Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận KTQT quá trình hội nhập lĩnh vực dịch vụ trong cộng đồng kinh tế ASEAN và tình hình thực tế tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.84 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Tra
Tóm tắt.................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN..............2
1. Giới thiệu chung về Cộng đồng kinh tế ASEAN.......................................2
2. Các nội dung của Cộng đồng Kinh tế ASEAN..........................................2
3. Các Hiệp định quan trọng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN.................2
CHƯƠNG II: MỘT SỐ NỘI DUNG CAM KẾT VỀ LĨNH VỰC DỊCH VỤ
CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN............................................................2
1. Cam kết chung trong Cộng đồng kinh tế ASEAN....................................2
1.1.

Hiệp định khung ASEAN về lĩnh vực dịch vụ (AFAS)....................2

1.2.

Thỏa ước thừa nhận lẫn nhau (MRA) trong ngành dịch vụ..........2

2. Cam kết trong một số nhóm ngành dịch vụ..............................................2
2.1.

Dịch vụ du lịch..................................................................................2

2.2.

Dịch vụ công nghệ thông tin (ITC)..................................................2

2.3.



Dịch vụ Logistics...............................................................................2

CHƯƠNG 3: VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP LĨNH VỰC
DỊCH VỤ VỚI CỘNG ĐỒNG ASEAN.............................................................2
1. Cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam trong AEC......................2
2. Tình hình thực tế của quá trình hội nhập dịch vụ tại Việt Nam.............2
2.1.

Những điều chỉnh trong khung pháp lý...........................................2

2.2.

Tình hình phát triển một số nhóm ngành dịch vụ...........................2

2.2.1. Dịch vụ Du lịch...............................................................................2
2.2.2. Dịch vụ Logistics.............................................................................2
2.2.3. Dịch vụ Công nghệ thông tin..........................................................2
3. Cơ hội và thách thức...................................................................................2
3.1.

Cơ hội.................................................................................................2

3.2.

Thách thức.........................................................................................2

4. Giải pháp......................................................................................................2
KẾT LUẬN..........................................................................................................2
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................2



YTóm tắt
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào cuối năm 2015 và
được đánh giá là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập toàn diện của các nền
kinh tế khu vực Đông Nam Á. Trong lộ trình hướng tới mục tiêu hình thành một
thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, tự do hóa thương mại dịch vụ được
nhận định là một trong những nội dung cơ bản và trọng yếu nhất. Chính vì vậy,
trong thời gian qua, các quốc gia thành viên AEC đã có nhiều nỗ lực trong việc
tăng cường hợp tác, thúc đẩy khai thác tiềm năng từ lĩnh vực dịch vụ. Nền kinh
tế Việt Nam trong vai trò thành viên AEC cũng đã và đang có những biến
chuyển và hướng đi mới để hướng tới hội nhập lĩnh vực dịch vụ với nền kinh tế
toàn khu vực. Bài viết này tập trung phân tích những cam kết chung cũng như
những cam kết về một số nhóm ngành dịch vụ riêng biệt đã đạt được trong
AEC. Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra những cam kết của Việt Nam đối với lĩnh
vực dịch vụ; làm rõ tình hình thực hiện quá trình hội nhập lĩnh vực dịch vụ với
những điều chỉnh trong khung pháp lý và tình hình thích ứng trong một số
nhóm ngành dịch vụ. Bài viết cũng đánh giá về những cơ hội và thách thức đặt
ra cho nền kinh tế Việt Nam và gợi ý một số giải pháp khả dụng để giúp Việt
Nam thúc đẩy quá trình hội nhập lĩnh vực dịch vụ diễn ra nhanh chóng và hiệu
quả hơn.

Danh sách thành viên
1. Trịnh Thị Thu Hương
Ngày sinh: 02/03/1996
MSSV: 1413320027
2. Nguyễn Thị Khánh Huyền
Ngày sinh: 02/03/1996
MSSV: 1413320027
3. Lê Đức Cường

Ngày sinh: 07/12/1996
MSSV: 1413320012

LỜI MỞ ĐẦU
Cuối năm 2015, sự kiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được
thành lập đã đánh dấu một kỉ nguyên mới của sự hội nhập toàn diện về mọi
mặt của các nền kinh tế khu vực Đông Nam Á. Cộng đồng Kinh tế ASEAN
1


