Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ bảo đảm KINH tế CHO QUỐC PHÒNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.62 KB, 27 trang )

1

BẢO ĐẢM KINH TẾ CHO QUỐC PHÒNG TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM KINH TẾ CHO
QUỐC PHÒNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Hậu cần và bảo đảm hậu cần
Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, hậu cần được hiểu theo hai
nghĩa: thứ nhất, “một mặt công tác quân sự, gồm tổng thể những hoạt động bảo
đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải... cho lực lượng vũ trang thực hiện
nhiệm vụ”. Trước đây công tác này gọi là ngành cung cấp; từ năm 1955 đến nay
gọi là hậu cần; thứ hai, “sinh lực và phương tiện vật chất dùng để bảo đảm hậu
cần, gồm các cơ quan, đơn vị chuyên môn nghiệp vụ, căn cứ, kho tàng, trạm
xưởng, bệnh viện... cùng toàn bộ phương tiện, trang bị kĩ thuật và vật chất hậu
cần ở các cấp”. Hậu cần của Việt Nam bao gồm, hậu cần nhân dân và hậu cần
quân đội. Sự kết hợp giữa hậu cần nhân dân với hậu cần quân đội đã tạo thành
sức mạnh đảm bảo hậu cần cho chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Cũng theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, bảo đảm hậu cần là “một
bộ phận của bảo đảm hoạt động tác chiến, gồm tổng thể các hoạt động: bảo đảm
vật chất, bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm quân y (thú y), bảo đảm vận tải và một số
mặt bảo đảm khác (bảo đảm công trình sân bay, quân cảng, cầu cảng) cho lực
lượng vũ trang nhằm duy trì khả năng hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ”. Để
bảo đảm các mặt đó, hậu cần quân đội có các chuyên ngành: quân nhu, xây dựng
và quản lí nhà đất (doanh trại), quân y, xăng dầu, vận tải...
1.1.2. Kinh tế và bảo đảm kinh tế
Để nhận diện đúng vai trò tố kinh tế trong mối quan hệ với quốc phòng và
chiến tranh, cần thống nhất quan niệm kinh tế theo cả nghĩa hẹp, nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế là cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nhu cầu quân sự, quốc


phòng để bảo vệ Tổ quốc thời bình, hoặc tiến hành chiến tranh khi tình thế bắt
buộc. Theo nghĩa rộng, kinh tế là một trong những hoạt động thường xuyên, cơ
bản nhất của con người, bao gồm toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra
của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Với ý nghĩa
như vậy thì kinh tế là “hoạt động để tạo ra cơ sở vật chất cho nhu cầu của con
người và xã hội”1, trong đó, có nhu cầu cho quân sự, quốc phòng.
Với cách hiểu như vậy thì một trong những vai trò của kinh tế là cung cấp
vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự để tiến hành chiến tranh hoặc thực hiện các
nhiệm vụ quốc phòng thường xuyên của một quốc gia. Trình độ phát triển của
nền kinh tế càng cao thì khả năng trang bị cho lực lượng vũ trang các loại vũ
khí, phương tiện kỹ thuật quân sự càng hiện đại và khả năng nuôi dưỡng, huấn
luyện quân đội càng tốt hơn. Vai trò của kinh tế đối với quốc phòng và chiến
tranh được tăng lên cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Qua đó khẳng
1

Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 1999, tr. 948.


2
định rằng, để tiến hành chiến tranh và nâng cao khả năng phòng thù của đất
nước, tất yếu phải có vũ khí và các phương tiện kỹ thuật quân sự khác. Mà các
sản phẩm đó được sản xuất bởi các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Trong tương lai, nếu chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế
lực thù địch khác tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, thì cuộc chiến tranh
đó sẽ được tiến hành bằng các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại
với sự tham gia của kỹ thuật và công nghệ cao. Theo đó, vai trò của kinh tế đối
với chiến tranh càng tăng, thậm chí có ý nghĩa quyết định sự thành, bại của
chiến tranh, thì việc chuẩn bị kinh tế để bảo đảm kinh tế cho hoạt động quốc
phòng hiện tại; và về lâu dài là chuẩn bị tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
càng trở nên bức thiết.

Với ý nghĩa đó thì kinh tế và bảo đảm kinh tế có nghĩa rộng và hàm chứa
cả nội dung của công tác hậu cần và bảo đảm hậu cần. Cần phân biệt rõ những
phạm trù này mới có phương pháp tiếp cận đúng với nội dung mà chuyên đề này
đề cập. Bởi trên thực tế còn đang lẫn lộn, mập mờ giữa khái niệm hậu cần và
khái niệm kinh tế, theo đó là đồng nhất khái niệm bảo đảm hậu cần với khái
niệm bảo đảm kinh tế; hoặc có ý kiến cho rằng bảo đảm hậu cần bao hàm trong
đó cả nội dung bảo đảm kinh tế.
1.2. Khái niệm và nội dung bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
1.2.1. Khái niệm
Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Trong
cuốn sách “Những cơ sở kinh tế của sức mạnh quân sự của nhà nước”,
A.I.Pôgiacốp cho rằng: Bảo đảm kinh tế cho chiến tranh, quốc phòng là khả
năng thực tế của nhà nước bảo đảm cho các lực lượng vũ trang của mình duy
trì khả năng quốc phòng cần thiết của đất nước. Khái niệm này đã chỉ ra:
- Chủ thể bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là nhà nước;
- Đối tượng được bảo đảm là lực lượng vũ trang;
- Mục đích của việc bảo đảm là tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Song khái niệm này chưa đề cập đến nội dung và phương thức bảo đảm.
Giáo trình kinh tế quân sự do nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản
năm 1985 định nghĩa: Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là toàn bộ những quá
trình, những biện pháp kinh tế nhằm thoả mãn các nhu cầu quân sự. Bao gồm:
phát triển cân đối các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ, các cơ sở khoa học;
phát triển mạng lưới giao thông vận tải; bảo đảm phương tiện thông tin liên lạc;
xây dựng sân bay, bến cảng, kho và căn cứ quân sự khác; xây dựng hậu phương;
tổ chức mô hình quản lý kinh tế thích ứng với yêu cầu của chiến tranh.
Tuy khái niệm này chỉ rõ phương thức, mục tiêu bảo đảm kinh tế cho quốc
phòng, song lại chưa đề cập đến nội dung bảo đảm, nhất là bảo đảm nhân lực,
vật lực, tài lực. Đây là những nội dung chủ yếu của việc bảo đảm kinh tế cho
quốc phòng. Mặt khác, khái niệm này được hình thành trong cơ chế kế hoạch
hoá tập trung nên chưa đề cập đến vai trò của các chủ thể trong hệ thống chính

trị, trong đó có vai trò của nhân dân và các thành phần kinh tế trong nền kinh tế.
Kế thừa, phát triển các khái niệm trên trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; khi so sánh lực lượng trên thế giới đã có những


