học sinh”, “Tuổi
xanh”… còn tác giả Nam Cao lại viết về những khổ đau, bất hạnh của trẻ con
nhà nghèo qua một số tác phẩm như: “Bảy bông lúa lép”(1937), “Người thợ
rèn”(1940), “Con mèo mắt ngọc”(1942), “Bài học quét nhà”(1942)…, nhà
thơ Tú Mỡ thì khai thác mảng đề tài dân gian như: “Truyện thơ Tấm
Cám”(truyện cổ tích Việt Nam), “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”(dựa theo
truyện cổ của Grim)…Trong những năm phát triển tiếp theo, xuất hiện các tác
giả và tác phẩm tiêu biểu như: Nguyễn Công Hoan với “Tấm lòng vàng”,
Thạch Lam với “Hai đứa trẻ”, Tố Hữu với “Mồ côi”, Bác Hồ với một số bài
thơ “Trẻ chăn trâu”, “Kêu gọi thiếu nhi”(1941)…Đặc biệt sự xuất hiện của
nhà văn Tô Hoài đã làm cho các tác phẩm dành cho thiếu nhi trở nên hấp dẫn,
sinh động, ông đã dùng hình thức đồng thoại để đề cập đến vấn đề hiện thực
xã hội, góp phần giáo dục nếp sống lành mạnh, giàu lý tưởng cho thiếu nhi.
Có thể kể đến các tác phẩm nổi tiếng như: “Võ sĩ Bọ Ngựa”, “Đám cưới
Chuột”, “Dế Mền phiêu lưu ký”(1941)…
Nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám 1944, ở Việt Nam mới chỉ
xuất hiện những tác phẩm viết cho thiếu nhi một cách lẻ tẻ. Tuy nhiên những

5


tác phẩm này lại có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó chính là những viên

gạch đầu tiên đặt nền móng để xây dựng nên nền văn học thiếu nhi Việt Nam.
1.1.2. Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám 1945
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng, Nhà nước và
Bác Hồ đã quan tâm thúc đẩy việc hình thành nền văn học mới dành riêng cho
thiếu nhi. Đây là chặng đường mở đầu, đánh dấu sự ra đời cùng những thành
tựu đầu tiên của văn học thiếu nhi Việt Nam dưới chế độ mới. Lúc này xuất
hiện hàng loạt các sách báo dành cho thiếu nhi như: Thiếu niên, Tuổi trẻ,
Xung phong, Măng non, Kim Đồng, sách Hoa kháng chiến…những cuốn sách
này thực sự trở thành người bạn thân thiết của thiếu nhi, góp phần tích cực
vào việc bồi dưỡng những tình cảm cao đẹp cho trẻ thơ và trở thành vốn quý
ban đầu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam.
Hòa bình trên miền Bắc đã tạo điều kiện cho văn học thiếu nhi phát
triển, trong thời kỳ này có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu như: “Hoa
Sơn” của Tô Hoài, “Chiến sĩ ca nô” của Nguyễn Huy Tưởng, “Dưới chân
cầu mây” của Nguyên Hồng, “Thiếu niên anh hùng” của Phong Nhã,
“Lượm” của Tố Hữu… Đội ngũ nhà văn chuyên sáng tác cho thiếu nhi ngày
càng đông đảo, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những đề tài
về lịch sử như kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, sinh hoạt lao động, học
tập của trẻ em trên miền Bắc XHCN, đề tài về khoa học, nông thôn, truyện
đồng thoại…đã làm cho số lượng tác phẩm dành cho thiếu nhi vô cùng phong
phú, đa dạng, sinh động, chưa bao giờ người ta thấy sự xuất hiện dày đặc
những tác phẩm viết cho lứa tuổi thiếu nhi nhiều đến như vậy, tiêu biểu như:
Nguyễn Huy Tưởng với “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”(1960), Tô Hoài với “Kim
Đồng”, “Vừ A Dính”(1963), Bùi Hiển với “Đôi bạn nhỏ”, Nguyễn Đình Thi
với “Cái tết của Mèo con”, Phạm Hổ với “Những người bạn nhỏ”, Võ
Quảng với “Quê nội”, Nguyễn Thi với “Những đứa con trong gia đình”, Đào