hứa hẹn sẽ mở ra nhiều cơ hội quý giá và cả những thách thức cho các nền
kinh tế quốc gia thành viên. Trong các nội dung cơ bản của Cộng đồng
Kinh tế ASEAN, hội nhập và hướng tới tự do hóa thương mại dịch vụ là
một trong những vấn đề cấp thiết và có tầm quan trọng, quyết định sự lớn
mạnh của AEC. Chính vì vậy, Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã và đang có
những động thái tích cực nhằm tăng cường sự giao lưu, hợp tác trong lĩnh
vực dịch vụ giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực. Nhiều cam kết
chung và riêng về các nhóm ngành dịch vụ đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển của lĩnh vực dịch vụ.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang nỗ lực để có thể thực hiện tốt quá
trình hội nhập dịch vụ và hướng tới tự do hóa thương mại dịch vụ với các
nền kinh tế trong AEC. Tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt
Nam sẽ có cơ hội phát triển được nhiều tiềm năng và nguồn lực của mình,
xây dựng và phát triển lĩnh vực dịch vụ, thu hút được vốn đầu tư và thu
những lợi ích to lớn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đứng
trước nhiều khó khăn và thách thức để có thể bảo vệ và khẳng định vị thế
của mình trong nền kinh tế khu vực và trên thế giới, cũng như có thể nâng
cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ giữa một môi trường năng động
và hiện đại. Do vậy cần phải nghiên cứu kĩ và có các định hướng nhất định
cho quá trình phát triển của lĩnh vực này để có thể mang lại lợi ích thiết

thực cho nền kinh tế.
Chính vì thế, nhóm chúng em đã mạnh dạn chọn đề tài : “QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP LĨNH VỰC DỊCH VỤ TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ
ASEAN VÀ TÌNH HÌNH THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM ”, với hy vọng qua đây

sẽ có được cái nhìn rõ ràng và chân thực hơn về lĩnh vực dịch vụ trong
Cộng đồng Kinh tế ASEAN cũng như quá trình hội nhập lĩnh vực dịch vụ
của Việt Nam để từ đó rút ra các nhận định đánh giá của bản thân.
Bài viết này chắc chắn không thể tránh khỏi nhiều sai sót và bất cập
do cái nhìn chủ quan của người viết. Vì vậy, nhóm em chân thành mong
muốn được nhận ý kiến đánh giá và góp ý cải thiện từ cô và các bạn cùng
trang lứa. Chúng em xin trân trọng cảm ơn!

CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
1.

Giới thiệu chung về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
2


Cộng đồng Kinh tế ASEAN – ASEAN Economic Community (AEC) là một
trong ba trụ cột quan trọng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN:
kinh tế, chính trị – an ninh, văn hóa – xã hội. Đây là khối hợp tác kinh tế khu vực
của các quốc gia thành viên ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra trong
Tầm nhìn ASEAN và những mục tiêu được khẳng định trong Tuyên bố Hòa hợp
ASEAN (Tuyên bố Bali II): “Tạo dựng một khu vực kinh tế ASEAN ổn định,
thịnh vượng và cạnh tranh cao, nơi có sự di chuyển tự do của hàng hóa,dịch vụ,
đầu tư, và có sự di chuyển tự do hơn của các luồng vốn, phát triển kinh tế đồng
đều và giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về kinh tế - xã hội…”. Ngày

22/11/2015, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, lãnh đạo 10 nước thành
viên trực thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN đã chính thức thông
qua Tuyên bố thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), cam kết thúc đẩy tự
do thương mại và đầu tư tài chính. Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ chính thức có
hiệu lực vào ngày 31/12/2015 và hứa hẹn đánh dấu một cơ hội lớn về đầu tư và
thương mại cho tất cả các nước thành viên ASEAN và các nhà đầu tư nước
ngoài.

2.

Các nội dung của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
Bốn đặc điểm đồng thời cũng là yếu tố cấu thành của Cộng đồng Kinh tế
ASEAN bao gồm tạo dựng:
Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất thống nhất: xây dựng thông qua
các nội dung như Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do
lưu chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay
nghề. Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ thực hiện để xây dựng một thị trường
chung và cơ sở sản xuất thống nhất bao gồm: dỡ bỏ thuế quan và các hàng rào
phi thuế quan; thuận lợi hóa thương mại, hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm
(hợp chuẩn) và quy chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và xuất
nhập khẩu, hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ, tạo thuận lợi cho dịch vụ, đầu tư,
tăng cường phát triển thị trường vốn ASEAN và tự do lưu chuyển hơn của dòng
vốn, thuận lợi hóa di chuyển lao động có tay nghề (di chuyển thể nhân) v.v., song
song với việc củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua đẩy mạnh kết nối
về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải,
công nghệ thông tin và viễn thông, cũng như phát triển các kỹ năng thích hợp.
Một khu vực cạnh tranh về kinh tế: xây dựng thông qua các khuôn khổ về
cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng,
thuế quan và thương mại điện tử. ASEAN đã và đang thúc đẩy các chính sách
cạnh tranh, bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng như hệ thống đường bộ,

đường sắt, đầu tư cho năng lượng,…
Phát triển kinh tế cân bằng, đồng đều: được thực hiện thông qua các kế
hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội
3


nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN. ASEAN đã thông qua
và đang triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED),
trong đó đáng chú ý là các biện pháp hỗ trợ các nước thành viên mới, khuyến
khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu: được thực hiện thông qua việc tham vấn
chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung
cấp toàn cầu (WTO). ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các
thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với 6 Hiệp định Khu vực mậu dịch
tự do (FTAs) đã được ký với các Đối tác quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân, và đang trong quá trình đàm phán
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) hướng đến hình thành một
không gian kinh tế mở toàn Đông Á.