3
thay đổi cơ bản, theo đó là tư duy về bảo vệ Tổ quốc đã có sự phát triển toàn
diện, đầy đủ hơn. Vì vậy, có thể đưa ra định nghĩa về bảo đảm kinh tế cho quốc
phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như
sau: Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tổng thể các quá trình, các biện pháp được Nhà
nước và nhân dân tiến hành nhằm thoả mãn mọi nhu cầu về phương tiện vật
chất, kỹ thuật, tài chính, nhân lực cho quốc phòng sẵn sàng ứng phó thắng lợi
với các tình huống an ninh truyền thống và phi truyền thống để bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, với khái niệm này nhiều nội dung đã được làm rõ, đó là:
- Chủ thể bảo đảm không chỉ là Nhà nước mà cả toàn dân;
- Phương thức bảo đảm là tổng thể các quá trình, các biện pháp;
- Nội dung bảo đảm gồm mọi nguồn lực như: nhân lực, vật chất, tài chính;
- Mục đích bảo đảm là đáp ứng nhu cầu quốc phòng trong mọi tình huống;
- Điều kiện, môi trường bảo đảm là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
1.2.2. Nội dung bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
Từ khái niệm trên cho thấy nội dung bảo đảm kinh tế cho quốc phòng gồm:
* Bảo đảm nguồn nhân lực
Đây là nội dung rất quan trọng vì trong mọi hoạt động nói chung, hoạt
động bảo vệ Tổ quốc nói riêng thì nguồn nhân lực luôn giữ vai trò quyết định.
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, trước sự phát triển mạnh của cách mạng khoa
học và công nghệ, vũ khí trang bị quân sự có sự phát triển vượt bậc, theo đó là
phương thức tiến hành chiến tranh cũng đã thay đổi, thì vai trò của nguồn nhân

lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng.
Quốc phòng Việt Nam là quốc phòng toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang
làm nòng cốt. Vì vậy, bảo đảm nguồn nhân lực cho quốc phòng, trước hết là bảo
đảm cho lực lượng vũ trang có đủ số và chất lượng đáp ứng hoạt động bảo vệ Tổ
quốc. Đồng thời phải chú ý đến lực lượng toàn dân rộng rãi.
Để bảo đảm nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu bảo vệ
Tổ quốc trong mọi tình huống, công tác bảo đảm phải được chuẩn bị chu đáo
ngay từ thời bình thông qua tổng thể các biện pháp như: tạo nguồn, đăng ký, tổ
chức, huấn luyện quân dự bị động viên; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ; xây
dựng luật pháp, cơ chế, chính sách huy động nhân lực… Trong thời bình, việc
bảo đảm nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang được duy trì ở mức hợp lý, khi
chiến tranh xảy ra thì bảo đảm tối đa nhân lực cho lực lượng vũ trang thông qua
động viên nguồn lực này.
* Bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự
Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự là điều kiện không thể thiếu
trong hoạt động quốc phòng, giữ vai trò quan trọng đối với hiệu quả hoạt động.
Khi chiến tranh xảy ra, nhu cầu về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự
tăng đột biến, nhất là thời kỳ đầu chiến tranh, thường vượt mức thông thường và
ngoài khả năng dự trữ chiến lược.


4
Nội dung bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm:
vũ khí; quân lương, quân trang, y tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
Nguồn bảo đảm được khai thác từ nhiều nguồn như:
- Nguồn trong nước (thông qua sản xuất, sửa chữa);
- Nguồn nước ngoài (mua sắm, viện trợ);
- Nguồn tự bảo đảm của lực lượng vũ trang và quân đội nói riêng;
- Nguồn từ chiến lợi phẩm (chỉ có trong chiến tranh).
Trong các nguồn trên thì nguồn trong nước giữ vai trò quyết định, các

nguồn khác rất quan trọng. Vì vậy, để chủ động nguồn bảo đảm trong nước phải
tập trung phát triển kinh tế, trên cơ sở đó mà tăng cường tiềm lực kinh tế quân
sự; đồng thời đăng ký, quản lý các nguồn động viên; chuẩn bị phương án động
viên kinh tế cho chiến tranh; kết hợp kinh tế với quốc phòng ngay từ thời bình.
* Bảo đảm tài chính
Đây là nội dung quan trọng của bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, nhất là
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua
bảo đảm tài chính, các đơn vị, địa phương khai thác cơ sở vật chất trong và
ngoài nước mà không cần cung cấp bằng hiện vật. Trong điều kiện bình thường,
bảo đảm tài chính cho quốc phòng thường được các nước duy trì ở 4-5% GDP.
Trong chiến tranh nhu cầu tài chính cho quốc phòng tăng nhanh, nhà nước phải
thông qua các biện pháp như tăng thuế, vay nước ngoài, phát hành công trái…
để bảo đảm cho quốc phòng và chiến tranh.
1.3. Sự cần thiết phải bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.3.1. Cơ sở lý luận
1.3.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế
với quốc phòng và chiến tranh
Kinh tế và quốc phòng là hai hoạt động thuộc hai lĩnh vực nhưng không
mâu thuẫn đối lập nhau, mà giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất
biện chứng với nhau. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định trình độ phát
triển sản xuất là nhân tố quyết định trong việc phát triển xã hội, mà còn nhấn
mạnh vai trò quyết định của nó trong chiến tranh. Kinh tế là nhân tố có ảnh
hưởng trực tiếp, quyết định đến thành bại của quân đội, qui mô, cơ cấu tổ chức
của các lực lượng vũ trang, đến hình thức và phương thức tiến hành chiến tranh,
đến sự phát triển của nghệ thuật quân sự.
Xem xét quan hệ giữa bạo lực và kinh tế, Ph.Ăngghen cho rằng, bạo lực
không đơn thuần là hành vi của ý chí, mà đòi hỏi phải có tiền đề để thực hiện, đó
là các công cụ, trong đó công cụ hoàn hảo hơn sẽ thắng công cụ không hoàn hảo
bằng; nghĩa là kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực hoàn hảo hơn… phải thắng kẻ sản

