Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN BỔ SUNG, SỬA ĐỔI BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - Tăng Minh Lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.29 KB, 28 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN BỔ SUNG, SỬA ĐỔI
BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Tăng Minh Lộc
Nguyên Cục trưởng - Chánh Văn phòng Điều phối
Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới TW
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW (Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X)
thì xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 ở nước ta, lấy xã làm địa bản tổ chức
thực hiện, có mục tiêu là: Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được
nâng cao nhanh; Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có hệ thống hạ tầng kinh tế - xã
hội đồng bộ và đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài; Môi trường xanh - sạch - đẹp; Bản
sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được bảo tồn và phát huy; Chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở được nâng cao.
Đó là những nội dung định hướng và cũng là những đặc trưng định tính của nông
thôn mới nước ta giai đoạn 2010-2020. Định tính đó đã được cụ thể hóa, lượng hóa
bằng 19 tiêu chí quốc gia nông thôn mới (theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
Cần nói thêm rằng, ở giai đoạn dự thảo, khi lấy ý kiến tham gia của các nhà khoa
học, nhà quản lý ở nhiều Bộ, ngành và các địa phương cũng không phải là không có ý
kiến khác nhau. Một số nhà khoa học cho rằng: Bộ tiêu chí bao trùm hầu hết các lĩnh
vực kinh tế - xã hội - an ninh…, thực hiện Bộ tiêu chí nghĩa là làm một chương trình
phát triển nông thôn toàn diện, như thế sẽ là quá tham vọng và rất khó thành công.
Hoặc, không nên đề ra một Bộ tiêu chí vì sẽ dẫn đến phát triển nông thôn theo “khuôn
mẫu” cứng nhắc, không phù hợp với đặc thù nước ta… Vì vậy, mặc dù đã có quyết định
ban hành của Thủ tướng Chính phủ nhưng trước khi thực thi trên diện rộng, Bộ tiêu chí
nông thôn mới đã được tổ chức thực nghiệm tại 11 xã điểm đại diện cho các vùng đặc
thù trong cả nước (do Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ đạo).
Kết quả thử nghiệm và thực tiễn hơn 5 năm qua (2010-2015), Bộ tiêu chí đã thể
hiện rõ sự cần thiết cho xây dựng nông thôn mới: Giúp cho cán bộ và nhân dân các địa
phương hiểu rõ nội dung cụ thể của xây dựng nông thôn mới. Là căn cứ để đánh giá kết


quả xây dựng nông thôn mới của một xã, một huyện, một tỉnh và cả nước qua từng mốc
thời gian. Bộ tiêu chí đã là công cụ quan trọng giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về
Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới khi tổng kết giai đoạn (2010-2015) dịp
cuối năm 2015 vừa qua.
Tuy nhiên, trải qua thực tế với sự biến đổi của nhiều yếu tố kinh tế xã hội, Bộ tiêu
chí cũng bộc lộ một số vấn đề cần phải xem xét, điều chỉnh mới phù hợp với yêu cầu
thực tiễn và đáp ứng được yêu cầu nâng cao tiến độ, chất lượng xây dựng nông thôn
mới theo yêu cầu mục tiêu đã đặt ra.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI BỘ TIÊU CHÍ TRONG THỰC
TIỄN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1


1. Nhóm tiêu chí hạ tầng
a) Về giao thông (tiêu chí số 2)
Theo Quyết định 491/QĐ-TTg nội dung tiêu chí là: “2.1 Tỷ lệ km đường trục xã,
liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông
Vận tải”; “2.2 Tỷ lệ đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn, xe cơ giới đi lại
thuận tiện”.
Trong hướng dẫn tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Giao thông Vận tải lại quy định:
“đường trục xã, liên xã có mặt rộng 3m trở lên” (Bộ Giao thông Vận tải giải thích đây
là quy định mặt rộng tối thiểu) nhưng các địa phương đều hiểu đó là quy định cứng, chỉ
cần có đường trục xã, liên xã đạt 3m rộng, bê tông hoặc nhựa hóa là được công nhận đạt
chuẩn. Các tuyến đường cấp liên xóm, liên gia đương nhiên là nhỏ hơn. Do đó, ở nhiều
xã ngay khi được công nhận đạt chuẩn thì tiêu chí này đã bộc lộ bất cập, nhất là những
nơi dân cư đông, kinh tế phát triển, vận chuyển bằng cơ giới tăng nhanh. Trong khi đó,
ở các xã miền núi, nhất là khu vực Tây Bắc hoặc biên giới, hải đảo – dân cư thưa thớt,
địa hình phức tạp, lưu thông bằng ô tô còn chậm phát triển. Nếu phải phấn đấu đạt
chuẩn về giao thông theo quy định chung như khu vực đồng bằng thì chưa cần thiết và

sẽ rất tốn kém nguồn lực.
Có thể nói quy định về “chuẩn giao thông” trong Bộ tiêu chí và hướng dẫn của Bộ
Giao thông Vận tải hiện nay là vừa thiếu, vừa thừa do không tính đến yếu tố đặc thù của
các vùng kinh tế - xã hội trước mắt gây lãng phí nguồn lực và lâu dài sẽ không đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai.
b) Về thủy lợi (tiêu chí số 3)
Theo quy định, nội dung tiêu chí thủy lợi là: “3.1 Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng
yêu cầu sản xuất và dân sinh” “3.2 Tỷ lệ km kênh mương do xã quản lý được kiên cố
hóa”.
Mục tiêu của tiêu chí này là định hướng và thúc đẩy các xã xây dựng hệ thống thủy
lợi đạt đến trình độ: cơ bản tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng, cho yêu cầu nước
của thủy sản và chăn nuôi; cấp nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân (trừ trường hợp thiên
tai). Tuy nhiên, chỉ tiêu 3.1 không có yêu cầu định lượng cụ thể nên rất khó đánh giá đầy
đủ chất lượng, hiệu quả của công tác này. Chỉ tiêu 3.2 về kiên cố hóa kênh mương thì chỉ
là một giải pháp để thực hiện mục tiêu. Khi đưa vào tiêu chí nó đặc biệt không phù hợp
với điều kiện đồng ruộng miền núi nhỏ hẹp, độ dốc cao; cũng không phù hợp với Đồng
bằng sông Cửu Long; các vùng trồng cây công nghiệp ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Ngay cả vùng đồng bằng, những nơi sản xuất nông nghiệp công nghệ cao sử dụng tưới
bằng đường ống theo phương pháp tiết kiệm thì giải pháp kiên cố hóa kênh mương cũng
không con ý nghĩa. Do đó không chỉ gây lúng túng cho cơ quan chuyên môn khi hướng
dẫn thực hiện và đánh giá kết quả mà còn làm cho nhiều địa phương dù không cần kiên
cố hóa kênh mương nhưng để đạt chuẩn vẫn phải tốn nguồn lực cho công việc này.
Ở một khía cạnh khác, trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng hiện hữu thường
xuyên, gây tổn thất ngày càng lớn cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn nước ta thì yêu
cầu chủ động chuẩn bị các điều kiện để phòng, chống thiên tai nhằm giảm thiểu các thiệt
hại là rất cần thiết. Do đó, cần bổ sung chỉ tiêu này vào tiêu chí thủy lợi như một yêu cầu
bắt buộc đối với tất cả các địa phương (các nội dung cụ thể của chỉ tiêu này sẽ do cơ

2



quan chuyên môn nghiên cứu đề xuất giống như quy định “4 tại chỗ” đã rất hiệu quả
trong phòng chống lụt bão của các tỉnh Bắc và Bắc Trung Bộ nhiều năm trước đây)
c) Về chợ nông thôn (tiêu chí 7)
Sau khi có hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và PTNT, những năm gần đây, hầu hết
các xã đã hiểu không phải mỗi xã có một chợ mà chợ theo quy hoạch được cấp huyện phê
duyệt (huyện có 20-30 xã có khi chỉ quy hoạch 5-7 chợ).
Với quy định của tiêu chí “chợ theo quy hoạch, đạt chuẩn theo quy định”. Đạt
chuẩn ở đây là theo quy chuẩn của Bộ Xây dựng với yêu cầu diện tích tối thiểu 3000m2,
có đủ các phân khu chức năng, thì nhiều xã hoàn thành tiêu chí chợ phải tốn phí khoảng
6-7 tỷ đồng. Tuy nhiên trong thực tế, xu thế chung của các địa phương nhất là khu vực
đồng bằng, thì một huyện chỉ cần 1-2 chợ đầu mối là cần có quy mô lớn theo quy chuẩn
của Bộ Xây dựng, còn lại là không cần. Qua khảo sát một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng
và Đồng bằng sông Cửu Long khi làm nông thôn mới, giao thông rất thuận lợi. Ở các
giao lộ ngay tại thôn, bản, ấp đều hình thành một số tụ điểm các hộ dịch vụ: bán quần áo,
may mặc, sửa chữa điện tử, ăn uống, mỹ phẩm, làm đẹp v.v... chưa kể nhiều nơi còn phát
triển hình thức xe ô tô nhỏ chở hàng công nghệ phẩm và rau quả, thực phẩm đi bán dạo
đến tận các xóm. Vì vậy, mô hình chợ quy mô lớn ở xã, cụm xã có xu hướng giảm dần
hiệu quả (không ít chợ to ở các xã đạt chuẩn đã chỉ sử dụng hết một phần diện tích).
Nhiều địa phương đã nhận thức ra điều này và đã có chuyển hướng (Vĩnh Phúc đã cắt
giảm tới 60% chợ quy hoạch so với thời kỳ đầu).
Chợ thực sự cần ở nông thôn hiện nay chính là chợ “mini”, tồn tại ở hầu hết (95%)
ở các thôn, bản, ấp với diện tích khoàng 500-1000 m2, họp buổi sáng và buổi chiều. Chủ
yếu bán rau quả thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của nhân dân. Tuy
nhiên, loại chợ này lại ít được lãnh đạo địa phương quan tâm, dường như để ngoài tiêu
chuẩn nông thôn mới nên đa phần nhếch nhác, mất vệ sinh, họp lấn ra đường gây ách tắc
giao thông (chỉ có một số ít địa phương ở Vĩnh Phúc, Hải Dương đã quan tâm quy hoạch,
chỉnh trang loại chợ này như: tôn nền, bê tông đường nội bộ, có mái che, có hệ thống
thoát nước, nhà vệ sinh, hàng rào, có người quét dọn). Tuy nhiên qua đánh giá thực tế
cho thấy trong nhiều năm qua, loại hình này sẽ vẫn phù hợp với nhu cầu thiết thực của

người dân nông thôn. Do đó giai đoạn 2016-2020 rất cần được bổ sung vào nội dung tiêu
chí chợ thay vì quy hoạch xây các chợ to mà hiệu quả thấp.
2. Nhóm tiêu chí về giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường
a) Về y tế (tiêu chí số 15)
Để đạt chuẩn nông thôn mới thì “y tế xã phải đạt chuẩn quốc gia”; theo quy định
của Bộ Y tế để đạt chuẩn Quốc gia về y tế thì riêng về cơ sở vật chất: Trạm y tế xã phải
có đủ 14 phòng chức năng, được trang bị đủ các thiết bị cần thiết, có máy siêu âm màu.
Theo đó, hầu như trạm y tế xã đều phải mở rộng quy mô phòng và trang thiết bị. Nếu xây
mới cũng phải chi phí 2,5 – 3 tỷ đồng.
Trong thực tế, trừ khu vực miền núi, vùng sâu, biên giới, hải đảo còn lại thì dù có
trang bị đầy đủ thì việc sử dụng cơ sở vật chất ở trạm y tế xã cũng kém hiệu quả do điều
kiện nhân lực và niềm tin của người dân. Không chỉ các xã lân cận, các bệnh viện huyện,
bệnh viện khu vực mà ngay cả các khu vực khác, do giao thông, phương tiện đi lại thuận
tiện người dân cũng có xu hướng bỏ qua trạm y tế xã đến khám điều trị tại các tuyến trên.
Công việc thiết thực của các trạm y tế chủ yếu chỉ là: Sơ cứu, đỡ đẻ, làm y tế dự phòng