6



Vũ với “Danh dự chúng em”, Hoàng Anh Đường với “Những cô tiên áo
nâu”, Hoàng Bình Trọng với “Bí mật một khu rừng”, Nguyễn Kiên với “Kể
chuyện nông thôn”, Nguyễn Ngọc Ký với “Tôi đi học”, Huy Cận với “Hai
bàn tay em”… và rất nhiều tác phẩm hay nữa. Đặc biệt, trong những năm 60
của thế kỉ XX (thời kỳ kháng chiến chống Mỹ) nổi nên hiện tượng các em bé
làm thơ như: Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Qúy,
Nguyễn Hồng Kiên… đã được công chúng và giới phê bình đánh giá cao. Thơ
của các em là tiếng nói của một thế hệ trẻ thơ thời kỳ chống Mỹ, nó có giá trị
và vị trí đặc biệt trong văn học thiếu nhi Việt Nam.
Nhìn chung đây là chặng đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt
Nam. Mặc dù còn ở trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng tất cả những thành tựu
trên đều ghi nhận sự cố gắng tìm tòi, khám phá, đổi mới tư duy và cách tiếp
cận cuộc sống đa dạng, đa chiều của tất cả những cây bút có tâm huyết với
thế hệ trẻ. Nó chứng tỏ nền văn học viết cho các em có cơ sở và điều kiện để
phát triển trong tương lai.
Bước sang thời kỳ Đổi mới, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi đã phát
triển thật hùng hậu. Nó chứng tỏ tính chuyên nghiệp của bộ phận sáng tác cho
các em thiếu nhi. Sáng tác cho các em ngày càng có sự mở rộng đề tài cũng
như hướng tiếp cận đời sống. Văn học thiếu nhi xứng đáng giữ một vị trí quan
trọng, góp phần làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc. Được tạo đà từ
những thành tựu rực rỡ như vậy, văn học thiếu nhi Việt Nam bước sang thế kỉ
XXI tràn đầy sức sống, vừa hội nhập với thế giới, vừa giữ gìn và phát huy
những nét truyền thống của nguồn mạch văn học dân tộc. Với những thành
tựu to lớn, tầm ảnh hưởng rộng, vị trí quan trọng, văn học thiếu nhi được rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu về một
tác giả văn học thiếu nhi tiêu biểu, đó chính là Tô Hoài- nhà văn của thiếu nhi
Việt Nam.

7



1.2. Nhà văn Tô Hoài và truyện viết cho thiếu nhi
Tô Hoài trong cuốn Tự truyện (1985) quan niệm rằng: “Tác phẩm văn
học cho thiếu nhi cũng như mọi loại tác phẩm văn học khác, đều đòi hỏi một
chất lượng nghệ thuật cao. Do đó một sáng tác văn học cho các em cũng là
một sáng tác mà các lứa tuổi khác đều yêu thích” [7, tr.98].Với quan niệm
này, ông đã làm nên được thành công khi sáng tác cho trẻ thơ, những tác
phẩm của Tô Hoài không chỉ đi vào tiềm thức các bạn nhỏ, mà còn được bạn
đọc mọi thế hệ yêu mến. Với sự lao động chăm chỉ, chân chính, nghiêm túc,
Tô Hoài xứng đáng là một trong những cây bút lớn của nền văn học hiện đại
Việt Nam. Chúng tôi xin giới thiệu qua vài nét về cuộc đời, sự nghiệp và các
truyện viết cho thiếu nhi của ông.
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp nhà văn Tô Hoài
Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm
1920 trong một gia đình thợ thủ công nghèo tại quê ngoại- làng Nghĩa Đô,
phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy,
Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình thợ thủ công nghèo, cũng như mọi
thanh niên trai làng khác, Tô Hoài chỉ được học hết tiểu học rồi sớm trở thành
anh thợ cửu, sau đó phải kiếm sống bằng nhiều nghề. Tô Hoài đến với nghề
văn hết sức tự nhiên và bắt đầu bằng một số bài thơ lãng mạn. Ông sớm nhận
ra rằng đây không phải là mảnh đất “canh tác” của mình và nhanh chóng
chuyển sang “cánh đồng” văn xuôi. Ở đây, ông đã phát huy triệt để năng
khiếu và sở trường của mình. Tác phẩm đầu tay của Tô Hoài là Nước lên
(1940), Dế mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), trong đó Dế mèn phiêu
lưu ký được bạn đọc chú ý hơn cả. Tô Hoài viết dưới nhiều bút danh: Mai
Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Duy Phương, Hồng Hoa… Bút
danh được ông tâm đắc nhất và rất quen thuộc với độc giả là Tô Hoài, cái tên
mà tác giả đã mượn con sông Tô Lịch và tên đất phủ Hoài Đức làm nên bút
cho mình.