xuất ra công cụ bạo lực không hoàn hảo bằng. Điều đó cho thấy, thắng lợi của
bạo lực phụ thuộc vào việc sản xuất vũ khí, và việc sản xuất vũ khí lại dựa vào
sản xuất, nghĩa là dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào “tình hình kinh tế”, và
phương tiện vật chất mà bạo lực chi phối; xét đến cùng thì tiền phải do sản xuất
kinh tế làm ra; vậy một lần nữa, bạo lực lại do tình hình kinh tế quyết định, kinh
tế cung cấp cho bạo lực phương tiện để tạo ra và duy trì công cụ bạo lực.


5
Từ sự luận giải “Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ
thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định và
vào phương tiện giao thông”; thắng lợi của bạo lực dựa vào sản xuất vũ khí, và
sản xuất vũ khí lại dựa vào sản xuất, nghĩa là dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào
“tình hình kinh tế”, và phương tiện vật chất mà bạo lực chi phối được,
Ph.Ăngghen đưa ra kết luận: “Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện
kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội”. Phát triển luận điểm đó,
V.I.Lênin cho rằng “... trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, kinh tế... quyết định”,
đặc biệt trong chiến tranh hiện đại “tổ chức kinh tế có một ý nghĩa quyết định”.
Như vậy, kinh tế là nhân tố quyết định qui mô, tổ chức biên chế lực lượng vũ
trang, phương thức tiến hành chiến tranh.
Tuy nhiên kinh tế quyết định đến quốc phòng, chiến tranh không phải trực
tiếp mà gián tiếp thông qua tiềm lực kinh tế quân sự để tạo thành sức mạnh quân
sự. Điều này cũng có nghĩa là không phải có kinh tế mạnh là có quốc phòng
mạnh. Để phục vụ cho quốc phòng, nhất là khi chiến tranh xảy ra phải thông qua
tổng thể các biện pháp bảo đảm kinh tế thì mới đáp ứng yêu cầu của hoạt động
quốc phòng, chiến tranh.
1.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về bảo đảm kinh tế
cho quốc phòng và chiến tranh
Thứ nhất, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là vấn đề cốt lõi của việc
chuẩn bị thực lực kinh tế kháng chiến.

Theo quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn kháng chiến
lâu dài phải chuẩn bị đầy đủ, qua nhiều giai đoạn gian lao; đặc biệt, trong điều
kiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, thì “kinh tế là một ngành hoạt động tối
quan trọng”, “một mặt trận rất quan trọng”. Vì thế, muốn kháng chiến thắng lợi
“không thể không chú ý đến vấn đề động viên kinh tế ”. Để thực hành động viên
kinh tế, phải khéo léo huy động mọi lực lượng của cả nước, sao cho “người có
sức giúp sức, có tiền giúp tiền, có của giúp của” 2 cho kháng chiến. Do thực hiện
tốt động viên kinh tế mà chúng ta đã huy động hết thảy nhân lực, vật lực, tài lực
cho kháng chiến và kiến quốc. Nhờ đó thực lực nền kinh tế kháng chiến được bổ
sung, tăng cường một cách nhanh chóng, không chỉ góp phần quan trọng làm lên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn tạo tiền đề chuẩn
bị động viên kinh tế trong kháng chiến chống Mỹ. Điều đó cho thấy, kinh tế và
động viên kinh tế là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế kháng chiến.
Thứ hai, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là chủ động chuẩn bị sớm nền
kinh tế để vừa phục vụ kháng chiến trước mắt, vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau khi kháng chiến thắng lợi.
Sau khi thành lập chính quyền, trước bọn thực dân Pháp có ưu thế vượt trội
về tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự, để bảo vệ thành quả cách mạng và đối phó
với cuộc chiến tranh, nên Đảng ta chủ trương “phải có một nền kinh tế kháng
chiến. Nền kinh tế đó làm cơ sở cho nền kinh tế kiến quốc”; thắng lợi của kháng
chiến tùy thuộc vào việc “chúng ta động viên kinh tế” thành công ở mức độ nào.
Vì vậy, trong khi vừa chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, vừa gấp rút chỉ đạo
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 477.


6
chuẩn bị mọi mặt cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, trong đó đã
khéo léo huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước cho kháng chiến là vấn