3


(tiêm chủng, phòng dịch...). Vì vậy, rất cần phải điều chỉnh lại quy định cơ sở vật chất
trạm y tế xã cho phù hợp với thực tế này nhằm tránh lãng phí nguồn lực.
b) Về vệ sinh môi trường (tiêu chí số 17)
Nội dung cơ bản của tiêu chí này vẫn là phù hợp. Tuy nhiên, còn một số vấn đề
“nóng” về vệ sinh môi trường nông thôn lại chưa được thể hiện rõ và cụ thể hóa vào tiêu
chí như: Tỷ lệ hộ có 3 công trình thiết yếu (nhà tiêu, nhà tắm, bể nước sạch) hợp vệ sinh;
tỷ lệ hộ có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh... Hoặc chưa đề cập đến vấn đề sản xuất,
chế biến, kinh doanh rau quả thực phẩm phải đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm... đã
gây lúng túng, khó khăn cho chỉ đạo thực hiện và khi đánh giá thẩm định đạt chuẩn. Do
đó, trong điều kiện hiện nay, chúng tôi thấy rằng rất cần bổ sung những nội dung này vào
tiêu chí môi trường nông thôn mới.

3. Nhóm tiêu chí về hệ thống chính trị
a) Về an ninh (tiêu chí 19)
Nội dung tiêu chí hiện nay là “an ninh, trật tự xã hội được giữ vững” với quy định
như vậy sẽ rất khó cho tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả tiêu chí. Mặc dù Bộ Công
an đã hướng dẫn một số nội dung cụ thể nhưng dường như những vấn đề thiết thực với
người dân như: Tệ nạn trộm cắp, phá hoại tài sản ngoài đồng; rượu chè, cờ bạc; lừa đảo;
ma túy; gây rối trật tự công cộng, đánh nhau thành thương tích; tai nạn giao thông... lại
chưa được đề cập cụ thể.
Đến nay 94% xã đạt tiêu chí an ninh, nhưng ngay cả những xã đã đạt chuẩn nông
thôn mới thì dư luận người dân vẫn lo ngại chưa thấy được cuộc sống thực sự an toàn.
Đó là những vấn đề đang “nổi cộm” trong quá trình thực hiện các tiêu chí nông thôn
mới, vì vậy rất cần rà soát, điều chỉnh bổ sung những nội dung cần thiết để Bộ tiêu chí
nông thôn mới quốc gia thực sự là công cụ định hướng cho xây dựng nông thôn mới,
đồng thời thuận lợi cho đánh giá kết quả khách quan, giảm thiểu ý kiến chủ quan, cảm
tính, tạo động lực tốt hơn cho nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới.
III. NGUYÊN TẮC CẦN CÓ KHI ĐIỀU CHỈNH, BỔ SUNG TIÊU CHÍ
NÔNG THÔN MỚI
1. Nội dung xây dựng nông thôn mới (theo quyết định 800/QĐ-TTg) bao trùm nhiều
lĩnh vực nhưng không phải tất cả các vấn đề kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng diễn
ra ở nông thôn đều thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới1
2. Mỗi tiêu chí nông thôn mới thể hiện một nội dung quan trọng trong mục tiêu
nông thôn mới. Tiêu chí chỉ phản ánh kết quả mục tiêu tổng hợp. Để có kết quả tổng hợp
phải có nhiều giải pháp. Vì vậy không nên nhầm lẫn giải pháp và kết quả mục tiêu dẫn
đến đưa giải pháp làm tiêu chí.
3. Tiêu chí phản ánh kết quả mục tiêu cần phải cụ thể hóa, lượng hóa để thuận lợi
cho tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả, không đưa ra những chỉ tiêu chung chung,
không có định hướng2.
1 Theo chúng tôi, việc một số Bộ, ngành đề nghị đưa thêm nội dung: tuyển quân, giáo dục quốc phòng,
xây dựng dân quân tự vệ, quản lý lực lượng dự bị động viên vào tiêu chí : “QUỐC PHÒNG, AN NINH”
hoặc bổ sung nội dung giáo dục pháp luật thành tiêu chí “CHÍNH QUYỀN VỮNG MẠNH VÀ TIẾP

CẬN PHÁP LUẬT” là không phù hợp.

4


4. Đã là tiêu chí quốc gia thì phải thống nhất trong toàn quốc và là tiêu chuẩn chung
khi xét đạt chuẩn nông thôn mới ở tất cả các xã. Vì vậy, các Bộ, ngành Trung ương phải
đề ra các quy chuẩn phù hợp đối với từng tiêu chí (chủ yếu là các quy chuẩn hạ tầng với
loại xã đặc thù), điều kiện áp dụng từng loại quy chuẩn. Trên cơ sở đó, Ban Chỉ đạo các
tỉnh xét, quy định áp dụng cụ thể cho các loại xã trên địa bàn, tránh việc để các địa
phương tự ban hành quy chuẩn, sẽ dễ dẫn tới “bệnh thành tích” và khó cho đánh giá so
sánh kết quả chung3
IV. MỘT SỐ TIÊU CHÍ CẦN BỔ SUNG ĐIỀU CHỈNH
Thực tế 5 năm qua cho thấy hầu hết các tiêu chí trong bộ tiêu chí Quốc gia nông
thôn mới vẫn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của Chương trình. Tuy vậy, cũng
có một số tiêu chí bộc lộ hạn chế và bất cập. Loại này có thể chia ra thành hai nhóm:
- Nhóm các tiêu chí có nội hàm đúng nhưng chưa được các Bộ, ngành chuyên môn
hướng dẫn rõ ràng, phù hợp nên dẫn đến hiểu không đồng nhất hoặc khó cho áp dụng ở
các vùng đặc thù (như: giao thông, chợ, cơ sở vật chất, y tế, văn hóa);
- Nhóm các tiêu chí nội dung không phù hợp cần phải thay đổi hoặc thiếu các nội
dung cần thiết, phải được bổ sung (như: thủy lợi, môi trường, an ninh...).
Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi chỉ đề xuất một số tiêu chí thuộc nhóm cần bổ
sung, điều chỉnh như sau:
MỘT SỐ TIÊU CHÍ CẦN BỔ SUNG, ĐIỀU CHỈNH

TT

QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH
(Theo Quyết định số 491/QĐ-TTg và
342/QĐ-TTg)


ĐỀ XUẤT MỚI

Tiêu chí

Nội dung (liên quan đến sửa
đổi)

Tiêu
chí

Nội dung sửa đổi, bổ sung

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

1

Thủy
lợi
(tiêu chí
số 3)


3.1 Cơ bản đáp ứng yêu cầu sản
xuất và dân sinh;

Thủy
lợi

3.1 Diện tích sản xuất nông
nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi,
thủy sản) được chủ động cấp
và tiêu nước hiệu quả: 80%

GHI
CHÚ

(6)

3.2 Đảm bảo đủ điều kiện quy
định về phòng chống thiên tai
tại chỗ: 100%

3.2 Tỷ lệ kiên cố hóa kênh
mương do xã quản lý: 70%

2 Có loại ý kiến đề xuất điều chỉnh tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa (tiêu chí 6) thành “6.1 Có nơi sinh hoạt
văn hóa, thể thao xã phục vụ cộng đồng” và “6.2 xã có 100% thôn có nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao
phục vụ cộng đồng”. Theo chúng tôi, sửa đổi như vậy sẽ làm giảm chất lượng, yêu cầu văn hóa nông
thôn, nhất là cấp thôn, bản, ấp, đồng thời sẽ khó khi so sánh đánh giá kết quả thực hiện.
3
Có một số ý kiến đề xuất chia ra 2 loại tiêu chí cứng, tiêu chí mềm. “Tiêu chí cứng” là xã nào cũng phải
có; “tiêu chí mềm” là xã có, xã không. Sau điều chỉnh lần này, thực tế chắc chắn sẽ diễn ra như vậy

nhưng theo chúng tôi trong quyết định của TT Chính phủ, không nên phân ra loại “cứng”, “mềm” vì sẽ
dẫn đến tâm lý: coi “mềm” là không quan trọng, sẽ ít quan tâm đầu tư và chất lượng nông thôn mới sẽ vì
thế mà giảm đi.