3.

Các Hiệp định quan trọng trong Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC)
Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA): ATIGA là hiệp định
toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội
khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt giảm/loại bỏ thuế
quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các Hiệp định, Nghị định thư
có liên quan. Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực
chung của ASEAN tới việc xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải
quan và vệ sinh, kiểm dịch... đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa

các thành viên ASEAN trong bối cảnh xây dựng AEC.
Hiệp định Khung vê Dịch vụ ASEAN (AFAS): Hiệp định Khung về Dịch vụ
của ASEAN (AFAS) được ký năm 1995 và Nghị định thư sửa đổi AFAS ký năm
2003 nhằm điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ giữa các nước ASEAN. Nội
dung của AFAS tương tự Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ của WTO.
Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA): Hiệp định Đầu tư Toàn diện
ASEAN (ACIA) được ký kết tháng 2/2009 và có hiệu lực từ 29/3/2012 thay thế
cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN (IGA) 1987 và Hiệp
định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998). ACIA bao gồm 4 nội dung chính: Tự
do hóa đầu tư, Bảo hộ đầu tư, Thuận lợi hóa đầu tư và Xúc tiến đầu tư. Phạm vi
điều chỉnh của ACIA bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp.

4


CHƯƠNG II:
MỘT SỐ NỘI DUNG CAM KẾT VỀ LĨNH VỰC DỊCH VỤ CỦA
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
1.

Cam kết chung trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN

1.1.

Hiệp định khung ASEAN về lĩnh vực dịch vụ (AFAS)

Hiệp định Khung về Dịch vụ của ASEAN (AFAS) được ký năm 1995 và
Nghị định thư sửa đổi AFAS được ký vào năm 2003 nhằm điều chỉnh hoạt động
cung cấp dịch vụ giữa các nước ASEAN. Theo đó AFAS hướng tới các mục tiêu
sau:

Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ ngay tại các quốc gia thành viên
ASEAN để nâng cao tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh ngành dịch vụ
ASEAN, đa dạng hóa năng lực sản xuất, nguồn cung và phân phối dịch vụ.
Xóa bỏ rào cản thương mại trong lĩnh vực dịch vụ.
Tự do hóa thương mại dịch vụ bằng việc tự do hóa sâu và rộng hơn, không
chỉ dừng lại ở những dịch vụ được đề cập tới trong hiệp định thương mại chung
về dịch vụ của tổ chức thương mại thế giới.
Theo AFAS, các nước thành viên cam kết tiếp tục tham gia vào các vòng
đàm phán tự do hóa thương mại dịch vụ nội khối ASEAN. Các vòng đàm phán
đều hướng tới mức độ cam kết cao hơn trong lĩnh vực này, đây là những cam kết
nằm trong gói cam kết dịch vụ được đề cập đến trong phụ lục của Hiệp định
Khung.
Cho đến nay, các nước ASEAN đã đạt được 8 gói cam kết về dịch vụ, 5
gói cam kết dịch vụ tài chính, 7 gói dịch vụ vận tải đường hàng không và đưa ra
các ngành dịch vụ ưu tiên tự do hoá trong khối. Hiện tại các nước ASEAN đang
đàm phán Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA) nhằm nâng cấp Hiệp
định AFAS và tổng hợp các cam kết dịch vụ trong các FTA ASEAN với các đối
tác bên ngoài ASEAN.

1.2.

Thỏa ước thừa nhận lẫn nhau (MRA) trong ngành dịch vụ

Thỏa ước thừa nhận lẫn nhau (MRA) trong ngành dịch vụ, một ngành khá
phát triển gần đây trong ASEAN, cho phép chứng chỉ của các nhà cung cấp dịch
vụ được cấp bởi các cơ quan chức năng tương ứng tại quốc gia của mình sẽ được
thừa nhận bởi các nước thành viên khác trong khu vực. Việc này sẽ tạo động lực
cho các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN hoạt động theo đúng
những nguyên tắc và quy định tương ứng trong nước.
Hiệp định khung ASEAN trong ngành dịch vụ (AFAS) đã ghi nhận tầm

quan trọng của MRA trong việc hội nhập toàn bộ ngành dịch vụ trong ASEAN.
Điều khoản số V của AFAS thể hiện: “Mỗi nước thành viên có thể thừa nhận
5