8


Tô Hoài sớm tham gia hoạt động chính trị. Trước Cách mạng tháng
Tám, thời kì Mặt trận Dân chủ, ông đã tích cực tham gia phong trào Ái hữu
thợ dệt ở Hà Đông. Năm 1943 Tô Hoài tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, hoạt
động tuyên truyền Việt Minh, viết báo bí mật. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô
Hoài làm báo Cứu quốc- cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Năm 1950, ông
tham gia chiến dịch Biên giới. Năm 1952, ông theo bộ đội chủ lực tiến vào
giải phóng Tây Bắc. Những chuyến đi ấy đã giúp ông trưởng thành về tư
tưởng và tạo cho ông vốn sống phong phú. Năm 1957, trong Đại hội thành lập
Hội nhà văn Việt Nam, Tô Hoài được bầu làm Tổng thư ký của Hội. Từ năm
1958 là Phó Tổng thư ký. Ông liên tục tham gia Ban chấp hành Hội nhà văn.
Đến năm 1958, là ủy viên Đoàn chủ tịch Uỷ ban Liên hiệp văn học nghệ
thuật. Trong một thời gian dài từ năm 1968 đến năm 1996, ông giữ chức Chủ
tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. Với những đóng góp của mình cho nền văn học
nước nhà, năm 1996 Tô Hoài là một trong 14 nhà văn vinh dự được nhận giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt 1.
Sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài có thể chia ra thành hai giai đoạn:
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Mỗi chặng đường sáng tác, Tô Hoài đều có những thành tựu riêng nổi
bật nhưng tựu chung lại, vẫn chủ yếu viết về hai vùng đề tài lớn: Hà Nội và
miền núi, vẫn thống nhất trong một cảm quan hiện thực đời thường và một
nghệ thuật thể hiện mang đậm phong cách tác giả.
Trƣớc Cách mạng tháng Tám: Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười
bảy, mười tám. Những sáng tác đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn
và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy xuất hiện ở giai đoạn cuối thời kỳ 1930-1945,
nhưng Tô Hoài sớm đã khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn
thời kỳ này bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: Cỏ dại (1944), Dế
mèn phiêu lưu ký (1941), Quê người (1941), O Chuột (1942), Trăng thề (1943),


9


Nhà nghèo (1942). Từ các tác phẩm này, người đọc dễ nhận thấy sức sung
mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của ông. Sau này, Tô Hoài đã bộc bạch
chân thành về việc ông đến với nghề văn qua cuốn Tự truyện, ông viết: “Tôi
vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 mà tôi
viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn
truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương
vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm sống lúc
ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”. Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng
có thể chia thành hai loại chính: truyện viết về loài vật và truyện về nông thôn
trong cảnh đói nghèo. Nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã
có khi bế tắc trước cuộc đời nhưng cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí
của nhà văn hiện thực. Tâm hồn của Tô Hoài bao giờ cũng có được vẻ đẹp
trong sáng, đáng trân trọng trong cảnh đời đen tối thời kỳ này. Ở đề tài nào và
đối tượng khám phá nào, thế giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách mạng
đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu đậm về một quãng đời
của ông. Ông quan niệm: “Những sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng của
tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói,
cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay xót xa, hay nghịch ngợm và đá
chút khinh bạc là phần nào con người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi.” (Một
quãng đường).
Sau Cách mạng tháng Tám: Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về
tư tưởng và sáng tác. Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện
rõ ở cả đề tài và chủ đề. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản
ánh, ông hướng đến phạm vi rộng hơn, đến với cuộc sống của nhiều lớp
người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tác phẩm
đầu tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện Núi Cứu quốc (1948),