5


QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH
(Theo Quyết định số 491/QĐ-TTg và
342/QĐ-TTg)
TT
Nội dung (liên quan đến sửa
Tiêu chí
đổi)

ĐỀ XUẤT MỚI
Tiêu
chí

Nội dung sửa đổi, bổ sung
(5)

(1)

(2)

(3)

(4)


2

Môi
trường
(tiêu chí
số 17)

17.1 Tỷ lệ hộ được sử dụng
nước sạch, nước hợp vệ sinh
theo quy chuẩn quốc gia

Môi
trường
xanh,
sạch,
đẹp

17.2 Các cơ sở sản xuất – kinh
doanh đạt tiêu chuẩn về môi
trường

GHI
CHÚ

(6)

17.1 (Giữ nguyên nội dung
theo quy định hiện hành)
17.2 (Giữ nguyên nội dung
theo quy định hiện hành)


17.3 Không có hoạt động gây
suy giảm môi trường và có các
hoạt động phát triển môi trường
xanh – sạch – đẹp

17.3 (Giữ nguyên nội dung
theo quy định hiện hành)

17.4 Nghĩa trang được xây
dựng theo quy hoạch

17.4 (Giữ nguyên nội dung
theo quy định hiện hành)

17.5 Chất thải nước thải được
thu gom và sử lý theo quy định

17.5 (Giữ nguyên nội dung
theo quy định hiện hành)
Theo
17.6 Tỷ lệ hộ có 3 công trình
hướng
vệ sinh thiết yếu (hố xí, nhà
dẫn của
tắm, bể nước sạch): 100%
Bộ Y tế
Theo
hướng
dẫn của

17.7 Tỷ lệ hộ có chuồng trại
Bộ nông
chăn nuôi hợp vệ sinh: 100%
nghiệp

PTNT
Theo
hướng
17.8 Tỷ lệ cơ sở sản xuất – chế
dẫn của
biến và kinh doanh rau quả
Bộ nông
thực phẩm đủ tiêu chuẩn vệ
nghiệp
sinh an toàn thực phẩm : 80%

PTNT

3

An
ninh,
trật tự
xã hội
(tiêu chí
số 19)

An ninh trật tự xã hội được giữ
vững


An
ninh,
trật tự
và an
toàn
xã hội

6

19.1 Không có tệ nạn trộm cắp

Theo
hướng
dẫn của
Bộ
Công an


QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH
(Theo Quyết định số 491/QĐ-TTg và
342/QĐ-TTg)
TT
Nội dung (liên quan đến sửa
Tiêu chí
đổi)
(1)

(2)

ĐỀ XUẤT MỚI


(3)

Tiêu
chí

Nội dung sửa đổi, bổ sung

(4)

(5)

GHI
CHÚ

(6)

19.2 Tệ nạn rượu chè, cờ bạc,
ma túy được đẩy lùi
19.3 Không có trọng án
19.4 Không có khiếu kiện
đông người kéo dài

V. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỚI BAN CHỈ ĐẠO TRUNG ƯƠNG CÁC CHƯƠNG
TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA GIAI ĐOẠN 2016-2020
1. Vì Bộ Tiêu chí Quốc gia đã qua 1 lần sửa đổi bổ sung (Quyết định 342/2013/QĐTTg), nay cũng có 1 số tiêu chí cần sửa đổi bổ sung, bởi vậy Thủ tưởng Chính phủ có thể
ban hành Bộ Tiêu chí Quốc gia NTM thay thế QĐ 491 và QĐ 342 để áp dụng cho giai
đoạn 2016 - 2020.
2. Chỉ nên điều chỉnh bổ sung một số tiêu chí đang có nội dung chưa phù hợp với
thực tế cần phải thay đổi hoặc thiếu các nội dung cần thiết phải kịp thời bổ sung (như tiêu

chí thủy lợi, môi trường, an ninh đã phân tích ở trên). Các tiêu chí còn lại, giao các Bộ,
ngành liên quan rà soát, quy định các quy chuẩn, tiêu chuẩn phù hợp thực tiễn nhất là các
vùng đặc thù, đồng thời hướng dẫn chi tiết, đầy đủ hơn để các địa phương áp dụng.
Giao Bộ Nông nghiệp và PTNT tập hợp hướng dẫn của các Bộ, ngành để phát hành
cuốn “Hướng dẫn thực hiện các tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2016-2020” nhằm giúp
cho cán bộ, nhân dân thuận tiện tra cứu, áp dụng.
3. Để chống “bệnh thành tích” đang có xu hướng lan rộng, ngoài việc cấp trên tăng
cường giám sát việc xét đạt chuẩn của cấp dưới thì rất cần bổ sung thêm điều kiện (bắt
buộc) khi xét xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới là: (1) Mức đọng nợ xây dựng cơ bản;
(2) Tỷ lệ hài lòng của người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. (Mức
cụ thể giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu đề xuất).
3. Cần có nghiên cứu xác định nội dung, mức độ tiêu chí nông thôn mới đối với các xã,
huyện đã đạt chuẩn để tạo động lực cho các địa phương này tiếp tục vươn lên. Đồng thời, cần
sớm nghiên cứu mô hình nông thôn văn minh để định hướng phát triển cho những năm tiếp
theo, nhất là cho những địa phương đã đạt chuẩn./.

7


THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÙNG NÚI PHÍA BẮC VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƯỢNG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở KHU VỰC NÀY
Tăng Minh Lộc
Khu vực miền núi phía Bắc (MNPB) bao gồm 15 tỉnh, chiếm 30,6% dân số cả
nước, bao gồm nhiều dân tộc sinh sống, trong đó 83,2% dân số sống ở khu vực nông
thôn. Đây là khu vực có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Tuy
nhiên, do đặc điểm là địa bàn rộng lớn, địa hình phức tạp; dân cư phân tán và trình độ dân
trí chưa cao; sản xuất nông nghiệp hàng hóa (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) chưa phát
triển; hạ tầng kinh tế xã hội còn rất thiếu và chất lượng thấp; mức sống của đại bộ phận
dân cư thấp; tỷ lệ hộ nghèo cao nên xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh khu vực MNPB

đang gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn so với các vùng khác trong cả nước.
I. TỔNG QUAN KẾT QUẢ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở CÁC TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN 2010-2015
1. Công tác quy hoạch nông thôn mới
Đến tháng 12/2015 toàn khu vực đã có 99% số xã hoàn thành quy hoạch chung (tỷ
lệ xấp xỉ bình quân chung cả nước). Tuy nhiên chất lượng quy hoạch nhìn chung chưa
đáp ứng được yêu cầu, đa số mới chỉ xong quy hoạch chung, thiếu các quy hoạch chi tiết.
Trong đó mới có 27% số xã có làm quy hoạch sản xuất nông nghiệp và 38% số xã có
công bố quy hoạch.
Nguyên nhân chính là do:
a. Địa bàn xã miền núi thường có diện tích lớn gấp nhiều lần các xã vùng đồng
bằng, tài liệu đo đạc khảo sát gốc phần lớn là thiếu; để có căn cứ quy hoạch thì rất cần
phải khảo sát, đo đạc, tuy nhiên với kinh phí nhà nước hỗ trợ 150 triệu đồng/xã cho
công tác quy hoạch thì chỉ đủ cho quy hoạch chung nên không có kinh phí cho thực hiện
các quy hoạch chi tiết; cũng thiếu kinh phí cho cắm mốc chỉ giới các công trình hạ tầng
sau quy hoạch nên việc người dân xây dựng hoặc lấn chiếm vào đất quy hoạch vẫn là
hiện tượng phổ biến ở nhiều địa phương.
b. Nhiều huyện MNPB chưa có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn
2010 – 2020 nên thiếu căn cứ cho các xã quy hoạch sản xuất, quy hoạch hạ tầng có kết
nối vùng.
c. Thiếu các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp và có kinh nghiệm về xây dựng nông
thôn mới. Đồng thời công tác tập huấn cho đội ngũ cán bộ cấp xã (chủ thể) và cấp huyện
về công tác này còn rất hạn chế nên đến nay phần đông số cán bộ này vẫn còn lúng túng
trong triển khai công tác quy hoạch, lập kế hoạch và chỉ đạo thực hiện chương trình.
2. Về lập đề án xây dựng nông thôn mới
Đã có 63% số xã lập xong đề án xây dựng nông thôn mới (bình quân chung cả
nước là 90%). Tuy nhiên tình trạng phổ biến là đề án chưa bám sát quy hoạch, nặng
về đầu tư xây dựng hạ tầng, chưa chú trọng tới phát triển sản xuất, văn hóa và bảo vệ
môi trường. Giải pháp thực hiện đề án (nhất là nguồn lực) chưa chú trọng đến huy


8


động nội lực mà nguồn lực chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước hỗ trợ nên tính khả
thi thấp.
3. Về xây dựng cơ sở hạ tầng
Thời gian qua, đầu tư xây dựng hạ tầng đều được BCĐ các tỉnh trong khu vực
quan tâm chỉ đạo, coi là khâu đột phá trong xây dựng nông thôn mới. Trong điều kiện
ngân sách khó khăn, nhiều tỉnh như Tuyên Quang, Bắc Giang, Phú Thọ… đã có cơ
chế, chính sách sáng tạo như ngân sách hỗ trợ xi măng cho làm đường giao thông
nông thôn và công trình thủy lợi; cộng đồng dân cư hiến đất, giải phòng mặt bằng,
đóng góp tiền, công lao động và vật lực khác cho xây dựng. Do đó đã tạo ra được
phong trào phát triển vượt bậc về hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông.
Tuy nhiên, hạ tầng của khu vực vẫn còn khó khăn và đang ở mức thấp so với
các vùng khác trong cả nước. Về giao thông, hiện cả nước có 149 xã chưa có đường
giao thông đến trung tâm xã thì khu vực MNPB chiếm 80% số xã; tỷ lệ xã đạt tiêu chí
về giao thông (16,14%), điện (64,1%), nước sạch (24%), cơ sở vật chất văn hóa
(18,7%) đều thấp xa so với kết quả chung của cả nước. Nhìn chung, hạ tầng nông thôn
các tỉnh MNPB (nhất là các tỉnh vùng Tây Bắc) là thiếu và chất lượng thấp nhất so
với các vùng trong cả nước đang là yếu tố quan trọng hạn chế phát triển kinh tế - xã
hội của khu vực.
4. Về Phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất
a) Về phát triển sản xuất
- Lợi thế: Khu vực MNPB có tiềm năng lớn về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.
Thực hiện Nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình MTQG
xây dựng nông thôn mới, khu vực MNPB tiếp tục được ưu tiên thụ hưởng một số chính
sách đặc thù (Chương trình 30a; Chương trình 135 giai đoạn II; Chương trình khoa học
kỹ thuật miền núi; chính sách tái định cư Thủy điện Sơn La…) đã tạo động lực góp phần
thúc đẩy sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trong vùng. Vì vậy, sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp vẫn tiếp tục có bước phát triển, nổi bật là:

+ Về trồng trọt: Hình thành ngày càng rõ nét hơn một số vùng cây hàng hóa tập trung chiếm
tỷ trọng khá so với toàn quốc (chè : 65,7%; cây ăn quả : 23%; ngô : 36%).
+ Về chăn nuôi: Đàn trâu có 1,56 triệu con (chiếm 58% cả nước); đàn bò có 0,95
triệu con (chiếm 17%); đàn dê có 0,53 triệu con (chiếm 43%).
+ Về Lâm nghiệp: Sản lượng gỗ khai thác bằng 30% cả nước; diện tích khoán bảo vệ
rừng các huyện 30a đạt 1.549.700 ha (bằng 64% diện tích giao khoán bảo vệ rừng toàn quốc
được bố trí vốn từ ngân sách Nhà nước). Trong 5 năm 2010-2015, các tỉnh MNPB đã trồng
45.822 ha rừng phòng hộ (49% diện tích cả nước); 304.093 ha rừng sản xuất (51,7%); nhiều
thiết bị kỹ thuật về giống, nhiều đồ án tái cơ cấu, nâng cao chất lượng rừng đã được triển khai
và bước đầu có kết quả tốt. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đã và đang
tạo chuyển biến mạnh đối với việc bảo vệ, phát triển rừng, đã tạo nguồn kinh phí đáng kể cho
đầu tư phát triển rừng (năm 2015 đã thu được 1.171 tỷ đồng, xấp xỉ với ngân sách Trung ương
đầu tư thực hiện kế hoạch bảo vệ phát triển rừng.
Tuy nhiên, sản xuất nông – lâm nghiệp vẫn đang còn ở trình độ thấp, lạc hậu, năng
suất lao động, đất đai đều còn ở mức thấp so với các vùng khác:
- Giá trị sản xuất nông lâm, thủy sản toàn vùng chỉ chiếm 9,2% cả nước.