đề cơ bản, cấp bách khi đó. Như vậy, bảo đảm kinh tế vừa xuất phát từ yêu cầu
kháng chiến, vừa là bước chuẩn bị sớm thực lực nền kinh tế kháng chiến nhằm
đáp ứng kịp thời yêu cầu kháng chiến trước mắt; đồng thời từng bước chuẩn bị
tiền đề cần thiết cho kiến quốc, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc sau khi kháng chiến thắng lợi.
Thứ ba, toàn dân kháng chiến là đặc trưng tiêu biểu của bảo đảm kinh tế
trong chiến tranh chiến tranh giải phóng dân tộc
Khi chiến tranh bùng nổ, ảnh hưởng của nó sẽ lan rộng khắp cả nước và
tác động sâu sắc đến mọi hoạt động của xã hội; nghĩa là “chiến tranh không
những chỉ phát động trong địa hạt quân sự ở tiền phương, mà còn phát động cả
trong các địa hạt khác ở hậu phương”. Do đó, muốn kháng chiến thắng lợi, kiến
quốc thành công, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng, phải thực hiện toàn
dân kháng chiến, nếu “thực hiện được toàn dân kháng chiến, phần thắng thế nào
cũng về ta”. Vì thế “ở hậu phương làm sao góp được nhiều sức, làm được nhiều
của, đó là kháng chiến”. Muốn thực hiện toàn dân kháng chiến, thì “ngoài việc
động viên quân sự, chính trị, ngoại giao, còn phải động viên cả tinh thần lẫn
kinh tế”, sao cho “các tầng lớp nhân dân đều chung đúc tâm trí vào lợi ích của
dân tộc mà phấn đấu... Dù đau khổ đến đâu mặc lòng, ai cũng phải trổ hết tài
năng, làm hết nhiệm vụ để sáng tạo tất cả cái gì có thể giúp ích cho sự kháng
chiến, để làm cho mọi việc đều được tăng tiến”.
Thứ tư, tiết kiệm và tăng gia sản xuất là một sáng tạo độc đáo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong điều
kiện chiến tranh
Khác với sản xuất hoặc tăng gia sản xuất, tiết kiệm không trực tiếp sản xuất
ra sản phẩm mới hay giá trị sử dụng mới, nhưng lại có ý nghĩa tích lũy giá trị
cho xã hội. Vì thê, “việc tiết kiệm cũng có tính chất quan trọng như tăng gia sản
xuất”. Với ý nghĩa đó, thì chủ trương “tích cực tiết kiệm và tăng gia sản xuất”là
một trong các mục đích của bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Trong hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, kẻ thù có ưu thế hơn hẳn về
kinh tế, quân sự nên chúng ta chủ trương kháng chiến trường kỳ. Để kháng

chiến trường kỳ, cần phải chuẩn bị nhiều lương thực, thực phẩm, quân trang,
quân dụng, nhu yếu phẩm và các phương tiện chiến tranh khác. Nếu không tích
cực tăng gia sản xuất sẽ không đủ cung cấp các nhu cầu đó cho kháng chiến.
“Tăng gia sản xuất đã vậy, lại còn phải tiết kiệm để có đủ mà cống hiến cho
cuộc kháng chiến”3. Để thực hành tiết kiệm, trước hết,“hạn chế những nghề
nghiệp phải dùng đến thóc gạo như nghề nấu rượu. Khuyến khích giồng nhiều
những thức ăn thay cho gạo như ngô, khoai, đậu, sắn, v.v.. Cấm ngặt những sự
chi tiêu xa xỉ và vô ích. Ngoài việc tiết kiệm tiền bạc, lương thực, chúng ta còn
phải tiết kiệm những thứ cần về quân sự mà phải mua ở ngoài như étxăng, các
chất hoá học…”. Mặt khác, phải “thực hành tự cấp tự túc bằng cách thiết thực,
bằng tăng gia sản xuất”. Với khẩu hiệu: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất
3

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 478.


7
ngay! Tăng gia sản xuất nữa” mà phong trào tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm được đẩy mạnh. Nhờ đẩy mạnh tăng gia sản xuất kết hợp chiến đấu với sản
xuất, vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất mà đời sống nhân dân từng bước được
ổn định, động viên mọi nguồn lực cho kháng chiến, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Đó là một sáng tạo độc đáo
của Đảng ta để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Thứ năm, trong điều kiện chiến tranh, để bảo đảm kinh tế phải động viên
toàn diện các ngành, các lĩnh vực, trong đó nhấn mạnh động viên nhân lực,
giao thông, công nghệ (công nghiệp), nông nghiệp, tài chính và tiết kiệm. Cụ thể
là :
- Mục đích của động viên nguồn nhân lực là nhằm “trưng mộ và phân phối
nhân công” cho thích hợp đối với mọi nhu cầu sử dụng lao động theo phương
châm sử dụng “sức lao động thế nào cho khỏi phí một giọt mồ hôi, một giọt

máu, mà tăng thêm được lực lượng cho cuộc kháng chiến”. Trong đó: ưu tiên lực
lượng chiến đấu, vì “quân sự cần rất nhiều sức người”; coi trọng các lĩnh vực
sản xuất, nhất là vận tải, chế tạo quân nhu, thông tin; trưng dụng nhân viên
chuyên môn dự bị; tổ chức những đội quân lao động, đội dân binh từ những thợ
ít tuổi, thợ đàn bà thay cho trai tráng ra mặt trận để làm công việc vận tải, xây
dựng và công việc khẩn cấp khác.
- Vì giao thông là hoạt động rất quan trọng, nên động viên giao thông là
huy động mọi loại phương tiện cả hiện đại và thô sơ, củng cố hệ thống đường xá
thủy bộ cho thuận tiện, giao thông và thông tin kịp thời. Để động viên giao
thông có hiệu quả, phục vụ tốt cho kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương “nếu cần, phải mở thêm đường thay cho những đường bị phá,
bị nghẽn. Nên dùng thêm cả lừa, ngựa, trâu, bò vào việc vận tải”.
- Công nghiệp là ngành sản xuất vũ khí, phương tiện chiến tranh, nên động
viên công nghiệp là nội dung cốt lõi của động viên kinh tế. Vì vậy, phải động
viên công nghiệp “chế nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và để cung
cấp cho nhân dân”. Để thực hành động viên công nghiệp, cùng với mở rộng các
lĩnh vực sản xuất cho nhu cầu chiến tranh do chính phủ quản lý, phải đẩy mạnh
phát triển sản xuất công nghiệp của khu vực tư nhân; đồng thời có kế hoạch sơ
tán, di chuyển các nhà máy, công xưởng quan trọng, cần thiết nhất cho kháng
chiến đến các nơi an toàn để hạn chế tổn thất nếu bị đánh phá. Động viên công
nghiệp cần “chú ý nhất về việc cung cấp nguyên liệu”.
- Vai trò của sản xuất nông nghiệp là cung cấp nhiều lương thực, thực phẩm
cho tiêu dùng và cung cấp một phần nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp trong
nền kinh tế kháng chiến. Vì vậy, động viên nông nghiệp phải hướng đến khuyến
khích giai cấp nông dân phát triển nông nghiệp, cải tiến nông cụ, mở rộng diện
tích canh tác, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất lao động. Nghĩa là làm
cho nông nghiệp “trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều bông để quân và dân đủ ăn,
đủ mặc, đủ dùng; Bảo vệ mùa màng, cất giấu thóc lúa; Sẵn sàng tiếp tế lương
thực cho quân đội và các cơ quan”.
- Động viên tài chính là huy động các nguồn lực tài chính phục vụ cho phát

triển nền kinh tế kháng chiến, nhất là phát triển các ngành công, nông, thương và