trình độ giáo dục, kinh nghiệm, tiêu chuẩn, hoặc bằng cấp, chứng chỉ được cấp
tại một nước thành viên ASEAN khác miễn là chúng phản ánh đúng mục đích
cấp bằng hoặc chứng chỉ. Sự thừa nhận này có thể căn cứ vào hiệp định hoặc
thỏa ước giữa các nước thành viên liên quan hoặc được chấp nhận một cách tự
động”. Các nguyên thủ ASEAN tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 diễn ra vào
năm 2001 tại Bandar Seri Begawan, Brunei Darussalam đã đồng ý bắt đầu đàm
phán MRA để tăng cường dòng chu chuyển dịch vụ chuyên nghiệp theo AFAS.
Ủy ban điều phối dịch vụ ASEAN (CCS) đã lập một nhóm chuyên gia MRA
trong ngành dịch vụ vào tháng 7 năm 2003 để đàm phán MRAs dịch vụ. Đến
nay, ASEAN đã ký kết 7 MRAs trong các lĩnh vực sau: dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ
điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, thừa nhận lẫn nhau đối với chứng chỉ giám sát,
người hành nghề y, người hành nghề nha khoa, kế toán và du lịch.

2.

Cam kết trong một số nhóm ngành dịch vụ

2.1.

Dịch vụ du lịch

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN (MRA – TP) được ký vào
tháng 1 năm 2009 và có hiệu lực vào tháng 5/2015. MRA – TP là một hệ thống
tiêu chuẩn nghề của ngành Du lịch được công nhận và tương thích đồng đều về
chất lượng nhân sự và dịch vụ trong toàn khối ASEAN. Nhiệm vụ của MRA - TP

là tạo ra một cơ chế giúp thống nhất và công nhận tương đương trình độ năng lực
nghề Du lịch - Nhà hàng - Khách sạn trong toàn ASEAN để lao động ngành này
của một nước có thể được công nhận tay nghề và làm việc tại bất kỳ nước nào
khác trong khu vực mặc dù mỗi nước hiện còn có những quy định, hệ thống tiêu
chuẩn nghề về đánh giá, cấp chứng chỉ, công nhận năng lực nghề của người lao
động là khác nhau.

2.2.

Dịch vụ công nghệ thông tin (ITC)

Hội nghị Bộ trưởng viễn thông và Công nghệ thông tin ASEAN (ASEAN
TELMIN) lần thứ 15 ngày 27/11/2015 tại Hà Nội đã công bố Kế hoạch tổng thể
về Công nghệ thông tin và truyền thông ASEAN 2020. Đây là văn kiện có tính
chất định hướng cho các hoạt động hợp tác và phát triển ITC giữa các nước
ASEAN trong giai đoạn 2016 – 2020. Văn kiện đã nêu tám định hướng chiến
lược triển khai trong 5 năm tới, bao gồm: ITC đối với chuyển đổi và phát triển
kinh tế; hội nhập và nâng cao vai trò của con người thông qua ITC; đẩy mạnh
sáng tạo; phát triển cơ sở hạ tầng ITC; phát triển nguồn nhân lực ITC; một thị
trường ITC chung; các nội dung và thông tin truyền thông mới, an toàn an ninh
thông tin.
Cũng tại hội nghị này, các Bộ trưởng các nước thành viên ASEAN cũng
đã ký Biên bản ghi nhớ (MoU) giữa ASEAN và Liên minh Viễn thông quốc tế
6


ITU giai đoạn 2016 – 2020. Hội nghị cũng thông qua Kế hoạch hợp tác ITC 2016
ASEAN với một số đối tác ngoài khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.

2.3.


Dịch vụ Logistics

Khu vực ASEAN đang tiến tới việc hội nhập trên nhiều lĩnh vực, một
trong số đó là các các hoạt động Logistics. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động giao thông vận tải trong khu vực ASEAN bao gồm:Tạo điều kiện
thuận lợi cho hàng hóa, hành khách quá cảnh; Giao thông vận tải đa phương
thức; và các hoạt động vận tải liên quốc gia. Trên thực tế, khu vực ASEAN đã
triển khai Hiệp định ASEAN về việc tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá quá
cảnh (ký kết năm 1998 tại Hà Nội) bao gồm tám Nghị định thư. Bên cạnh đó,
ASEAN cũng đã và đang triển khai các Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa
phương thức (đã ký năm 2005 tại Viêng Chăn, Lào). Các quốc gia xác định và
phát triển mạng lưới hành lang logistics vận tải, đề ra các yêu cầu phát triển kết
cấu hạ tầng cần thiết nhằm hỗ trợ việc cải thiện mạng lưới vận tải nội địa với vận
tải biển qua đó cải thiện sự liên kết giữa các cửa ngõ logistics của ASEAN với
nhau (bắt đầu thực hiện năm 2007).
Tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 39 họp tại
Manila, Philippines vào ngày 24 tháng 8 năm 2007, các Bộ trưởng đã thông qua
và ký Nghị định thư về lộ trình hội nhập ASEAN về dịch vụ Logistics. Đây là
ngành ưu tiên hội nhập thứ 12 của ASEAN. Mục tiêu của Lộ trình là nhằm tạo ra
một thị trường chung ASEAN vào năm 2015 thông qua việc tăng cường hội nhập
kinh tế ASEAN bằng các biện pháp tự do hóa và tạo thuận lợi tên lĩnh vực dịch
vụ logistics; hỗ trợ việc hình thành và nâng cao khả năng cạnh tranh của một nền
sản xuất ASEAN qua việc tạo nên một môi trường Logistics ASEAN liên kết và
thống nhất. Lộ trình chia ra làm 5 loại biện pháp thực hiện với 44 biện pháp chi tiết.