9


- Giá trị rừng trồng còn thấp, cơ chế chính sách cho người làm nghề rừng chưa tạo ra
cho người dân làm giàu từ nghề rừng nên tình trạng người dân phá rừng để lấy đất trồng cây
khác vẫn xảy ra thường xuyên.
- Khu vực MNPB có nhiều diện tích hồ lớn (Thác Bà, Sơn La, Na Hang, Hòa Bình
…) với gần 100 ngàn ha có thể nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, quy mô nuôi trồng thủy sản
còn nhỏ lẻ, phân tán, quảng canh và đối tượng nuôi chủ yếu vẫn là truyền thống nên năng
suất và hiệu quả nuôi đều rất thấp.
- Thu nhập của nông thôn khu vực miền núi phía Bắc năm 2015 là 16,2
triệu/người/năm (tăng 1,7 lần so với năm 2008 nhưng mới chỉ bằng 64,6% bình quân
chung cả nước).

- Tỷ lệ hộ nghèo 24% (tuy có giảm nhưng cao gấp 2,4 lần BQ chung cả nước).
b) Về phát triển và nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất
- Đến tháng 8/2015, khu vực MNPB có 5.357 tổ hợp tác trong lĩnh vực nông – lâm
– thủy lợi. Thực tế sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp hàng hóa khu vực MNPB còn kém
phát triển, nặng về tự cấp, tự túc thì hình thức tổ hợp tác sẽ hiệu quả hơn HTX nhưng do
không có tư cách pháp nhân nên các tổ hợp tác khó tiếp cận vốn và nguồn lực, hợp tác
giữa các thành viên lỏng lẻo… Vì vậy đang khó phát triển, xu thế chung là tổ hợp tác
trong khu vực ngày càng giảm đi.
- Về hợp tác xã:
+ Khu vực MNPB có 1.702 HTX (trong đó 92,4% HTX nông nghiệp; 6,2% HTX
thủy sản và chỉ có 1,4% HTX lâm nghiệp). So với năm 2010, số HTX tăng 14% nhưng về
quy mô thì nhỏ đi rất nhiều, có HTX chỉ có 12-15 xã viên; 51% HTX quy mô thôn. Phần
lớn chỉ thực hiện 1-3 dịch vụ (thủy lợi, giống, phân bón); có 4% số HTX có tổ chức dịch
vụ được khâu tiêu thụ sản phẩm và 3% là dịch vụ tín dụng.
+ 48% số HTX đảm bảo được thu bù chi hoặc có lãi thấp, còn lại đều thua lỗ, 16%
HTX có đăng ký nhưng thực chất không hoạt động.
Hiện có một số HTX làm ăn có hiệu quả, điển hình như: HTX 19/5 (Hòa Bình);
Nhữ Hán (Tuyên Quang); Vĩnh Lại (Phú Thọ); Tân Cương (Thái Nguyên); Tiến Bình
(Bắc Giang)… các HTX này đều có tổ chức sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản nhưng rất
khó nhân rộng những mô hình này.
Theo đánh giá của các tỉnh, loại hình HTX khó phát triển là do:
- Thiếu cán bộ có trình độ, nhất là người điều hành;
- Khó tiếp cận vốn tín dụng;
- Có ít doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nên khó tạo ra vùng nguyên liệu tập trung,
khó giải quyết khâu chế biến và tiêu thụ nông sản nên không tạo ra được cầu nối cho HTX
phát triển.
- Thiếu các phương án phát triển mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân với
các thành phần kinh tế ở nông thôn (trang trại, HTX, doanh nghiệp, khoa học, thương
mại, hiệp hội ngành hàng) phù hợp với điều kiện của vùng MNPB. Đồng thời do hầu hết
các tỉnh đều còn khó khăn về ngân sách, nên chính sách hỗ trợ cho kinh tế tập thể nói

chung và HTX nói riêng còn hạn chế.

10


Do vậy, nhìn chung phát triển kinh tế tập thể, phát triển quan hệ liên kết giữa nông
dân, các đối tác kinh tế khác trong sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản để thúc đẩy sản
xuất, tăng thu nhập cho nông dân khu vực MNPB vẫn chậm và khó khăn hơn các vùng
khác.
5. Về giáo dục, văn hóa, xã hội và môi trường
- Kết quả công tác đào tạo nghề (Quyết định 1956/QĐ-TTg) cho nông dân của các
tỉnh trong khu vực còn hạn chế, một số địa phương còn chậm triển khai. Hầu hết các Sở
Nông nghiệp và PTNT đều lúng túng, nhất là về nội dung quản lý nhà nước và cách thức
tổ chức triển khai công tác này sau khi nhận chuyển giao công tác này từ Sở Lao động –
Thương binh và xã hội.
- Do đặc thù của khu vực MNPB, tổ chức hệ thống khuyến nông nhà nước đã đóng
vai trò rất quan trọng trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người dân. Hệ thống
khuyến nông đã được tăng cường với 14.608 cán bộ (bao gồm khuyến nông tỉnh, huyện,
xã, thôn/bản) và đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, xóa đói
giảm nghèo cho khu vực.
Tuy nhiên, hiện nay có bất cập là: sau Nghị định 02/2010/CP, hàng năm ngân sách
Trung ương cấp cho mỗi tỉnh bình quân là 2,2 tỷ đồng, ngân sách tỉnh phải bổ sung tương
đương từ 1,9 đến 2 tỷ đồng/năm cho công tác này nhưng do khó khăn về ngân sách nên
khoảng 50% số tỉnh trong khu vực không cấp đủ và chỉ tính riêng trong 3 năm qua, tổng
kinh phí khuyến nông khu vực này giảm so với trước. Nhiều tỉnh không có kinh phí cho
khuyến nông hoạt động nên hàng ngàn cán bộ khuyến nông “thất nghiệp”, dẫn đến lãng
phí nguồn lực, trong khi nông dân trong vùng rất cần được hỗ trợ để phát triển sản xuất,
xóa đói giảm nghèo.
- Về văn hóa – xã hội:
Miền núi phía Bắc là khu vực có truyền thống bảo tồn và phát triển văn hóa dân

tộc, nhất là các tỉnh khu vực Tây Bắc. Trong điều kiện khó khăn, nhưng vẫn duy trì hàng
ngàn đội văn nghệ thôn/bản. Tuy nhiên, nhìn chung cơ sở vật chất nhà văn hóa thôn/bản
còn thiếu và nghèo nàn, hiện chỉ có khoảng 18,7% xã đạt chuẩn (bằng 54% bình quân
chung cả nước). Nguồn lực xây dựng đời sống văn hóa nông thôn còn hạn hẹp; việc xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu còn ít chuyển biến; đội ngũ
cán bộ làm công tác văn hóa cơ sở còn thiếu và phổ biến là còn yếu.
- Về môi trường:
Trọng điểm của công tác môi trường khu vực MNPB là hướng vào phát triển nước
sinh hoạt hợp vệ sinh, phát triển 3 công trình vệ sinh thiết yếu cho hộ và xây dựng công
trình cấp nước hợp vệ sinh. Sau 5 năm xây dựng nông thôn mới, tỷ lệ hộ có sử dụng nước
hợp vệ sinh tăng 4% nhưng tỷ lệ chung của toàn vùng vẫn còn thấp (57%); tỷ lệ hộ có đủ 3
công trình vệ sinh mới đạt gần 60% (chỉ cao hơn khu vực ĐBSCL); tỷ lệ hộ có khu chăn nuôi
hợp vệ sinh mới đạt gần 30%... Việc vận động đóng góp xây dựng công trình cấp nước tập
trung, cải tạo nơi ở, vườn ao, cổng ngõ để tạo cảnh quan sanh sạch đẹp từ mỗi gia đình, ngõ
xóm nhìn chung còn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của cấp ủy, chính quyền các
cấp và sự vào cuộc của các đoàn thể chính trị - xã hội.
6. Về hệ thống chính trị và an ninh trật tự ở nông thôn

11


Sau 2 kỳ Đại hội Đảng vừa qua (năm 2010 và năm 2015), ở các cấp, hệ thống chính
trị ở cơ sở đã sớm được củng cố và kiện toàn nhằm đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ xây dựng
nông thôn mới; các cấp ủy Đảng đều có Nghị quyết và chương trình hành động trong xây
dựng nông thôn mới. Hoạt động của Đảng bộ cơ sở đều chú trọng đến công tác tuyên truyền,
phổ biến kiến thức, thuyết phục vận động người dân tham gia xây dựng nông thôn mới. Do
đó nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng nông thôn mới được nâng lên;
phấn khởi tin tưởng, tích cực tham gia đóng góp ngày công, hiến đất, ủng hộ vật chất; một số
các doanh nghiệp đã có nhiều hoạt động thiết thực hưởng ứng Phong trào thi đua “Cả nước
chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ tướng phát động.

Tuy nhiên, nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân về xây dựng nông thôn
mới chưa đầy đủ, vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. Đội ngũ giúp việc cho
Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới các cấp còn thiếu và yếu, hầu hết là kiêm nhiệm
nên hiệu quả công việc chưa cao.
7. Tình hình huy động các nguồn lực cho thực hiện Chương trình
Trong 5 năm, theo báo cáo chưa đầy đủ, tổng nguồn vốn huy động cho xây dựng
nông thôn mới các tỉnh MNPB đạt 151.229 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách là 41%; vốn
nhân dân đóng góp là 5,7%; vốn doanh nghiệp khoảng 9%.
8. Về kết quả đạt các tiêu chí nông thôn mới
Đến tháng 12/2015, bình quân các xã khu vực MNPB đã đạt 9,3 tiêu chí, tăng 6,1 tiêu
chí so với năm 2010 (bình quân cả nước đạt 12,9 tiêu chí, tăng 8,2 tiêu chí).
Số xã đạt 19 tiêu chí là 7,2% (cả nước là 17,5%).
Số xã đạt 15 – 18 tiêu chí là 6,7% (cả nước là 15,4%).
Số xã đạt 10 – 14 tiêu chí là 22,3% (cả nước là 35,6%).
Số xã đạt 5 – 9 tiêu chí là 45,1% (cả nước là 28,5%).
Số xã đạt dưới 5 tiêu chí là 18,7% (cả nước là 6%).
Đến tháng 12/2015, cả nước có duy nhất tỉnh Bắc Kạn không có xã nào đạt chuẩn nông
thôn mới. Số xã dưới 5 tiêu chí của cả nước còn 536 xã thì đại bộ phận thuộc khu vực miền núi
Phía Bắc (426 xã).
Kết quả trên phản ánh tuy rằng nhân dân – cán bộ các tỉnh miền núi Phía Bắc đã có cố
gắng nhưng kết quả đạt được còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung cả nước.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG NTM Ở KHU VỰC
MNPB
1. Thành tựu nổi bật
Sau 05 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, các tỉnh khu
vực MNPB mặc dù có xuất phát điểm thấp, khó khăn hơn nhiều vùng trong cả nước, nhưng
đã đạt được thành tựu tốt rõ rệt:
- Bình quân các xã trong khu vực đã đạt 9,3 tiêu chí (tăng 6,1 tiêu chí so với năm
2010).
- Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào rộng khắp trong nhân dân, kể cả

đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ cán bộ (nhất là cán bộ cơ sở) đã có bước
trưởng thành lớn trong nhận thức, khả năng vận động quần chúng và trình độ tổ chức quản lý
xây dựng nông thôn mới.