8
dịch vụ. Biện pháp thực hiện động viên tài chính được áp dụng chủ yếu la: hoãn
các khoản nợ, cấm buôn bán vàng bạc, kiểm tra chặt chẽ hoạt động thương mại,
phát hành công trái, tập trung các loại kim khí do dân tích trữ, đánh thuế đối với
nhu cầu tiêu dùng xa xỉ, thực hiện đảm phụ quốc phòng. Mặc dù đảm phụ quốc
phòng chỉ thực hiện trong năm 1946 như một biện pháp động viên tài chính,
nhưng đã góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm cho cả nước chủ
động bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
CHÚ Ý:
ĐPQP là hình thức huy động sự đóng góp tài chính theo nghĩa vụ công dân
nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu quốc phòng trong kháng chiến chống Pháp.
ĐPQP ban hành theo sắc lệnh số 48-SL, 10/4/1946 của chủ tịch nước
Theo sắc lệnh này, mọi công dân từ 18 tuổi đến 65 tuổi, không phân biệt
nam nữ, đều phải nộp ĐPQP (trừ những người được miễn theo quy định).
ĐPQP có:
+ Đảm phụ chính: thu 5 đồng một người
+ Đảm phụ tỉ lệ: thu của người nộp thuế hoặc thu nhập cao, theo luỹ tiến.
- Tiết kiệm là biện pháp quan trọng để thực hành động viên kinh tế. Để
thực hành tiết kiệm, ngoài việc đặt ra Ủy ban xem xét việc cung cấp và tiêu
dùng lương thực, điều tra số thóc hiện có và định lượng mỗi người, Hồ Chí
Minh còn kêu gọi thực hiện chủ trương “những vật nhu cầu cho cuộc kháng
chiến, chúng ta phải hết sức tăng gia sản xuất. Những việc tiêu xài vô ích, chúng
ta phải cố gắng tinh giảm”, “phải cần kiệm bỏ hết mọi xa xỉ để lấy tiền cống
hiến cho quỹ kháng chiến”. Đặc biệt, khi cần “phải trưng thu những số thóc thừa
rồi trả bằng tiền”. Để kịp thời đẩy lùi nạn đói đang trầm trọng và khắc phục tình
trạng kiệt quệ của đất nước sau chiến tranh, Người đề nghị mở cuộc lạc quyên
và Người đã gương mẫu thực hiện “10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3

bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Nhờ các biện pháp tích
cực như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được
hàng vạn tấn gạo cứu đói.
Từ những vấn đề trên cho thấy, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng đã trở
thành chủ trương chiến lược của Đảng ta không chỉ trong đấu tranh chống xâm
lược, mà cả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, vấn đề này
đã được Đảng ta kế thừa, phát triển lên trình độ mới, phù hợp, hiệu quả hơn
trong tình hình mới.
1.3.1.3. Nhu cầu bù đắp cho tiêu hao và tổn thất kinh tế trong chiến tranh
ngày càng tăng nhanh. Điều đó được thể hiện trên các nội dung sau:
Đặc điểm của chiến tranh hiện đại là quy mô tuy không lớn nhưng mức tiêu
hao rất lớn về nhân lực, vật tư, tài chính. Chiến tranh càng hiện đại, khối lượng
sử dụng và tiêu hao vật chất, kỹ thuật càng lớn. Chẳng hạn:
- Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, để sản xuất cho chiến tranh “Mỹ đã
phải động viên hơn 60%... Liên Xô đã động viên tới 78%... Nước Đức động viên
toàn bộ khả năng sản xuất công nghiệp để sản xuất sản phẩm quân sự”.


9
- Mức tiêu hao vật chất, kỹ thuật của chiến tranh Trung Đông lần thứ tư
khoảng “hai lần đại chiến thế giới lần thứ hai; 20 lần đại chiến lần thứ nhất”4.
- Trong chiến tranh vùng Vịnh (năm 1991) con số khổng lồ hơn: mỗi ngày
Mỹ tiêu tốn gần 1,5 tỷ USD; một giờ bắn 0,6 vạn tấn đạn; huy động 80 bộ môn
kinh tế và kỹ thuật tham gia sản xuất quân sự; 38 công ty hàng không; 7 công ty
đường sắt; 10 công ty hàng hải; 73 công ty sản xuất thực phẩm. Liên quân Anh,
Pháp, Đức, Canađa... huy động hơn 1.000 công ty tham gia cuộc chiến này.
- Mức độ thiệt hại của Irắc và một số quốc gia Trung Đông khác đạt con số
kỷ lục trong lịch sử của các cuộc chiến tranh.
Hoặc tính bình quân mức tiêu dùng/một ngày/một người trong một số
cuộc chiến tranh gần đây như sau:

- Chiến tranh thế giới thứ nhất: 6 kg/1người/1 ngày
- Chiến tranh thế giới thứ hai: 20 kg/1người/1ngày
- Chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ: 90 kg/1 người/1ngày
- Chiến tranh vùng Vịnh tiêu hao đạn dược bình quân một ngày gấp 21 lần
chiến tranh Triều Tiên và 3, 6 lần chiến tranh Việt Nam.
Với mức tiêu hao lớn như vậy nếu chỉ dựa vào mức độ dự trữ nóng và năng
lực của công nghiệp quốc phòng thì không thể đáp ứng được. Ngay cả các nước
có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh, có khả năng cho phép dự trữ lớn cũng
không thể dự trữ sẵn trong kho một khối lượng vật chất đủ bù đắp tiêu hao trong
thời gian dài của chiến tranh. Thông thường chỉ chuẩn bị ở mức tối ưu cho phép
từ 3 đến 6 tháng tùy khả năng của từng nước mà mức dự trữ khác nhau. Hết thời
gian đó nền kinh tế quốc dân, trong đó có công nghiệp dân dụng phải cung ứng
kịp thời cho nhu cầu tiếp theo của chiến tranh. Điều đó có nghĩa là tùy theo quy
mô chiến tranh mà tiến hành động viên cục bộ hoặc toàn bộ nền kinh tế để tập
trung sản xuất các loại sản phẩm quân sự cho chiến tranh. Nếu chỉ dựa vào mức
dự trữ trong thời bình mà không quan tâm hoặc không xác định kế hoạch để
động viên kinh tế thì khó có thể tồn tại ngay từ ngày đầu chiến tranh chứ chưa
nói đến duy trì động viên trong các giai đoạn tiếp theo.
Từ những số liệu trên cho thấy: chiến tranh càng hiện đại, thì nhu cầu kinh
tế cho chiến tranh tăng cả về số lượng, chất lượng, chủng loại. Vì vậy, để đáp
ứng nhu cầu đó, đòi hỏi mỗi quốc gia phải chuẩn bị sớm, từ trước về mọi mặt,
trong đó chuẩn bị kinh tế là vấn đề cốt lõi.

4

“Chương 9: Xây dựng động viên quốc phòng”, Giáo trình chiến lược học phát triển quốc phòng, Nxb. Đại học Quốc phòng Trung Quốc,
Bắc Kinh, 1992, Phòng Khoa học kinh tế - Quân sự, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế dịch, tr. 19.


10

PHẦN II
THỰC TIỄN BẢO ĐẢM KINH TẾ CHO QUỐC PHÒNG
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC
2.1. Thực tiễn bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong lịch sử nhân loại
Thực tiễn cho thấy, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và chiến tranh được
tiến hành ngay từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Từ nhà nước
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đến nhà nước xã hội chủ nghĩa
đều phải bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, chỉ khác nhau ở mục đích bảo đảm.
Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nguồn bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
được lấy từ các sản phẩm và tiền thuế của khu vực nông nghiệp và các xưởng
thủ công; quy mô bảo đảm chưa lớn, tính chất chưa phức tạp;
Đến chủ nghĩa tư bản, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phát triển
của vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự làm cho quy mô và tính chất của chiến
tranh phát triển, theo đó là yêu cầu bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, chiến tranh
tăng nhanh. Để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, nhất là khi chiến tranh, nhà
nước tư sản thường tiến hành các biện pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng các đạo luật bảo đảm kinh tế cho quốc phòng như: luật
nghĩa vụ quân sự; luật dự bị động viên; luật ngân sách… Theo đó là bộ máy đồ
sộ từ trung ương đến cơ sở để tổ chức động viên kinh tế cho chiến tranh.
Hai là, coi trọng hiện đại hoá quân đội, chủ động chuẩn bị tiềm lực kinh tế
quân sự đáp ứng nhu cầu quốc phòng, chiến tranh.
Ba là, thực hiện quân sự hoá nền kinh tế, huy động tối đa năng lực sản xuất
quân sự, mở rộng quy mô, cơ cấu sản xuất quân sự đáp ứng yêu cầu chiến tranh.
Bốn là, tăng ngân sách quốc phòng, kể cả khi chiến tranh lạnh đã kết thúc.
Năm là, chủ động dữ trữ chiến lược cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực cho
quốc phòng và chiến tranh.
Sáu là, thông qua các khối quân sự, liên minh quân sự để tăng cường khả
năng bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, chiến tranh.
2.2. Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở Liên Xô
Sau cách mạng tháng Mười, trước nguy cơ xâm lược, V.I.Lênin cho rằng,

nếu kinh tế không được chuẩn bị sớm, từ trước thì việc tiến hành chiến tranh
chống xâm lược là điều không thể. Vì theo V.I.Lênin: “Cuộc chiến tranh cách
mạng này cần được chuẩn bị lâu dài, nghiêm túc, bắt đầu phát triển kinh tế…” 5.
Trong nhiều trường hợp, V.I.Lênin khẳng định kinh tế có vai trò quyết định sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, theo đó để chuẩn bị quốc phòng, ngăn chặn
chiến tranh phải “bắt đầu phát triển kinh tế”. Với nhận thức đó, V.I.Lênin đã
lãnh đạo thành công việc khôi phục nền kinh tế nước Nga, khẩn trương chuẩn bị
kinh tế quân sự để tiến hành chiến tranh vệ quốc, góp phần đập tan mưu đồ xâm
lược, thôn tính của chủ nghĩa đế quốc đối với nước Nga Xô Viết, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.
5

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 35, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mátxcơva - 1976, tr. 481.


11
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô và sự nỗ lực của nhân dân,
chỉ trong thời gian ngắn từ 1917-1937 Liên Xô đã trở thành nước công nghiệp
hiện đại, trong đó công nghiệp quốc phòng có khả năng trang bị vũ khí, phương
tiện kỹ thuật quân sự hiện đại đáp ứng yêu cầu của các lực lượng vũ trang.
Trước nguy cơ chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã thi hành những biện
pháp đặc biệt, tăng thêm quân số của lực lượng vũ trang, xây dựng thêm các sư
đoàn không quân, thiết giáp, pháo binh và hạm đội; tổ chức lại Hồng quân; xây
dựng mới nhiều cơ sở công nghiệp quốc phòng. Đến năm 1940, số lượng nhà
máy sản xuất máy bay tăng 74% so với năm 1937. Năng lực sản xuất máy bay,
xe thiết giáp có công suất cao hơn Đức 1,5 lần. Nhà máy sản xuất súng bộ binh,
pháo, đạn vượt xa Đức. Liên Xô đã thi hành nhiều biện pháp để động viên kinh
tế cho chiến tranh, mở rộng hậu cần, nhất là hậu cần quân đội để đáp ứng nhu
cầu của Hồng quân.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã ban hành nhiều sắc lệnh