7


CHƯƠNG 3:

VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP LĨNH VỰC
DỊCH VỤ VỚI CỘNG ĐỒNG ASEAN
1.

Cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam trong AEC

Cho đến nay, các nước ASEAN đã đạt được 8 gói cam kết về dịch vụ,
trong đó gói AFAS 8 được ký kết vào ngày 28/10/2010. So với Bản cam kết
trong AFAS 6 và AFAS 7, Bản cam kết AFAS 8 của Việt Nam đã mở rộng hơn về
phạm vi cam kết và sâu hơn về phạm vi cam kết, thể hiện vai trò quan trọng của
việc mở cửa thị trường dịch vụ cho các nước trong khu vực. Các cam kết chung
của Việt Nam trong AFAS 8 giống với cam kết chung của Việt Nam trong Hiệp
định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS) và về cơ bản là liên quan
đến Mode 3 (Hiện diện thương mại) và Mode 4 (Hiện diện thể nhân).
Với cam kết cụ thể, về phạm vi cam kết, trong khuôn khổ AFAS 8, Việt
Nam cam kết mở cửa thị trường dịch vụ với 11/12 ngành và tính theo phân ngành
là khoảng 111 phân ngành. So với AFAS 7, Việt Nam đã mở cửa với 16 phân
ngành mới. So với cam kết GATS, Việt Nam mở cửa nhiều phân ngành hơn trong
dịch vụ thông tin liên lạc, y tế, du lịch, vận tải, môi trường và mở cửa ít phân
ngành hơn trong dịch vụ kinh doanh. Điều này là hợp lý vì hầu hết các ngành
Việt Nam mở cửa nhiều phân nhành hơn đều là những ngành ưu tiên tự do hoá
của ASEAN hoặc là những ngành ASEAN có gói cam kết riêng. Các ngành dịch
vụ khác, số lượng phân ngành mở cửa là như nhau. Việt Nam cam kết mở cửa
cao nhất đối với dịch vụ môi trường, tiếp đó là dịch vụ tài chính, y tế. Mức độ
cam kết mở cửa thấp nhất đối với dịch vụ văn hoá, giải trí, thể thao và dịch vụ
giáo dục.

2.

Tình hình thực tế của quá trình hội nhập dịch vụ tại Việt Nam


2.1.

Những điều chỉnh trong khung pháp lý

Đối với thực hiện các cam kết chung liên quan đến vấn đề Hiện diện
thương mại (Mode 3), Việt Nam đã cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài nói chung, các nhà cung cấp dịch vụ ASEAN nói riêng được thiết lập các
hiện diện thương mại dưới các hình thức đã cam kết gồm hợp đồng hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,văn phòng
đại diện. Để phù hợp với cam kết, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi một số Luật
liên quan như Luật đầu tư, Luật Thương mại, Luật doanh nghiệp và ban hành
nhiều Nghị định, văn bản hướng dẫn các Luật này. Nhìn chung, các Luật sửa đổi
và các văn bản hướng dẫn bám khá sát luật Việt Nam nhưng đồng thời cũng phù
hợp với các cam kết chung của Việt Nam về các hình thức hiện diện thương mại.
8


Bên cạnh đó, Luật đầu tư 2005 được áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài, giúp Việt Nam có thể thực hiện tốt nguyên tắc đối xử quốc
gia (NT) nhằm đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa nhà cung cấp dịch vụ trong
nước và nước ngoài.
Đối với thực hiện các cam kết chung liên quan đến vấn đề Hiện diện thể
nhân (Mode 4), việc cung cấp dịch vụ thông qua Hiện diện thể nhân hiện nay
được điều chỉnh bởi các văn bản chủ yếu gồm: Luật Đầu tư 2005; Pháp lệnh năm
2000 về Nhập cảnh, Xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam; Bộ
luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động. Tuy nhiên,
cần lưu ý là cũng giống như các nước thành viên ASEAN khác, Việt Nam hầu
như không cam kết đối với Hiện diện thể nhân. Do đó, trong khi Việt Nam tích
cực rà soát và sửa đổi các văn bản pháp luật của Việt Nam theo hướng chú trọng

đến việc thực hiện cam kết trong Hiện diện thương mại, thì các cam kết chung
trong Hiện diện thể nhân dường như bị bỏ qua. Có thể thấy các quy định của
Pháp lệnh cũng như Luật đầu tư nhìn chung chưa đáp ứng cam kết của Việt Nam.
Nhiều Điều, Khoản trong Pháp lệnh chưa rõ ràng, chính xác, bộc lộ nhiều bất
cập, mâu thuẫn. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang tiến hành sửa đổi một số
văn bản liên quan đến lao động để đảm bảo tuân thủ cam kết của Việt Nam trong
GATS cũng như AFAS.