12


- Hạ tầng nông thôn đã có bước phát triển rõ rệt, nhất là về giao thông, điện, xóa nhà
tạm…
- Đời sống người dân nông thôn đã được cải thiện hơn, thu nhập bình quân đã tăng
1,7 lần, tỷ lệ hộ nghèo giảm 7% so với trước.
2. Khó khăn, thách thức chủ yếu
a. Do đặc điểm địa hình hiểm trở, kinh phí đầu tư cho hạ tầng cao hơn các khu vực
khác, dân cư ở phân tán; khả năng đóng góp của cộng đồng dân cư thấp; điều kiện hỗ trợ từ
ngân sách có hạn. Sau 5 năm xây dựng nông thôn mới, hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông
thôn của MNPB đã có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, tỷ lệ phát triển hạ tầng của khu
vực vẫn thấp nhất cả nước, nhất là giao thông, thủy lợi, nước sạch, cơ sở văn hóa… và đang
là “điểm nghẽn” chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
b. Dân cư phân tán, trình độ dân trí thấp, nhiều tập tục lạc hậu còn nặng nề (ăn ở thiếu
vệ sinh, tảo hôn, ma túy, di dân tự do...) , tỷ lệ hộ nghèo của khu vực MNPB còn cao (24%);
tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn, tỷ lệ huyện 30a thuộc loại cao nhất trong cả nước. Vì thế, công
cuộc xóa lạc hậu, giảm nghèo là nhiệm vụ cao nhất và cũng là “gánh nặng” nhất trong tiến
trình xây dựng nông thôn mới của các tỉnh trong khu vực.
c. MNPB là khu vực có tiềm năng lớn về phát triển nông nghiệp (bao gồm cả nông –
lâm – ngư nghiệp) nhưng do đặc thù chung là đất đai rộng lớn nhưng bị chia cắt phân tán, hạ
tầng phục vụ sản xuất còn thiếu và lạc hậu, thời tiết biến đổi thất thường gây nhiều rủi ro bất
lợi cho sản xuất, trình độ dân trí thấp, tập quán sản xuất lạc hậu, quy hoạch sản xuất nông
nghiệp chưa gắn với đầu tư tương thích nên sản xuất hàng hóa khu vực vẫn còn rất khó khăn
và chậm phát triển:
- Rừng chiếm 35% diện tích cả nước nhưng năng suất rừng trồng còn rất thấp. Các

chính sách hiện hành chưa tạo điều kiện lôi cuốn các nguồn lực xã hội vào đầu tư phát triển
rừng. Người dân được giao rừng chưa làm giàu được từ nghề rừng nên chưa gắn bó với phát
triển, bảo vệ rừng.
- Nông nghiệp có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp hàng hóa, thực tế đã hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung (cả trồng trọt và chăn nuôi) nhưng năng suất cây
trồng – vật nuôi đều còn thấp, sản xuất vẫn phổ biến là lạc hậu, nông sản có “thương hiệu”
còn thiếu.
- Về thủy sản: Là khu vực có nhiều hồ chứa nước lớn, không chỉ có tiềm năng du lịch
mà còn rất lợi thế cho phát triển thủy sản (cả thủy sản, đặc sản). Tuy nhiên diện tích mặt
nước phần lớn bỏ hoang; một số vùng nuôi năng suất rất thấp và chủ yếu là sản phẩm truyền
thống nên hiệu quả không cao.
Tổng giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp của khu vực hiện mới chỉ chiếm 9,2%
so với cả nước
d. Phương pháp, cách làm của đa số các địa phương MNPB là chưa phù hợp với thực
tế đặc thù của vùng:
- Thực tế khảo sát thấy có nhiều xã có xuất phát điểm rất thấp (dưới 5 tiêu chí) nhưng
khi triển khai thực hiện 19 tiêu chí cũng tương tự các xã miền xuôi mà không xác định được
rõ ràng: cái gì cần ưu tiên làm trước, tiêu chí nào là cốt lõi, nền tảng cho phát triển kinh tế xã
hội ở địa phương, dẫn đến hiện tượng phân tán vốn, hiệu quả sử dụng thấp.

13


Trong giai đoạn 2010-2015 vốn ngân sách hỗ trợ cho 1 xã ở khu vực MNPB gấp 2,3
lần 1 xã ở khu vực đồng bằng nhưng tốc độ tăng trưởng các tiêu chí chỉ bằng khoảng 1/3.
- Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới áp dụng cho Miền núi còn có 1 số điểm không
phù hợp nhưng chậm được điều chỉnh hoặc hướng dẫn đầy đủ. Nhiều địa phương lúng túng,
áp dụng máy móc dẫn đến lãng phí nguồn lực hoặc chậm hoàn thành. Ví dụ: Quy mô đường
giao thông trục xã Miền núi cần có “đồng chuẩn” với xã đồng bằng không? Tiêu chí kiên cố
hóa kênh mương có cần với các xã Miền núi không? Chợ nông thôn trong điều kiện hiện nay

cần quy hoạch thế nào? Quy mô có cần theo chuẩn hiện hành của Bộ Xây dựng… Vấn đề là
còn rất nhiều các câu hỏi lớn chưa được giải đáp.
- Với đặc thù địa bàn rộng, dân cư phân tán (nhiều xã rộng bằng 1 huyện ở vùng đồng
bằng nhưng dân cư chỉ bằng 1/20). Do đó việc xây dựng các công trình hạ tầng công cộng ở
tuyến xã sẽ ít thiết thực với người dân so với ở thôn bản. Người dân sẽ không có điều kiện
hưởng thụ, không thấy rõ lợi ích nên ít tích cực tham gia (tỷ lệ đóng góp của người dân, tính
cả công sức của khu vực Miền núi 5 năm qua mới đạt khoảng 5,7% chỉ bằng gần 40% so với
khu vực đồng bằng).
Một số mô hình thành công tại Lào Cai, Lai Châu… cho thấy cách làm lấy thôn bản
làm trung tâm, ưu tiên làm thôn bản trước rồi làm xã sau đều cho thấy hiệu quả. Tuy nhiên
các mô hình trên còn chưa được nghiên cứu điều chỉnh.
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho xây dựng nông thôn mới khu vực miền núi
tuy có được ưu tiên nhưng hầu hết các tỉnh đều áp dụng chia bình quân cho xã. Trong tình
trạng là phần “nội lực” của các xã (nhất là các xã đặc biệt khó khăn) còn hạn chế thì tất yếu
dẫn đến vốn phân tán và lãng phí, đáng tiếc đây là thực trạng chủ yếu của nhiều địa phương.
- Nhiều chính sách hỗ trợ giảm nghèo cho đồng bào khu vực Miền núi như 134, 135,
39 a… đều chủ yếu là cấp vốn cho không (không lãi suất, không thu hồi gốc). Thời hạn hỗ
trợ ngắn, thường là 1-2 vụ sản xuất đã dẫn đến thực trạng là: người được cho chưa kịp tiếp
thu kỹ thuật sản xuất mới thì đã hết kỳ, nảy sinh tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, muốn nghèo tiếp
để được cho… vô hình chung nó làm thui chột ý chí phấn đấu vươn lên làm giầu của đồng
bào. Một số nơi sinh ra suy tỵ, mất đoàn kết nội bộ nhân dân…
Đó là những vấn đề rất cần phải thay đổi về chính sách, cách làm mới đẩy nhanh tốc
độ và chất lượng xây dựng nông thôn mới của các tỉnh.
Công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, của tỉnh, của huyện và xã đều
mang tính định hướng, thiếu chi tiết dưới dạng các dự án cụ thể nên rất khó cho tổ chức thực
hiện ở cấp xã, thôn, bản.
III. ĐỀ XUẤT NHIỆM VỤ CẦN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT TRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÙNG MNPB THỜI GIAN TỚI VÀ GỢI Ý CHÍNH
SÁCH
3.1. Những nhiệm vụ cần tập trung giải quyết

Phương châm:
- Tập trung giải quyết những khó khăn đang là “điểm nghẽn” trong xây dựng nông thôn
mới ở khu vực để tạo chuyển biến đột phá thúc đẩy phát triển chung.
- Phát triển nông thôn bền vững phải có bước đi vững chắc do đó phải điều chỉnh lại và
đề ra mục tiêu đạt chuẩn phù hợp (nên ở mức 15% xã đạt chuẩn cho năm 2020).