nhằm động viên mọi nguồn lực để năng lực sản xuất và tiềm lực kinh tế, nhất là
tiềm lực kinh tế quân sự , hướng mọi lực lượng, mọi phương tiện để bảo đảm tốt
nhất, nhanh nhất cho Hồng quân. Nhờ vậy, trong thời gian chiến tranh, Liên Xô
đã sản xuất 134 ngàn máy bay, 103 ngàn xe tăng và pháo tự hành, 825 ngàn đại
bác và súng cối; trong khi Đức chỉ sản xuất 79 ngàn máy bay, 54 ngàn xe tăng,
170 ngàn đại bác và súng cối.
Đặc biệt, để bảo đảm kinh tế cho chiến tranh, Liên Xô rất chú trọng xây
dựng ngành hậu cần quân đội. Cho phép ngành này giải quyết mọi vấn đề từ
khai thác nguồn đến phương thức bảo đảm. Đặc biệt được áp dụng biện pháp
khẩn cấp để nâng cao khả năng vận tải đáp ứng cho các hướng chiến lược, các
chiến trường trọng yếu. Nhờ đó mà ngành hậu cần đã bảo đảm một khối lượng
hàng hoá lớn cho Hồng quân: 108 ngàn máy bay chiến đấu, 95 ngàn xe tăng và
pháo tự hành, 445,7 ngàn đại bác và súng cối, 954,5 ngàn súng máy, 12 triệu
súng trường, 6,1 triệu tiểu liên, 427 triệu viên đạn súng trường, 21,4 triệu viên
đạn súng máy, 168,3 triệu lựu đạn, 16 triệu tấn nhiên liệu, 40 triệu tấn lương
thực, thực phẩm, 38 triệu áo caphot, 73 triệu bộ quần áo, 20 triệu quần đệm
bông và 11 triệu đôi ủng. Đây là cơ sở vật chất và kỹ thuật quan trọng, góp phần
vào thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong chiến tranh thế giới hai.
Thắng lợi của Liên Xô đã chứng minh, trong chiến tranh, thắng lợi chỉ
thuộc về bên nào có ưu thế bảo đảm kịp thời về nhân lực, vật lực, tài chính cho
chiến tranh. Tuy nhiên, điều này lại phụ thuộc vào phương thức huy động, biện
pháp bảo đảm, được quy định bởi bản chất chế độ kinh tế-xã hội và mục đích
chính trị của chiến tranh.
2.3. Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở một số nước ASEAN
Ngoài Việt Nam, Lào, Cămpuchia, hầu hết các nước ASEAN đều có sự bảo
trợ quân sự của Mỹ. Mặc dù vậy, việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở các
nước này vẫn được chính phủ quan tâm. Có thể tham khảo trên một số nội dung:
Một là, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng thông qua ngân sách quốc phòng
(4-5% GDP). Với nguồn ngân sách lớn, lại được Mỹ, Nhật hỗ trợ nên Thái Lan,
MaLaixia, Inđônêxia, Myanma, Singapo đã xây dựng được tiềm lực quân sự



12
mạnh, trong đó quân đội Thái Lan, Singapo với nhiều quân binh chủng có vũ
khí, phương tiện kỹ thuật quân sự tương đối hiện đại.
Malaixia, Inđônêxia, Myanma, Philippin đang chuyển quân đội từ lực
lượng ứng phó với xung đột dân tộc và chống nổi dậy sang xây dựng quân đội
có khả năng ứng phó với nguy cơ xâm lược. Ngoài bảo đảm từ ngân sách quốc
phòng, quân đội các nước này còn có nguồn thu từ tổ hợp công nghiệp quốc
phòng thông qua xuất, nhập khẩu vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, chuyển
giao công nghệ, nổi bật là Singapo, MaLaixia.
Hai là, về phương thức bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Kết hợp giữa hậu
cần quân đội và cơ chế thị trường. Trong đó cơ chế thị trường chiếm tỷ trọng 6079%. Đây là phương thức bảo đảm có hiệu quả trong thời bình.
Ba là, ngoài ra, các nước này còn thường xuyên nhận được viện trợ quân
sự thông qua trao đổi, mua bán vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự với phương
Tây và một số nước thuộc Liên Xô cũ, Trung Quốc, Ân Độ…`
Tuy nhiên việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở các nước này còn hạn
chế như: chưa xây dựng được nền quốc phòng toàn dân; chịu sức ép từ sự bảo
trợ của Mỹ; quá nhấn mạnh cơ chế thị trường nên khi đất nước chuyển sang
trạng thái chiến tranh sẽ gặp khó khăn, nhất là động viên kinh tế cho chiến tranh.
2.4. Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở Việt Nam
2.4.1. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
Trong kháng chiến chống Pháp, do nhận thức và đánh giá đúng vai trò của
kinh tế và chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự mà Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện
kết hợp chiến đấu với sản xuất, vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất. Với đường
lối “kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến
quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau
thắng lợi”, nên trong điều kiện kháng chiến, chúng ta đã xây dựng nhiều cơ sở
sản xuất quốc phòng để sản xuất vũ khí, phương tiện vật chất khác, đồng thời
huy động tối đa tiềm lực kinh tế để tăng cường thực lực quốc phòng. Thực chất