2.2.

Tình hình phát triển một số nhóm ngành dịch vụ

2.2.1. Dịch vụ Du lịch
Việt Nam cũng đã ký kết Nghị định thư Hội nhập ngành du lịch ASEAN
cũng như đã tham gia tích cực, toàn diện và có những đóng góp quan trọng đối
với du lịch ASEAN. Trong lĩnh vực đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch,
Việt Nam đã chủ trì xây dựng Sách hướng dẫn thực hiện Thỏa thuận công nhận
lẫn nhau đối với các nghề du lịch ASEAN. Từ năm 2013, Việt Nam đã đảm
nhiệm vai trò Trưởng nhóm công tác Marketing và Truyền thông, phát huy vai
trò chủ động, tích cực trong hợp tác du lịch ASEAN, được các nước đánh giá
cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang chủ trì nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch
đường sông ASEAN, với sự hỗ trợ và hợp tác của Tổ chức Du lịch thế giới,
Malaysia và các nước ASEAN.
Từ khi trở thành thành viên của ASEAN, du lịch Việt Nam đã coi trọng
đẩy mạnh hợp tác đa phương với các nước bạn và đạt được kết quả đáng khích lệ,
thu hút ngày càng nhiều khách quốc tế đến từ khu vực ASEAN. Những năm gần
đây, lượng khách từ thị trường ASEAN vào Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá
cao.Số lượt khách du lịch ASEAN đến Việt Nam chỉ đạt khoảng 8,5% năm 2009
thì đến năm 2012 đã tăng lên gần 20%. Việt Nam hiện nằm trong tốp 5 điểm đến
hàng đầu khu vực ASEAN và tốp 100 điểm đến hấp dẫn của du lịch thế giới.

Theo Số liệu của Tổng cục du lịch năm 2014, số lượt khách du lịch ASEAN sang
9


Việt Nam năm 2013 là hơn 1,5 triệu lượt trong tổng số hơn 7,5 triệu lượt khách
du lịch đến Việt Nam, chiếm khoảng 20%.

2.2.2. Dịch vụ Logistics
Việt Nam đã ký Nghị định thư về lộ trình hội nhập ASEAN về Dịch vụ
Logistics và cam kết tự do hóa hầu hết các phân ngành chủ yếu trong dịch vụ
Logistics đến năm 2013. Đến nay, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện hệ
thống văn bản luật lệ, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và có chính sách cụ
thể về Logistics phù hợp với các cam kết trong ASEAN. Việt Nam cũng đã đạt
mức tự do hóa có ý nghĩa với một lộ trình hợp lý đối với các phân ngành bổ trợ
cho dịch vụ Logistics. Đối với một số phân ngành dịch vụ mà Việt Nam có lợi
thế cung cấp như dịch vụ xếp dỡ container với hàng hóa vận chuyển đường biển,
đại lý kho bãi và đại lý vận tải hàng hóa, dịch vụ thông quan…Việt Nam đặt hạn
chế vốn góp nước ngoài không vượt quá 50% hoặc đặt ra lộ trình cho phép tăng
vốn góp của phía nước ngoài từ 5 -7 năm. Trong nội bộ ASEAN. Việt Nam được
đánh giá chúng ta đã phát huy hiệu quả chương trình kết nối Logistics trong khu
vực ASEAN.

2.2.3. Dịch vụ Công nghệ thông tin
Việt Nam đã và đang tăng cường hợp tác song phương về Viễn thông và
Công nghệ thông tin với các nước ASEAN. Hội nghị ASEAN TELMIN lần thứ
15 tổ chức tại Việt Nam cũng góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển của ngành
Công nghệ thông tin Việt Nam với các nước trong khu vực. Việt Nam cũng đã có
những nỗ lực để hình thành một nền tảng cho sự phát triển của Chính phủ điện tử
theo đúng tinh thần của Nghị định thư Hội nhập e-ASEAN như: xây dựng và
triển khai thành công nhiều Dự án, Đề án ứng dụng công nghệ thông tin; xây

dựng và đưa vào hoạt động thử nghiệm Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp
luật; xây dựng và triển khai các phần mềm ứng dụng. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng đã có những nỗ lực để thực hiện điện tử hoá các biện pháp liên quan trong
đó nổi bật là Hải quan điện tử như áp dụng thủ tục hải quan điện tử và Hệ thống
quản lý & cấp chứng nhận xuất xứ điện tử.

3.

Cơ hội và thách thức

3.1.