14


a) Chuyển trọng tâm phát triển hạ tầng xã sang ưu tiên trước phát triển hạ tầng
công cộng thôn bản (giao thông, điện, nước, trường học, nhà văn hóa…) và các nhiệm vụ
cụ thể khác trong xây dựng nông thôn mới.
- Do đặc thù Miền núi chi phí xây dựng hạ tầng lớn trong khi nguồn lực có hạn do đó
cần kiên quyết dành vốn tập trung ưu tiên trước cho hình thành các hạ tầng cơ bản, là nền
tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội như giao thông, điện, nước…. Việc làm trước hay sau
tùy điều kiện từng địa phương sẽ từng bước phát triển các hạ tầng khác.
Tập trung phát triển hạ tầng thiết yếu trong khu vực, bao gồm:
- Giao thông: phải tương đối đồng bộ, đảm bảo liên thông hệ thống từ đường tỉnh –
huyện – xã – các bản, phấn đấu đến 2020 hình thành xây dựng xong 100% trục giao thông
đến trung tâm xã (đối với các xã còn thiếu); 50% trục giao thông thôn bản và 70% trục giao
thông xóm làng được cứng hóa theo chuẩn.
- Điện: ưu tiên thứ 2, đảm bảo lưới điện đạt chuẩn đến 100% các bản.
- Thủy lợi: hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cơ bản cho các vùng nông nghiệp hàng
hóa đã hình thành theo quy hoạch (lúa, rau, hoa, chè, cây ăn quả, đồng cỏ chăn nuôi tập
trung...).
b) Phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn
Về sản xuất
Khẩn trương xây dựng đề án tái cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp cho khu vực MNPB
trong đó: tập trung vào khâu quy hoạch, xác định rõ các vùng nông sản hàng hóa chủ lực cho
khu vực và cho từng huyện. Quy hoạch sản xuất sẽ gắn liền với quy hoạch hạ tầng (giao thông,

điện, thủy lợi, công nghiệp chế biến...) và chương trình khoa học phục vụ nông nghiệp. Căn cứ
vào quy hoạch của huyện, các xã điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất của xã đảm bảo tính
kết nối vùng.
Trước mắt huyện phải hỗ trợ mỗi xã, mỗi thôn bản phát hiện cây trồng, vật nuôi, thủy
sản có lợi thế xây dựng thành các dự án sản xuất. Ban chỉ đạo các xã ngoài việc tổ chức học
tập vận động bà con thì phải tổ chức sản xuất tiếp thu tiến bộ kỹ thuật mới về sản phẩm đã
lựa chọn. Tổ chức dậy nghề cho những người tham gia, tạo điều kiện cho đồng bào sản xuất
phát huy lợi thế, bán được hàng hóa trên thị trường, tăng thêm thu nhập.
Về quan hệ sản xuất
- Tổng kết các hình thức giao khoán, bảo vệ rừng để rút ra các bài học kinh nghiệm,
xác định rõ loại rừng nào, khu vực nào nên giao khoán cho hộ, cho cộng đồng hoặc doanh
nghiệp là có hiệu quả nhất. Đồng thời bổ sung các chính sách, giải pháp đảm bảo người dân
làm giàu từ rừng, tự giác gắn bó, bảo vệ, đầu tư phát triển rừng.
- Xây dựng chính sách đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư vào nông lâm ngư nghiệp để
làm đầu tầu cho phát triển kinh tế xã hội của khu vực.
- Phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác: Ban hành hướng dẫn chuyển đổi các HTX theo
luật mới, đồng thời nghiên cứu tổng kết các mô hình có hiệu quả trong khu vực. Phấn đấu
mỗi huyện trong giai đoạn 2016-2020 xây dựng 1-2 mô hình HTX làm ăn có hiệu quả để
nhân rộng.
- Đổi mới hoạt động của hệ thống khuyến nông nhà nước:
+ Tập huấn nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở.

15


+ Đưa cán bộ khuyến nông xuống “3 cùng” tại địa bàn thôn bản gắn với việc thực
hiện các dự án nông nghiệp tại địa bàn.
+ Dạy nghề: Thực hiện dạy nghề cho nông dân theo dự án NTM của từng xã. Đối với
những xã thuộc vùng dự án nông nghiệp hàng hóa, 100% nông dân tham gia dự án được đào
tạo nghề từ sơ cấp trở lên.

c) Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội
- Thực hiện mạnh việc sắp xếp lại dân cư: quy tụ dân cư, đảm bảo mỗi cụm dân cư có
khoảng 30 hộ (mức và nguồn hỗ trợ theo Quyết định 1776/2012/QĐ-TTg). Ưu tiên đầu tư
xây dựng NTM (nhất là hạ tầng và sản xuất) cho khu vực có nhiều dân di cư tự do để ổn định
dân cư, khắc phục tình trạng di dân tự do đang gây bất ổn định xã hội.
- Coi trọng công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân: phấn đầu đến
2020 100% số hộ được xem TV, mỗi xã có 1-2 thôn có sử dụng internet công cộng.
- Đẩy mạnh hoạt động văn nghệ thể thao thôn, bản để tạo cuộc sống tinh thần gắn kết
cộng đồng góp phần đẩy lùi hủ tục lạc hậu và tạo môi trường xã hội tốt để động viên người
dân đóng góp xây dựng nông thôn mới.
d) Đổi mới phương pháp đầu tư và cách làm nông thôn mới để nâng cao hiệu quả
vốn hỗ trợ xây dựng nông thôn mới:
- Cần kiên định loại bỏ việc phân bổ vốn bình quân cho các xã. Tập trung vốn cho
thực hiện các mục tiêu: giao thông, điện, nước sản xuất và tái cơ cấu sản xuất, nâng cao thu
nhập tại chỗ cho đồng bào để tạo nền vững chắc cho phát triển nông thôn mới lâu dài. Sau đó
tùy điều kiện thực tiễn của mỗi xã mới từng bước phát triển các tiêu chí khác.
- Tăng đầu tư tín dụng và khuyến khích đầu tư doanh nghiệp vào khu vực
- Đối với các dự án, chương trình giảm nghèo: Kiên quyết loại bỏ hình thức “cho
không” vốn – chuyển sang hình thức cho vay không lãi hoặc hỗ trợ lãi suất 1 phần. Áp dụng
cho vay ít nhất 3 vụ sản xuất. Gốc vốn sau khi thu hồi sẽ tái cho vay những hộ khó khăn tại
địa phương nhằm khắc phục tâm lý ỷ lại của đồng bào, bảo toàn vốn ngân sách, giúp được
nhiều lượt người vay vốn cho sản xuất.
3.2. Một số kiến nghị với Chính phủ:
a) Đề ra mục tiêu đạt chuẩn phù hợp cụ thể cho Miền núi Phía bắc.
b) Ban hành chính sách đặc thù cho phát triển hạ tầng thiết yếu và phát triển nông
lâm nghiệp khu vực MNPB
- Đối với hạ tầng thiết yếu
+ Giao thông nông thôn: Ngân sách hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng trục giao thông
xã; 70-80% trục giao thông thôn bản và liên xóm (hỗ trợ toàn bộ xi măng, cống dân sinh, chi
phí tư vấn thiết kế nếu có; cộng đồng dân cư hiến đất, giải phóng mặt bằng, đóng góp 1 phần

nguyên vật liệu khác và bỏ công lao động; đóng góp kinh phí duy tu, bảo dưỡng về sau).
+ Công trình cấp nước sạch tập trung: Ngân sách hỗ trợ 50-70% kinh phí xây dựng
nhà máy; Từ 50-70% đường ống trục chính đến bể công cộng của xóm hoặc đến thôn. Phần
còn lại do cộng đồng đóng góp hoặc vận động đầu tư theo mô hình liên kết công tư PPP.
+ Công trình thủy lợi đầu mối: Đầu tư theo dự án, nhà nước bố trí ngân sách đầu tư
theo mô hình PPP. Đối với kênh mương thuộc xã hoặc thôn bản quản lý thì ngân sách hỗ trợ
60-70% (chủ yếu là vật liệu xây dựng).

16


+ Nhà văn hóa thôn bản và 3 công trình vệ sinh: Đảm bảo ngân sách cấp đủ, kịp thời
theo mức hỗ trợ hiện hành.
Mức đầu tư từ ngân sách nhà nước bình quân tối thiểu 1 tỷ đồng/xã/năm, giao về ngân
sách tỉnh quản lý. Ưu tiên hỗ trợ cho các thôn bản và xã có điều kiện và đăng ký về đích
sớm.
- Đối với sản xuất nông nghiệp
+ Đảm bảo vốn đầu tư hỗ trợ cho thực hiện các dự án nông nghiệp hàng hóa trọng
điểm theo quy hoạch của vùng. Các vùng này cần được ưu tiên phát triển hạ tầng thiết yếu
(giao thông, thủy lợi, cơ sở chế biến), chương trình khoa học-công nghệ.
+ Có chính sách đặc thù để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông
nghiệp;
- Tăng đầu tư cho bố trí sắp xếp dân cư, nhất là vùng thiên tai nguy hiểm, vùng biên
giới và khu vực khó khăn có đông dân cư di dân tự do.
c) Chỉ đạo một số Bộ ngành liên quan xây dựng và thực hiện các chương trình đặc
thù cho vùng hướng theo các nhiệm vụ trọng tâm đã chọn (Như Bộ Nông nghiệp và PTNT
xây dựng Chương trình phát triển nông nghiệp MNPB và Chương trình tổng thể sắp xếp bố
trí, ổn định dân cư cho khu vực. Bộ Giao thông vận tải: xây dựng Chương trình phát triển
giao thông NTM khu vực MNPB. Bộ Kế hoạch & Đầu tư: xây dựng chính sách đặc thù thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào khu vực. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: xây dựng Chương

trình phát triển văn hóa khu vực MNPB.v.v.)./.

17


PHỤ LỤC:
MÔ HÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI THÀNH CÔNG ĐIỂN HÌNH Ở KHU
VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC: XÃ BẢN LẦU, HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG, TỈNH
LÀO CAI
1. Khái quát điều kiện xã hội xã Bản Lầu.
a. Đặc điểm về dân cư
- Trước năm 1979, khu vực này là địa bàn dân cư vùng xuôi lên khai hoang, năm
1979 chiến tranh biên giới các hộ dân chuyển về xuôi; sau chiến tranh từ 1979 - 1991,
khu vực biên giới thôn Na Lốc, thôn Cốc Phương xã Bản Lầu thuộc huyện Mường
Khương, vẫn bị coi là “vành đai trắng”. “Trắng” bởi không có dân ở và đây là vùng đất
không những khó khăn về phát triển kinh tế, bom mìn còn sót lại sau chiến tranh, các đối
tượng tội phạm thường lợi dụng địa hình giáp biên hiểm trở để thực hiện các hành vi
phạm pháp như buôn lậu, buôn bán người, gây mất ổn định khu vực biên giới. Quán triệt
chủ trương của cấp trên vận động đồng bào (đa phần là đồng bào dân tộc Mông) di cư ra
sinh sống sát khu vực biên giới, tận dụng thế mạnh của địa phương phát triển kinh tế, góp
phần giữ gìn và bảo vệ biên cương.
- Hiện nay: Tổng số: 1.536 hộ, gồm 6.266 nhân khẩu, 13 dân tộc, đồng bào dân tộc
thiểu số chiếm trên 66%. Có tại 7 thôn Na Lốc 1, Na Lốc 2, Na Lốc 3, Na Lốc 4, Cốc
Phương, Đồi Gianh, Pạc Bo. Hộ bản địa có khoảng 200 hộ với 100% dân tộc Mông. Các
thôn có 504 hộ/2400 nhân khẩu. Do thực hiện tái định cư biên giới và di cư đến nay toàn
xã có 13 dân tộc sinh sống, trong đó: dân tộc kinh 33,59%, dân tộc Mông 28,68%, dân
tộc Giáy 14,27%, dân tộc Nùng 11,81%, dân tộc Dao 8,96%, còn lại dân tộc Tày, Dân
tộc Bố y, Tu dí, Dân tộc Pa Dí, Dân tộc Phù Lá, Dân tộc Hán, Dân tộc Thù Lao, Dân tộc
Mường.
b. Cơ sở hạ tầng trước đây và bây giờ