nhưng phải đến Truyện Tây Bắc (1953), Tô Hoài mới thực sự thành công ở

10


mảng sáng tác về miền núi. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú
về Tây Bắc, ông đã thể hiện chân thực, sinh động những đau thương, khổ
nhục của đồng bào Tây Bắc dưới áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong
kiến. Tài năng nghệ thuật của Tô Hoài khi viết về miền núi càng về sau càng
được phát huy và khẳng định qua những tác phẩm như: Miền Tây (1967),
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Họ Giàng ở Phìn Sa (1984), Nhớ Mai Châu
(1988). Một số truyện ngắn, ký và tiểu thuyết nổi bật của Tô Hoài trong giai
đoạn này phải kể đến như: Ngược sông Thao (1949), Xuống làng (1950), Lên
Sùng Đô (1969), Những gương mặt (1988), Cát bụi chân ai (1993), Kẻ cướp
bến Bỏi (1996), Người một mình (1998), Chuyện cũ Hà Nội I và II (1998),
Chiều chiều (1999), Đảo hoang (1980), Chuyện Nỏ thần (1984), Nhà Chử
(1985), Tuyển tập văn học thiếu nhi (2 tập, 1999)…Ngoài ra Tô Hoài còn viết
sách lí luận, kinh nghiệm sáng tác: Một số kinh nghiệm viết văn của tôi
(1959), Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và
phương pháp viết văn (1997)…
Sau Cách mạng, Tô Hoài hăm hở tham gia kháng chiến. Bàn chân ông
đã đi đến nhiều vùng núi rừng Việt Bắc và Tây Bắc. Đi đến đâu ông cũng tích
cực thâm nhập thực sự vào đời sống nhân dân các dân tộc. Đặc biệt ông rất
quan tâm tới phong tục tập quán, phong cách sinh hoạt của đồng bào các dân
tộc. Tô Hoài còn có nhiều dịp được đi đến nhiều nước trên thế giới. Những
chuyến đi ấy đã làm phong phú thêm vốn sống, vốn hiểu biết của nhà văn. Tô
Hoài cứ bám riết cuộc sống và con người bình dị đời thường mà cảm nhận và
tìm chất liệu cho ngòi bút. Có thể thấy, những sáng tác của Tô Hoài sau Cách
mạng tháng Tám đã khẳng định được vị trí và tài năng nghệ thuật của ông
trước hiện thực của cuộc đời mới. Ông xứng đáng là một tấm gương sáng

trong lao động nghệ thuật để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

11


1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài
Sau khi hòa bình lập lại, Tô Hoài mở rộng phạm vi sáng tác, ông viết
trên nhiều đề tài, nhiều thể loại. Đề tài đem đến nhiều vinh quang cho Tô
Hoài là đề tài về miền núi, thành công ở mảng đề tài này đã khiến ông trở
thành “người đầu tiên đã đặt những viên gạch xây nền cho văn học viết về các
dân tộc ít người” (Trần Hữu Tá). Cho đến nay, Tô Hoài đã có hơn 160 đầu
sách, có nhiều tác phẩm được dịch ở nước ngoài, trong đó Dế mèn phiêu lưu
ký được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Đặc biệt, Tô Hoài là một
trong số ít nhà văn rất quan tâm đến độc giả nhỏ tuổi, những sáng tác cho
thiếu nhi của ông đã được tuyển chọn và in thành hai tập Tuyển tập văn học
thiếu nhi (1999). Trong những sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài nổi bật lên hai
đề tài chính: viết về loài vật và viết về những tấm gương yêu nước nhỏ tuổi.
- Truyện thiếu nhi viết về loài vật, truyện đồng thoại
Trước Cách mạng tháng Tám, đối tượng thẩm mĩ trong sáng tác của Tô
Hoài là thế giới loài vật và cuộc sống, con người ở vùng quê nghèo làm nghề
thủ công ven thành. Truyện viết về loài vật của Tô Hoài có một vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của tác giả. Người đọc trong nước và
quốc tế biết đến tên tuổi Tô Hoài bắt đầu từ truyện viết về loài vật qua tác
phẩm Dế mèn phiêu lưu ký. Viết về loài vật, Tô Hoài tìm đến hình thức sáng
tác đồng thoại. Hình thức này mang đến một sắc thái riêng cho truyện viết về
loài vật của ông. Trong truyện đồng thoại Tô Hoài đã đến với thế giới loài vật
trong cảm quan sinh hoạt, phong tục như đời sống con người. Vì thế xét đến
cùng, truyện loài vật của Tô Hoài cũng là chuyện về những người nông dân,
những người thợ thủ công nghèo làng Nghĩa Đô.
Thế giới loài vật của Tô Hoài khá đông đúc. Chúng không phải là là