Cơ hội

Việt Nam đã có những nỗ lực mở cửa thị trường dịch vụ trong gói AFAS
8, điều này giúp Việt Nam đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong
việc hội nhập AEC trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.Việt Nam được đánh giá là
đã thực hiện nghiêm túc các cam kết chung, cam kết cụ thể và có động thái chủ
động trong việc tham gia vào mở cửa các lĩnh vực dịch vụ ưu tiên của ASEAN.

10


Việc gia nhập AEC cũng hứa hẹn mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội tiềm
năng để phát triển lĩnh vực dịch vụ của mình:
Cơ hội có được thị trường rộng lớn hơn: ASEAN có tổng GDP trên 2,7
nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%-6% hàng năm. Dân số trên 600 triệu
người, với cơ cấu dân số tương đối trẻ. Thu nhập bình quân đầu người trên 4.500
USD/người/năm. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2012 đạt 110 tỷ USD. AEC với
việc tự do hóa dịch chuyển dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các

hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Đầu tư nước ngoài trực tiếp
gia tăng và hoạt động kinh tế ở khu vực đương nhiên sẽ mang lại việc gia tăng
nhu cầu bảo hiểm ở Đông Nam Á. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể đầu tư
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhiều hơn. Đây là cơ hội tốt để các
doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường dịch vụ.
Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ: Khi AEC
được thành lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn. Điều này
cũng dẫn tới sự thiết yếu của việc nâng cao chất lượng, quy mô của các sản phẩm
dịch vụ của Việt Nam để có thể chiếm được ưu thế và cạnh tranh được với các
sản phẩm dịch vụ từ các nền kinh tế thành viên khác của ASEAN. Thêm vào đó,
khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có
điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành các sản phẩm thuộc lĩnh vực dịch vụ, góp
phần gia tăng năng lực cạnh tranh.
Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư: Cơ hội được trông đợi nhất từ việc gia
nhập AEC là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Việc kết
nối và xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn sẽ khiến các nhà đầu
tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi chung, ở đó có khối nguồn lực thống nhất,
đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ. AEC cũng sẽ
giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường dịch vụ từ thủ tục hải quan, thủ tục
hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư cân bằng hơn. Thu hút đầu tư nhiều
hơn đồng nghĩa với quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh và tích cực
hơn, góp phần nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ.
Nếu phát huy được các tiềm năng sẵn có, kết hợp với việc đẩy mạnh giao
lưu, hợp tác cùng phát triển với các quốc gia trong ASEAN và ngoài khu vực,
ngành dịch vụ của Việt Nam có thể phát triển mạnh mẽ và vươn lên nhóm đầu
trong khu vực. Điều này sẽ góp phần không nhỏ giúp nâng cao vị thế của Việt
Nam trên thế giới, tạo điều kiện để mở rộng thị trường dịch vụ, thu hút được
nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước.

3.2.


Thách thức

Quá trình tiến tới hội nhập thương mại dịch vụ tại Việt Nam hứa hẹn đem
lại nhiều tiềm năng phát triển nhưng cũng đồng thời đặt ra không ít thách thức
đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ:
11


Chênh lệch về trình độ phát triển: Hiện tại Việt Nam vẫn đang phải đối
diện với thách thức về chênh lệch trình độ phát triển so với các nước ASEAN - 6.
Khi đã gia nhập AEC, Việt Nam sẽ phải tập trung nguồn lực để phát triển thị
trường dịch vụ ở cả quy mô vốn, chất lượng doanh nghiệp, trình độ khoa học
công nghệ,… để có thể bắt kịp với một số nền kinh tế lớn của ASEAN.
Sự cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài: Với việc đẩy
mạnh tự do hóa thương mại dịch vụ nội khối, hàng rào thuế quan và phi thuế
quan giữa các nước thành viên AEC sẽ dần bị xóa bỏ. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp
dịch vụ từ các nước thành viên ASEAN. Hiện nay các rào cản, điều kiện đối với
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn tương đối cao, do đó các
doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam đang được “bao bọc” khá kỹ lưỡng trong nhiều
lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên việc gia nhập AEC đòi hỏi các doanh nghiệp sẽ phải
ứng biến nhanh nhạy, tự làm mới mình để có thể nâng cao sức cạnh tranh trong
một môi trường dịch vụ khốc liệt.
Theo đánh giá thực trạng chung của ASEAN, trong đó có Việt Nam, đó là
lĩnh vực tự do hoá thương mại dịch vụ chưa đạt được hiệu quả cao. Việt Nam
trong các giai đoạn vừa qua có mức thực thi khá cao, tuy nhiên tự do hoá dịch vụ
luôn là lĩnh vực nằm trong số các vấn đề còn cần cải thiện và phát triển. Điều đó
đồng nghĩa với việc Việt Nam cùng các nước ASEAN phải có những nỗ lực lớn
đề hoàn thành nốt các công việc để hiện thực hoá Kế hoạch AEC 2015 trong lĩnh

vực dịch vụ.