- Chưa có đường ô tô chỉ có đường đi bộ 12 Km từ trung tâm xã đi vào. Tử năm
1991 Trung Ương đã làm đường tuần tra biên giới, tuyến đường này chạy dọc xã đã là
yếu tố tiền đề, quyết định cho phát triển kinh tế xã hội những năm sau. Đến nay hệ thống
cơ sở hạ tầng đã được nâng cấp: đường giao thông được rải cấp phối và bê tông hóa; các
cơ sở điện, đường, trường, y tế, nhà văn hóa được xây dựng khang trang đáp ứng nhu cầu
nhân dân.
c. Về sản xuất
- Thời kỳ đầu tái định cư, đời sống của các hộ dân rất khó khăn và nghèo, chủ yếu
là trồng trọt, chăn nuôi truyền thống và khai thác rừng.
- Năm 1991 khi có chương trình phối hợp giữa Bộ đội Biên phòng và Hội Nông
dân, Đồn biên phòng Bản Lầu đã cùng với Hội nông dân huyện Mường Khương mạnh
dạn tổ chức hội nghị đầu bờ tại thôn Cốc Phương, đưa giống dứa, chuối cao sản về trồng
thử nghiệm. Đến năm 1994 - 1995 có nhiều hộ đã trồng dứa, đi đầu là hộ ông Thào Dìn
và hộ ông Thào Diu mang cây dứa từ huyện Hà Khẩu (Trung Quốc) nơi anh từng làm
thuê về trồng, bằng những ứng dụng kỹ thuật chăm sóc, đặc biệt cách pha thuốc sinh học
để kích thích cây ra quả nên ngay vụ đầu tiên anh trồng 1 vạn gốc dứa và sản lượng cho
thu hoạch 5 tấn dứa, giá bình quân 2.500 đồng/kg, trị giá đạt 12 triệu đồng.

18


- Đến năm 1996 - 1997 cây dứa đã được trồng lên đến 120 ha, cách trăm sóc cây
dứa bà con nhân dân thường cần lượng phân đạm cao để giúp trái to, màu sắc quả sẽ đẹp
hơn. Loại phân có hàm lượng cao thích hợp cho cây dứa: Phân NPK Lào Cai 8 - 6 - 4 ,
sản lượng cho thu hoạch 2.400 tấn dứa, giá bình quân 2.700 đồng/kg, trị giá đạt 6 tỷ
đồng, đến năm 2015 tổng diện tích cây dứa trên địa bàn xã thời điểm hiện nay là 540 ha;
diện tích đã thu hoạch đầu năm là 500 ha, 01 ha đạt từ 25 đến 30 tấn, sản lượng 13.000
tấn, giá bình quân 5.000 đồng/kg, trị giá đạt 65 tỷ đồng.
- Từ năm 2006, việc phát hiện ra cây lợi thế của địa phương là cây dứa – lãnh đạo
xã được sự giúp sức của huyện, Bộ đội biên phòng và công an đã vận động nhân dân học

tập mô hình mở rộng thâm canh và sau này không chỉ dứa mà còn tiếp tục tiến tới những
cây trồng lợi thế khác. Nắm bắt được thị trường Trung Quốc đang có nhu cầu tiêu thụ
chuối lớn, nông dân các thôn Cốc Phương, Na Lốc 1, Na Lốc 2 và Na Lốc 3 đã tập trung
vào trồng thêm cây chuối. Các hộ đều sử dụng giống chuối do Trung Quốc sản xuất theo
phương pháp nhân mô. Họ mời chuyên gia Trung Quốc sang hướng dẫn kỹ thuật (nhóm
chuyên gia đã ăn ở tại địa phương, hướng dẫn nông dân theo kiểu cầm tay chỉ việc) nên
hầu hết nông dân đều thông thạo kỹ thuật, các sản phẩm sản xuất ra hầu hết đều được
thương lái Trung Quốc sang tận biên giới để thu mua. Đồng bào bán được giá có thu
nhập rất tốt nên mạnh mẽ mở rộng sản xuất.
Ông Thào A Minh, thôn Cốc Phương năm 2006 là gia đình đầu tiên trồng thử 2 nghìn cây
chuối. Ngay năm đầu tiên, trừ mọi chi phí đã thu lại hơn 100 triệu đồng. Đến nay tổng
diện tích trồng được 546 ha tăng 266 ha, được trồng chủ yếu ở các thôn Na Lốc, Cốc
Phương, diện tích cho thu hoạch là 380 ha, sản lượng đạt 6.840 tấn, giá bình quân 3.000
đồng/kg, trị giá đạt 20 tỷ 520 triệu đồng. Tuy là vùng núi nhưng ở Bản Lầu này không có
ha đất nào được nghỉ.
2. Quá trình thực hiện nông thôn mới (NTM) ở Bản Lầu
a. Khi bắt đầu thực hiện thì Bản Lầu chỉ mới đạt 4 tiêu chí NTM:
- Thủy lợi, Điện, Chợ và cơ sở vật chất.
- Những tiêu chí khó nhất không phải là tiêu chí thu nhập và môi trường như các
địa phương khác (do sản xuất thu nhập tốt đã có tiền đề) nhưng ở Bản Lầu tiêu chí 19 về
An ninh trật tự lại là khó nhất.
- Tiêu chí 19 - tiêu chí An ninh trật tự:
+ Nguyên nhân: Là một xã tiếp giáp biên với nước bạn (Trung Quốc) là một
điểm nóng về quốc phòng an ninh diễn biến phức tạp; hay xảy ra các hiện buôn bán phụ
nữ; trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công cộng, thanh - thiếu niên đánh nhau, tai nạn giao
thông; tai - tệ nạn xã hội.
+ Cách khắc phục: Chủ động nắm tình hình, quản lý chặt chẽ địa bàn và các loại
đối tượng, phối hợp với các đội nghiệp vụ Công an huyện giải quyết dứt điểm các vấn đề
phát sinh, vụ việc phức tạp, không để kéo dài hoặc hình thành những điểm nóng. Đồng
thời, xã chú trọng đưa phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ” đi vào chiều sâu bằng cách

đổi mới nội dung, hình thức phát động phong trào cho phù hợp với thực tế; duy trì và
nhân rộng các mô hình tự quản về ANTT. Tổ chức tuyên truyền cho người dân thực hiện
tốt pháp luật nhà nước.
b. Kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới ở Bản Lầu:

19


Đến tháng 10/2015 Bản Lầu đã thực hiện đủ 19 tiêu chí đạt chuẩn nông thôn mới
trong đó 18 tiêu chí hoàn thành năm 2014, có 1 tiêu chí ANTT (tiêu chí 19) là hoàn thành
năm 2015.
Tiêu chí 1 - Quy hoạch
- Yêu cầu đạt chuẩn tiêu chí: Xã hoàn thành 03 quy hoạch: Quy hoạch sử dụng
đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp dịch vụ. Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội – môi trường theo
chuẩn mới. Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện
có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp.
- Thực hiện: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dịch vụ. Quy hoạch phát triển
hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới.
+ Thuyết minh Đề án quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Bản Lầu giai đoạn
2010-2015.
+ Bản đồ quy hoạch trung tâm xã Bản Lầu 1/10000
+ Bản đồ hiện trạng sử dụng đất tỷ lệ 1/5000
+ Bản đồ định hướng QH phát triển không gian xã NTM tỷ lệ 1/5000.
+ Bản đồ QH sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất tỷ lệ 1/5000.
+ Bản đồ định hướng phát triển HT- KT xã hội - môi trường tỷ lệ 1/5000.
+ Đĩa CD lưu toàn bộ nội dung thuyết minh bản vẽ.
- Quy hoạch 03 điểm dân cư của xã: Thực hiện quy hoạch chi tiết, chỉnh trang 3
điểm dân cư nông thôn của xã Bản Lầu gồm: Thôn Cốc Phương, Na Lốc 4 và Na Nhung

2. Hiện nay, các ngành chức năng của huyện và UBND xã Bản Lầu đang phối hợp với
Công ty TNHH tư vấn Công nghiệp (Địa chỉ: số 67 – phố Phan Đình Phùng – Phường
Phố Mới – Thành phố Lào Cai) hoàn thành theo yêu cầu của tiêu chí.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới.
Tiêu chí 2 - Giao thông
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Xã thực hiện 4 yêu cầu:
+ Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo
cấp kỹ thuật của Bộ GTVT: 100%;
+ Tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của
Bộ giao thông vận tải: 50%.
+ Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa: 100%;
+ Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện:
50%.
- Thực hiện:
+ Đường trục xã được nhựa hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ giao thông
vận tải 15/15 km (Đường loại 5: QL4D – Cốc Phương): Đạt 100%.
+ Đường liên thôn đã bê tông cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ giao
thông vận tải được 22,559/38,38 km/11 tuyến. Đạt 58,09%.

20


+ Đường ngõ xóm đã cứng hóa, không lầy lội vào mùa mưa 3/5,6km của 5 tuyến
Đạt 54%.
+ Đường trục chính nội đồng: Không có tuyến đường cần thực hiện;
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 3 - Thuỷ lợi
- Yêu cầu đạt chuẩn tiêu chí: Xã đạt tiêu chí khi đáp ứng đủ 03 yêu cấu:
+ Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng được yêu cầu sản xuất và dân sinh.
+ Tỷ lệ km kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa: 50%.

- Thực hiện:
+ Xã Bản Lầu đã kiên cố hóa 44/48,37 km kênh mương/18 tuyến đạt 90,97% và
xây dựng 22 đập đầu mối. Hệ thống thủy lợi của xã phục vụ tốt sản xuất lúa nước, nuôi
trồng thủy sản và phục vụ dân sinh: Đạt
+ Hệ thống các công trình thủy lợi được xây dựng theo quy hoạch và thiết kế được
duyệt, được duy tu bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên bảo đảm phát huy trên 90% năng
lực thiết kế: Đạt
+ Xã Bản Lầu có 01 Ban thủy lợi và giao các công trình thủy lợi, tổ quản lý tại các
thôn thực hiện duy tu bảo dưỡng theo quy định. Xã sử dụng kinh phí cấp bù thủy miễn
thủy lợi phí hàng năm từ nguồn ngân sách Nhà nước đúng mục đích (duy tu bảo dưỡng,
sửa chữa thường xuyên công trình).
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 4 - Điện nông thôn
- Mục tiêu đạt chuẩn tiêu chí: Xã đạt tiêu chí khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu:
+ Hệ thống lưới điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện.
+ Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn đạt từ 95% trở lên.
- Thực hiện:
+ Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện, đường dây trung thế
thường xuyên được bảo dưỡng và nâng cấp 22,29/22,29 km bằng 100%. Đường dây hạ
thế thường xuyên được bảo dưỡng và nâng cấp 28,09/28,09 km và 09 trạm biến áp được
bảo dưỡng, nâng cấp thường xuyên.
+ Tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện thường xuyên, an toàn là 1.424/1.468 hộ
bằng 97%. Đạt NTM.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 5 - Trường học
- Mục tiêu đạt chuẩn tiêu chí: Tỷ lệ trường học các cấp: Mầm non, mẫu giáo,
tiểu học, THCS có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia đạt 70%.
- Thực hiện:
Xã Bản Lầu có 6 trường cấp Mầm non và tiểu học, TH cơ sở, trong đó có 02
trường mầm non, 02 trường tiểu học và 02 trường THCS, đến nay 5/6 trường đạt chuẩn

về cơ sở vật chất bằng 83,3%, còn 01 trường mầm non Na lốc chưa đạt và dự kiến đạt
chuẩn trong năm 2015.