loài chúa sơn lâm dũng mãnh, hay những con vật thần kỳ, mà chỉ là những
con vật bé nhỏ, “xoàng xĩnh” rất gần gũi với sinh hoạt của con người, thậm

12


chí có những con côn trùng mà bình thường ít ai để ý đến (con gà, ngan, mèo,
lợn, dế mèn, dế trũi, gi đá, bọ ngựa, xiến tóc…). Từ những sự việc, con vật
hết sức bình thường, nhưng qua con mắt của Tô Hoài, những sự vật bình
thường ấy hiện lên vô cùng ngộ nghĩnh, ông đã phát hiện ra những tính chất
mới lạ mà bình thường ta không phát hiện ra, chính điều này đã tạo nên phong
cách nghệ thuật riêng của Tô Hoài khi viết về thế giới loài vật. Trong truyện
của Tô Hoài, thế giới loài vật ấy có lời nói và hành động, có tính cách và số
phận như con người. Những truyện đồng thoại tiêu biểu như: Một cuộc bể
dâu, Dê và lợn, Ba anh em, Đôi Gi đá, Võ sĩ bọ ngựa, Đám cưới chuột, Mụ
ngan, Trê và cóc, đăc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký… đã thu hút sự chú ý của
nhiều thế hệ bạn đọc. Mỗi chuyện viết về loài vật của Tô Hoài đã “phản
chiếu” những cá tính, những phẩm chất và thói tật, những tốt- xấu, dở- hay
trong trạng thái tự nhiên của con người, đem lại những trang viết thể hiện chất
nhân văn sâu sắc và đem lại nhiều bài học bổ ích cho độc giả, nhất là các em
thiếu nhi.
Trước Cách mạng, truyện viết về loài vật của Tô Hoài thực ra là truyện
về xã hội loài người, sau Cách mạng, một loạt các truyện đồng thoại vui tươi,
nhộn nhịp về thế giới loài vật như: Con mèo lười, Cá đi ăn thề, Ò ó o, Đàn
chim gáy, Chim chích lạc rừng, Cậu Miu… đem lại một luồng sinh khí mới
trong sáng tác cho thiếu nhi. Bức tranh cuộc sống mới ấm no hạnh phúc đang
thay đổi từng ngày từng giờ trên đất nước, được nhà văn thể hiện qua những
truyện đồng thoại thật tinh tế và hấp dẫn.
Truyện viết về loài vật của Tô Hoài dành cho thiếu nhi mang một sắc
thái riêng. Nhà văn tìm đến hình thức truyện đồng thoại khiến độc giả nhỏ

tuổi rất say mê, thích thú. Nó phù hợp với tâm lý lứa tuổi, trình độ nhận thức
của các em. Hơn thế, những bài học nhận thức và giáo dục từ đó đi vào thế
giới tình cảm của trẻ thơ rất tự nhiên, nhẹ nhàng mà thấm thía, góp phần bồi
đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao cả cho tâm hồn trẻ thơ.