4.

Giải pháp

Để có thể mở rộng thị trường dịch vụ và nhanh chóng tiến tới tự do hóa
dịch vụ, Việt Nam cần có quan điểm thống nhất và kiên định về vấn đề hội nhập
nói chung và hội nhập AEC nói riêng. Mặc dù cần hiểu rõ các thách thức từ AEC,
Việt Nam cần nhìn nhận AEC như một cơ hội và từ đó có các chính sách, biện
pháp thích hợp để thu được lợi ích từ AEC. Nói cách khác, Việt Nam cũng như
các nước ASEAN khác cần có cái nhìn mang tính khu vực để đảm bảo lợi ích lâu
dài cho toàn bộ khu vực.
Đối với Nhà nước, chúng ta cần hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin qua các
cuộc hội thảo, đào tạo giới thiệu về thị trường các nước trong ASEAN, giới thiệu
những ưu đãi và thuận lợi mà doanh nghiệp VN được hưởng cũng như những
khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải nhằm giúp cho doanh nghiệp định
hướng chiến lược phát triển sản phẩm tại các thị trường dịch vụ. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, cơ chế quản lý trong các ngành
dịch vụ, đặc biệt là các ngành ưu tiên và các ngành ASEAN có gói cam kết riêng
như tài chính, vận tải hàng không, logistics và thương mại điện tử,… Ngoài ra,
12


để chuẩn bị tốt hơn cho việc thực hiện các MRAs trong khuôn khổ AEC, Việt
Nam cần chuẩn bị tốt hơn cho việc di chuyển lao động lành nghề trong ASEAN.
Đối với doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp cần linh hoạt, nhạy bén,
nhận diện và nắm bắt được các cơ hội phát triển, đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ.
Doanh nghiệp cũng phải luôn trong thế chủ động nâng cao sức cạnh tranh, sẵn
sàng hội nhập với các xu thế mới như tự do hóa đầu tư, giảm và xóa bỏ thuế

quan, đơn giản hóa thủ tục,…Doanh nghiệp cũng cần tự nỗ lực đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, có những điều chỉnh trong cơ cấu hoạt
động để thích ứng với những quy định, tiêu chí mới trong AEC để có thể hưởng
ưu đãi từ các chính sách thuế quan. Cuối cùng, bản thân các doanh nghiệp cũng
nên trang bị các phương thức quản lý rủi ro hiệu quả, thường xuyên cập nhật,
nắm rõ thông tin và các cơ sở pháp lý, giải quyết tranh chấp để có thể bảo vệ
quyền lợi của mình và xử lý hiệu quả những vấn đề nảy sinh.

13


KẾT LUẬN
Bài tiểu luận xin được kết thúc tại đây, với hy vọng đã đem lại một cái
nhìn khái quát nhất về Cộng đồng Kinh tế ASEAN với lĩnh vực dịch vụ nói
chung và vấn đề thực hiện quá trình hội nhập lĩnh vực dịch vụ tại Việt Nam
nói riêng, cũng như đưa ra một số giải pháp khả dụng trong việc xây dựng
và thực hiện hội nhập dịch vụ đối với nền kinh tế Việt Nam. Tham gia vào
Cộng đồng Kinh tế ASEAN, nếu như có thể hiểu rõ và giải quyết hiệu quả
các vấn đề còn tồn đọng, đồng thời nhanh nhạy nắm bắt được các cơ hội,
tiềm năng phát triển thì nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực dịch
vụ sẽ có thể khẳng định được vị thế của mình và vươn xa hơn nữa trên
trường quốc tế. Một lần nữa, bài viết không thể tránh khỏi nhiều sai sót do
sự hạn chế về nhận thức và hiểu biết của người viết; nhóm em xin chân
thành mong cô và các bạn đọc và đóng góp ý kiến để bài tiểu luận về vấn
đề này được hoàn thiện hơn.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Th.S Vũ Thanh Hương, Th.S Trần Việt Dũng – “Việt Nam với quá trình

tự do hóa thương mại dịch vụ hướng tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm
2015” ( Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN)
2.
TS. Ngô Tuấn Anh – “Hướng tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015:
Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp Việt Nam” – (Trường Đại học
Kinh tế quốc dân)
3.
“Cộng đồng Kinh tế ASEAN - Sổ tay kinh doanh” – (Ban thư ký
ASEAN, Jakarta, năm 2011)
4.
“Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)” – (Ban Thư ký ASEAN Quốc
gia Việt Nam, Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao)
( )
5.
“Tổng quan về AFTA và AEC” – (Sở Công thương tỉnh Ninh Thuận,
năm 2014)
( />6.
“Việt Nam tăng cường hợp tác song phương về viễn thông và CNTT
với các nước ASEAN” – (Tạp chí Công nghệ thông tin và truyền thông, Bộ
Thông tin và Truyền thông)
( />
15




×