21


- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 6 - Cơ sở vật chất văn hoá
Xã đạt tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu:
+ Nhà văn hóa và khu thể thao đạt theo quy định của Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể
thao và DL tại thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL ngày 22/10/2010 quy định mẫu về tổ
chức, hoạt động và tiêu chí của trung tâm văn hóa-thể thao xã.
+ 100% thôn bản hoặc liên thôn có nhà văn hóa và khu thể thao đạt chuẩn theo
quy định của Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể thao và DL tại Thông tư số 06/2011/ TTBVHTTDL ngày 08/3/2011 quy định mẫu về tổ chức, hoạt động về tiêu chí của nhà văn
hóa- khu thể thao thôn.
- Thực hiện:
+ Nhà văn hóa xã kết hợp với hội trường đã được đầu tư xây dựng và hoàn thành
năm 2014: Đạt
+ Xã có 21/21 thôn đã có nhà văn hóa đạt 100%, tuy nhiên còn thiếu trang thiết bị
của 9 nhà văn hóa thôn và khu thể thao thôn: Cơ bản đạt
- Chưa thực hiện: Trang thiết bị của nhà văn hóa xã cụm công trình thể thao của xã
và thôn bản.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 7 - Chợ nông thôn
- Yêu cầu đạt chuẩn tiêu chí: Hoàn thành 02 nội dung:
+ Về công trình kỹ thuật: Có đủ các công trình của chợ nông thôn do xã quản lý
(chợ hạng 3) được quy định trong TCVN 9211: 2012 Chợ tiêu chuẩn thiết kế ban hành tại
Quyết định 3621/QĐ -BKHCN ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng bộ khoa học và công
nghệ về việc công bố tiêu chuẩn quốc gia.
+ Điều hành quản lý chợ: Có tổ chức quản lý, có nội quy chợ do UBND xã quy

định và niêm yết công khai để điều hành hoạt động và sử lý vi phạm; có sử dụng cân đối
chứng thiết bị đo lường để người tiêu dùng tự kiểm tra về số lượng, khối lượng hàng hóa;
Các hàng hóa dịch vụ kinh doanh tại chợ thuộc danh mục không bị cấm theo quy định.
- Thực hiện:
+ Đã có chợ tại trung tâm xã được xây dựng với diện tích 5.600m2, gồm các hạng
mục: nhà chợ chính 390m2, diện tích phục vụ hộ kinh doanh 1.180 m2, sân bê tông 532
m2, bãi trông giữ xe 150m2 và có khu vệ sinh: Đạt
+ Có tổ quản lý và bảo vệ chợ, nội quy thực hiện đã được UBND xã ban hành và
niêm yết công khai theo quy định: Đạt
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 8 - Bưu điện
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Xã đạt tiêu chí khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu:
+ Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông;
+ Có internet đến thôn;
- Thực hiện:

22


+ Xã có 01 điểm bưu điện văn hóa phục vụ công tác thư báo và các dịch vụ khác
cho nhân dân. Xã Bản Lầu có 1400/1468 hộ gia đình (bằng 95,36%) đang sử dụng các
dịch vụ của viễn thông: Đạt
+ Hệ thống truyền dẫn Itenet không dây và truyền hình đến 21/21 thôn bản, hệ
thống hạ tầng kỹ thuật viễn thông sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phát triển thuê bao của tổ
chức, cá nhân: Đạt
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 9 - Nhà ở nông thôn
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Xã đạt tiêu chí khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu:
+ Trên địa bàn không có nhà tạm, nhà dột nát;
+ Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn Bộ xây dựng 75%.

- Thực hiện:
+ Xã Bản Lầu không có nhà tạm, nhà dột nát: Đạt
+ Xã Bản Lầu có 1.160/1.468 nhà đạt tiêu chuẩn của Bộ xây dựng bằng 79,01 %
tổng số nhà của xã.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 10 - Thu nhập
- Yêu cầu đạt chuẩn: Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 18
triệu đồng (năm 2015).
- Thực hiện: Xã Bản Lầu phát triển có hiệu quả kinh tế nông nghiệp, trên địa bàn
xã có các vùng sản xuất lúa, ngô, chè và cây ăn quả dứa chuối kết hợp với các dịch vụ
khác. Theo kết quả điều tra năm 2015 xã có 1.468 hộ 6.124 khẩu, tổng thu nhập của xã là
141.050 triệu đồng, thu nhập bình quân đạt 23,03 triệu đồng/người/năm: Đạt
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 11 - Hộ nghèo
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Tỷ lệ hộ nghèo của xã nhỏ hơn hoặc bằng 10%.
- Thực hiện: Theo kết quả thống kê về điều tra hộ nghèo năm 2014, số hộ nghèo
của xã Bản Lầu 117 hộ/1.468 hộ chiếm 7,97 %.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 12 - Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Tỷ lệ người làm việc trên dân số trong độ tuổi lao động
lớn hơn hoặc bằng 90%.
- Thực hiện: Tổng số lao động của xã là 2.945 lao động, số lao động có việc làm
thường xuyên trong các lĩnh vực 2.783/2.945 lao động đạt 94.5%. Ngoài ra, Bản Lầu thu
hút lực lượng lao động lớn của các xã lân cận trong mùa vụ thu hoạch dứa, chuối.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 13 - Hình thức tổ chức sản xuất
- Yêu cầu đạt chuẩn tiêu chí: Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
- Thực hiện: Có 03 hợp tác xã gồm HTX Thịnh Phong, HTX dịch vụ Bản Lầu,
HTX Ánh Hoàng, số thành viên 03 HTX 21 người làm việc thường xuyên, trong đó có 02


23


hợp tác xã gồm HTX Thịnh Phong, HTX dịch vụ Bản Lầu hoạt động có hiệu quả, đóng
thuế đầy đủ theo quy định của nhà nước.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 14 - Giáo dục
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Xã đạt tiêu chí khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu:
+ Phổ cập giáo dục cơ sở: Đạt chuẩn theo Quyết định số 26/2001/QĐ-BGDĐT
ngày 5/7/2001.
+ Tỷ lệ học sinh THCS tiếp tục đi học THPT hoặc (bổ túc, học nghề) đạt 70% trở
lên;
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 20% trở lên.
- Thực hiện:
+ Xã đạt chuẩn giáo dục tiểu học chống mù chữ năm 1999; Phổ cập giáo dục tiểu
học và trung học cơ sở đúng độ tuổi năm 2005: Đạt.
+ Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục đi học THPT, bổ túc, học nghề
68/82 học sinh, đạt 84,1%: Đạt
+ Tỷ lệ lao động của xã đã qua đào tạo đạt 678/2945, bằng 23%: Đạt.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 15 - Y tế
- Yêu cầu đạt tiêu chí:
+ Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế trên 70%.
+ Y tế xã đạt chuẩn quốc gia (đạt 90 điểm trở lên, không có điểm liệt).
- Thực hiện:
+ Xã có 01 Trạm y tế xây dựng theo mẫu định hình và đã trang bị đủ thiết bị y tế
và vườn thuốc nam theo quy định: Đạt
+ Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 80%: Đạt
+ Số điểm theo yêu cầu Bộ tiêu chí Quốc gia về y tế đạt 93,5 điểm và không có
điểm liệt: Đạt

Tiêu chí

Nội dung tiêu chí

Điểm
chuẩn

Chấm
điểm

1

Chỉ đạo và điều hành công tác CSSK nhân dân

4

4

2

Nhân lực y tế

9

7

3

Cơ sở hạ tầng trạm y tế xã


12

12

4

Trang thiết bị thuốc và các phương tiện khác

10

9

5

Kế hoạch tài chính

10

10

6

Y tế dự phòng, vệ sinh môi trường và các chương 17
trình mục tiêu quốc gia về y tế

15

7

Khám chữa bệnh PHCN và y dược học cổ truyền


15

24

15


8

Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em

9

8,5

9

Dân số kế hoạch hóa gia đình

10

9

10

Truyền thông giáo dục sức khỏe

4


4

100

93,5

Tổng điểm

- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 16 - Văn hóa
- Yêu cầu đạt tiêu chí:
+ Xã có từ 70% số thôn bản trở lên đạt tiêu chuẩn văn hóa theo quy định của Bộ
Văn hóa TT&DL.
- Thực hiện:
+ Số thôn bản của xã đạt danh hiệu văn hóa là 16/21 thôn, gồm :Làng Ha, Cốc Chứ,
Na Nhung 1, Na Nhung 2, Bồ Quý, Trung Tâm, Na Pao, Thủ Lùng, Na Mạ 1, Na Mạ 2,
Km15, Na Lốc 1, Na Lốc 2, Na Lốc 3, Na Lốc 4, Cốc Phương, bằng 76,20% số thôn của
xã: Đạt
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 17 - Môi trường
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Có 5 yêu cầu.
+ Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh: 70%
+ Các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường.
+ Không có các hoạt động suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi
trường xanh sạch đẹp.
+ Nghĩa trang xây dựng theo quy hoạch;
+ Chất thải nước thải được thu gom và xử lý theo quy định.
- Thực hiện:
+ Số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 1.358 /1.468 hộ, bằng 92,5%: Đạt
+ Xã có 56 cơ sở sản xuất kinh doanh chia làm 2 loại:

+ Loại 1: 20 cơ sở, trong đó 06 cơ sở có hỗ sơ và 14 cơ sở đang hoàn thiện hồ sơ;
+ Loại 2: Có 36 cơ sở đã có bản cam kết bảo vệ môi trường.
+ Xã không có hoạt động suy giảm môi trường. Xã thực hiện tốt các hoạt động phát
triển môi trường xanh, sạch, đẹp như: Trồng cây xanh, thu dọn vệ sinh khu dân cư, làm bể
bioga: Đạt
+ Nghĩa trang và bãi xử lý rác thải đã được quy hoạch, đã được đầu tư xây dựng.
- Đánh giá: Đạt tiêu chí nông thôn mới
Tiêu chí 18 - Hệ thống chính trị xã hội
- Yêu cầu đạt tiêu chí: Gồm 4 yêu cầu
+ Cán bộ xã đạt chuẩn.
+ Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định.
+ Đảng bộ chính quyền xã đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh.

25


×