13


- Truyện thiếu nhi viết về những tấm gương yêu nước nhỏ tuổi
Viết về đề tài miền núi, Tô Hoài có không ít tác phẩm viết về người thật
việc thật. Từ Vừ A Dính, Hoa Sơn, Kim Đồng đến Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,
Nhà Chử, Lên Sùng Đô… đem lại một sắc thái mới cho sáng tác của ông. Vẫn
thống nhất trong cảm quan hiện thực đời thường, Tô Hoài xây dựng hình
tượng các nhân vật theo một phong cách riêng. Trong các tác phẩm đó, nhân
vật của Tô Hoài được hiện diện trên trang sách không phải từ những cuộc đối
đầu trực diện. căng thẳng với kẻ thù, hay từ những cảnh chiến thắng huy
hoàng, chiến công oanh liệt… mà hiện lên vô cùng chân thực, gần gũi ở bản
lĩnh kiên cường, lòng dũng cảm, ở lòng yêu nước với tinh thần gắn bó cách
mạng, ở sự hiếu học, chăm làm, thương cha mẹ, sẵn sàng hi sinh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc… Từ truyện Kim Đồng viết về tấm gương anh hùng
của Kim Đồng, tức Nông Văn Dền - người đội viên đầu tiên của Đội Thiếu
niên Tiền phong, Tô Hoài viết kịch bản phim Kim Đồng. Bộ phim giành được
bốn giải thưởng lớn tại Đại hội điện ảnh Á - Phi ở Gia-cac-ta năm 1963. Có
thể thấy rằng, viết về những tấm gương yêu nước nhỏ tuổi, sáng tác của Tô
Hoài sau Cách mạng có một ý nghĩa rất quan trọng. Những tấm gương hi sinh
vì nước của Hoa Sơn, Vừ A Dính, Kim Đồng mãi mãi được lưu giữ trong sử
sách và trở thành hình tượng bất tử trong nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Ngoài mảng truyện đồng thoại và truyện viết về các anh hùng nhỏ tuổi,
Tô Hoài còn tâm đắc với việc tìm tòi một số truyện cổ tích để viết lại, kiểu
tiểu thuyết hóa truyền thuyết và ông đã rất thành công với với bộ ba tiểu

thuyết Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử. Khác với truyện lịch sử của
Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân, An Cương, Nguyễn Đức Hiền ở giai đoạn trước,
truyện lịch sử của Tô Hoài viết chủ yếu dựa theo các truyền thuyết lịch sử,
chuyện đời xưa ít nhiều chứa đựng các yếu tố hoang đường và từ lâu đã rất
quen thuộc với các em thiếu nhi. Đây là một hướng đi cần thiết, bổ ích với

14


bạn đọc nhỏ tuổi. Tô Hoài đã đem đến cho các em một cảm quan về lịch sử
dân tộc qua những nét vẽ tài hoa, tinh tế về bức tranh phong cảnh, phong tục.
Cuốn tiểu thuyết Nhà chử là một trong những hướng khai thác mới của Tô
Hoài, từ những truyền thuyết và dã sử, Tô Hoài tái tạo theo phong cách riêng,
đi sâu thể hiện sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục thiên
nhiên, xây dựng cuộc sống mới. Cuốn tiểu thuyết lịch sử này đã khơi dậy ở
các em thiếu nhi khát vọng tìm hiểu thiên nhiên, đất nước, niềm tin vào ý chí,
nghị lực của con người. Những câu chuyện lịch sử viết về các anh hùng nhỏ
tuổi, dù tham gia kháng chiến, đi theo cách mạng hay gan dạ, mưu trí trong
chinh phục tự nhiên thì những anh hùng thiếu niên này vẫn luôn ánh lên vẻ
đẹp rạng ngời của người con yêu nước, yêu gia đình, có một tâm hồn vô tư,
trong sáng, cao đẹp.
Không chỉ đem đến cho các em thiếu nhi những bài học bổ ích, lý thú
qua những câu chuyện ngộ nghĩnh về loài vật, Tô Hoài còn đưa các bạn đọc
nhỏ tuổi đến với những tấm gương dũng cảm của các bạn thiếu niên vùng cao.
Qua đó các em nhỏ càng thêm yêu mến, cảm thông và khâm phục sự gan dạ,
mưu trí của các bạn thiếu nhi anh hùng. Tác giả Vân Thanh nhận xét rằng:
“Tô Hoài là một trong số ít nhà văn viết đều tay nhất cho thiếu nhi. Ông viết
nhiều loại truyện, về nhiều đề tài, nhiều lứa tuổi. Và điều quan trọng là có
nhiều tác phẩm hay, được các em ưa thích. Làm đọng lại trong tâm trí và tình
cảm các em những ấn tượng sâu” [16, tr.138]. Cũng theo tác giả Vân Thanh,

Tô Hoài là nhà văn nắm bắt tâm lý tuổi thơ rất giỏi: “Với lứa tuổi mười lăm,
lứa tuổi sắp bước vào đời, tác giả đặc biệt chú ý đến yêu cầu giáo dục lý
tưởng và đạo đức cách mạng. Vừ A Dính và Kim Đồng là những sáng tác
thích hợp với yêu cầu giáo dục của lứa tuổi này. Tác giả không thuyết lý khô
khan mà chú ý xây dựng hình ảnh cụ thể về những tấm gương thiếu nhi có
thực trong lịch sử.”[16, tr.138-139].

15


Có thể thấy truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài luôn dành được sự
quan tâm đặc biệt của cả người nghiên cứu và bạn đọc, chính lối viết mới lạ,
chân thực, cũng những bài học ý nghĩa của các câu chuyện đã làm nên sự hấp
dẫn đó, “Tô Hoài là một nhà văn viết cho thiếu nhi với tất cả ý thức trách
nhiệm, với niềm say mê và tâm huyết của mình. Tô Hoài xem nền văn học
cho thiếu nhi là một công cụ có tác dụng giáo dục trực tiếp cho các em. Và
người viết phải hết sức chú ý đến phương pháp giáo dục sao cho phù hợp với
các lứa tuổi” [15, tr.92]. Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự
nghiệp sáng tác của Tô Hoài, nhưng viết về những câu chuyện lịch sử, những
tiểu thuyết lịch sử còn ít ỏi. Vậy nên chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu về thế giới
nhân vật trong những câu chuyện lịch sử đó của Tô Hoài.

16


Chƣơng 2
CÁC LOẠI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI
VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CỦA TÔ HOÀI
2.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật

được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc
đáo, không lặp lại. Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách,
hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây
dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn
muốn đề cập trong tác phẩm. Vì vậy tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên
cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của
hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện.
2.1.1. Khái niệm nhân vật
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm nhân vật được định
nghĩa như sau: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác
phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu,
anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như thằng bán tơ, một mụ nào trong
Truyện Kiều. Trong truyện cổ tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để
nói chuyện con người. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như
một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng
nổi bật nào đó trong tác phẩm… Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật
đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời
sống” [6, tr.235].
Giáo sư Hà Minh Đức - trong cuốn Lí luận văn học cho rằng: “Nhân
vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không
phải là sự sao chụp mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện

17


con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…
Và cần chú ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân vật thường được quan
niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều…” [3,tr.182].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, khi bàn về nhân vật văn học, tác giả
Lại Nguyên Ân có viết: “Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con

người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong
nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các
con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc điểm
giống với con người. Nhân vật văn học là phương thức nghệ thuật nhằm khai
thác những nét thuộc tính con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các loại
văn học tự sự và kịch…” [1,tr.250-251].
Như vậy ở các góc cạnh tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra
những định nghĩa khác nhau về nhân vật, nhưng tựu chung đều thống nhất ở
điểm coi nhân vật là đối tượng mà văn học miêu tả, nhân vật có thể là con
người, đồ vật, con vật, hiện tượng, là hình ảnh ẩn dụ của con người, là đối
tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực.
2.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật
Cũng giống như khái niệm nhân vật, khái niệm thế giới nhân vật là một
phạm trù được hiểu theo nghĩa rất rộng:
- Thế giới nhân vật, có thể hiểu đó là một tổng thể những hệ thống nhân
vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư
tưởng tác giả.
- Thế giới nhân vật còn là sự cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn diện và
sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật.
2.2. Các loại nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi về đề tài lịch sử của
Tô Hoài
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam, giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định:
“Những thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong quá trình chiếm lĩnh phương

18


pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung vào đề tài miền núi. Trong phạm vi
đề tài này anh cũng viết được nhiều truyện thiếu nhi có giá trị như: Kim
Đồng, Vừ A Dính, tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ…”. Thế giới nhân vật trong

truyện thiếu nhi về đề tài lịch sử của Tô Hoài rất phong phú, đa dạng, bình dị,
gần gũi, những nhân vật như Kim Đồng, Vừ A Dính, Hoa Sơn… được Tô
Hoài xây dựng bằng chiều sâu nhận thức, hiện lên vô cùng sinh động, giản dị
nhưng chuyển tải được cái nhìn sâu sắc.
2.2.1. Nhân vật thiếu nhi yêu nước, dũng cảm, mưu trí
Nhân vật Kim Đồng trong tác phẩm cùng tên đã trở lên vô cùng thân
quen với bạn đọc cả nước. Hình ảnh về người anh hùng nhỏ tuổi này được
nhiều nhà văn, nhà thơ tái hiện lại ở các phương diện khác nhau. Trong bài
thơ “Lượm” của Tố Hữu, hình ảnh chú bé liên lạc Kim Đồng hiện lên rất hồn
nhiên, vui tươi, đáng yêu:
Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh,
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…
Còn trong tác phẩm “Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quán, hình ảnh chú
bé Kim Đồng hiện lên là một người vô cùng mưu trí, tác giả tập trung khắc
họa những khó khăn, thử thách gian nguy mà Kim Đồng gặp phải trong quá
trình đi liên lạc, nhưng Kim Đồng bằng sự mưu trí, dũng cảm của mình đã
vượt qua tất cả để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao cho.

19


Trong Kim Đồng của Tô Hoài, hình ảnh Kim Đồng hiện lên rất chân
thực, giản dị. Tô Hoài không đi vào miêu tả những chiến công, những trận
đánh ác liệt, mà ông đi sâu vào thể hiện chính con người, tính cách, cuộc đời,

tâm lý nhân vật Kim Đồng, đem đến cho bạn đọc một cái nhìn xác thực, gần
gũi nhất về nhân vật.
Kim Đồng là thiếu nhi dân tộc Tày, quê ở Nà Mạ, Cao Bằng, tên cha
mẹ đặt cho là Nông Văn Dền. Tuy mới mười ba tuổi nhưng Kim Đồng đã
hăng hái tham gia cách mạng, với em “giao thông, liên lạc, canh gác em đều
làm được cả”. Kim Đồng lớn lên giữa những năm Cao-Bắc-Lạng đang sục sôi
chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Em được cán bộ trực tiếp dìu dắt nên sớm giác ngộ
cách mạng và trở thành đội viên thứ nhất của Đội thiếu niên nhi đồng cứu
quốc đầu tiên của nước ta thành lập ở Nà Mạ - Hà Quảng - Cao Bằng. Làng
Nà Mạ, châu Hà Quảng ngày ấy chỉ có khoảng hai mươi nóc nhà dân tộc
Nùng. Từ những hội đánh Tây trước kia, cho đến cao trào Việt Minh đánh
Pháp đuổi Nhật, cả làng Nà Mạ cùng tham gia, từ cụ già đến em nhỏ đều vào
hội cứu quốc. Như ở gia đình Kim Đồng, cả hai anh em đều sớm giác ngộ
cách mạng và cùng tham gia hoạt động cho cách mạng.
Dù mới mười ba tuổi nhưng Kim Đồng rất mưu trí, nhanh nhẹn, chăm
chỉ. Tận mắt chứng kiến cảnh lính bắt cha, bắt anh đi xây lô cốt trên đồn, cảnh
bọn lính Tây ăn cắp lồng vịt của mình giữa chợ và bị bọn lính đánh khi đang
đun nước cho chúng uống…Kim Đồng nhận ra cái ác cái xấu của bọn giặc,
nên em đã hăng hái tham gia vào hội cách mạng đi đánh Tây với lòng quyết
tâm rất cao “Thằng lính lấy cái bu vịt, chém cái dấu chỗ này. Thằng lính bắt
bố đi cho cướp đánh chết ở chợ Sóc, em chém chỗ này. Hôm nay thằng lính
đánh em, em chém cái dấu chỗ này. Chém thế để nhớ, anh ạ” [8, tr.403]. Kim
Đồng nhận công việc nguy hiểm, đó là đi làm liên lạc, đưa những bức thư có
thông tin cách mạng quan trọng cho cán bộ, dù nguy hiểm nhưng lần nào Kim

20


×