đây là quá trình chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự cho kháng chiến trường kỳ.
Theo đó, mỗi tỉnh có 1 đơn vị vệ quốc quân. Nếu năm 1945 tổng số bộ đội
là 5.000 người thì năm 1946 đã là 80.000 người, bao gồm 32 trung đoàn ở Bắc
và Trung bộ, 25 chi đội ở Nam bộ. Ngoài ra, gần 1 triệu dân quân du kích ở các
địa phương6. Nhờ nỗ lực của cả nước, với phong trào toàn dân kháng chiến phát
triển mạnh mẽ, đến năm 1951 các đại đoàn chủ lực đã ra đời. Đây là mốc dánh
dấu sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang cách mạng nước ta, trong đó
quân đội là lực lượng nòng cốt.
Khi kháng chiến bước vào giai đoạn quyết định, quân đội ta cần xây dựng
một số đại đoàn chủ lực mạnh để mở các chiến dịch nhằm thay đổi so sánh lực
lượng giữa ta và địch, thì mọi nguồn lực cho nhu cầu kháng chiến sẽ khó đáp
ứng nếu chỉ dựa vào đóng góp của nhân dân. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải tạo
bước phát triển nhảy vọt về khả năng bảo đảm kinh tế cho kháng chiến, nghĩa là
“quân đội phải đủ súng, quân và dân phải đủ ăn, đủ mặc…”, phải “cung cấp đủ
súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội, thì bộ đội mới đánh thắng trận điều đó rất rõ
6

40 năm xây dựng Lực lượng vũ trang Việt Nam, Nxb Sự thật, H. 1994, tr. 49.


13
ràng dễ hiểu”7. Để đáp ứng nhu cầu đó, các ngành kinh tế, nhất là công nghiệp,
nông nghiệp phải sản xuất nhiều vũ khí, trang bị cung cấp cho lực lượng vũ
trang và nhiều sản phẩm thiết yếu khác cho tiêu dùng xã hội. Nhờ đẩy mạnh
tăng gia sản xuất, kết hợp chiến đấu với sản xuất, vừa đánh giặc vừa tăng gia sản
xuất, chúng ta đã dập tắt nạn đói, từng bước ổn định đời sống nhân dân, động
viên được mọi nguồn lực cho kháng chiến.
Đảng và Nhà nước ta coi việc bảo đảm kinh tế cho lực lượng vũ trang là
trách nhiệm của các cáp bộ đảng, chính quyền. Tại Hội nghị Trung ương 10
(năm 1951) Đảng ta chủ trương: “Phải thực hiện từng bước tiêu chuẩn cung cấp

cho bộ đội, xem đó là trách nhiệm của Trung ương, của các cấp, các ngành, nhất
là của các đồng chí phụ trách ngân hàng, mậu dịch, tài chính, canh nông, nông
hội, công đoàn và tổng cục cung cấp (nay là TCHC). Đồng thời phải làm cho
toàn dân nhận rõ trách nhiệm của mình đối với việc cung cấp cho bộ đội”8.
Sau chiến dịch Biên giới, chúng ta đã phá được thế bao vây, cô lập của
địch, mở thông thương với Trung Quốc và các nước trong hệ thống XHCN, nên
việc bảo đảm kinh tế cho kháng chiến, nhất là cho quân đội, ngoài việc tự cung
cấp, còn nhận được sự viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong kháng chiến chống thực
dân Pháp là: đã kết hợp tốt giữa hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, coi hậu
cần là cầu nối của công tác bảo đảm. Đảng, Nhà nước đặc biệt coi trọng sức
mạnh hậu cần nhân dân, do đó đã dựa vào nhân dân để tiến hành công tác hậu
cần bằng cách vừa bồi dưỡng sức dân (thông qua cải cách ruộng đất, giảm tô,
giảm thuế ở vùng giải phóng) vừa động viên sức dân bảo đảm cho quân đội.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ thù
không thể nào tiêu diệt được”, “Kháng chiến trường kỳ thì quân đội phải có đủ
súng đạn, quân và dân phải đủ ăn, đủ mặc. Nước ta nghèo, kỹ thuật kém phải
dùng tinh thần hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết thiếu, kém về vật
chất”. Tại Hội nghị Trung ương bốn (năm 1952) Người chỉ rõ: “Để cho nhân
dân hăng hái và có sức đóng góp cho kháng chiến phải bồi dưỡng sức dân, phải
bồi dưỡng lực lượng nhân dân nhiều hơn yêu cầu nhân dân đóng góp”.
Thực hiện quan điểm trên, chúng ta đã huy động được sức dân trong bảo
đảm hậu cần cho quân đội. Chỉ tính riêng trong chiến dịch Điện Biên phủ, nhân
dân đã đóng góp 2 vạn xe đạp thồ, 1 vạn chiếc thuyền, 500 ngựa thồ và hàng vạn
dân công hoả tuyến để làm đường, vận chuyển lương thực, vũ khí đạn dược cho
chiến dịch. Riêng lực lượng vận chuyển bảo đảm trong chiến dịch điện Biên Phủ
đã huy động 29.000 dân công, 3.000 lực lượng hậu cần quân đội; “Tổng số
nguyên liệu ta tự sản xuất trong 9 năm kháng chiến là hơn 50.000 tấn” 9. Riêng
công nghiệp quốc phòng “đã sản xuất được 12.000 tấn vũ khí đạn dược cho các

lực lượng vũ trang, đào tạo một đội ngũ cán bộ công nhân trên 6 vạn người”10.
7
8

9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội - 1995, tr. 295.
Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb QĐND, H. 1976, tr. 95.
Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi (1945-1954), Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1996, tr. 193.

10

Hậu phương chiến tranh Việt Nam 1945-1975, Nxb. QĐND, Hà Nội, 1997, tr. 46.


14
Cùng với hậu cần nhân dân, hậu cần quân đội từng bước được củng cố phát
triển, theo phương thức bảo đảm không ngừng hoàn thiện: từ có gì cấp nấy ở
thời kỳ đầu kháng chiến, đến quy định thành tiêu chuẩn thống nhất. Kết hợp bảo
đảm hậu cần tại chỗ với với hậu cần chiến lược từ hậu phương chi viện và sử
dụng chiến lợi phẩm thu được của địch. Nhờ đó góp phần quan trọng vào thắng
lợi của quân và dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sự sáng tạo và thành công của đường lối phát triển kinh tế kháng chiến,
bảo đảm kinh tế cho kháng chiến nói riêng giai đoạn 1945 - 1954 là “sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế xã hội với nhiệm vụ
hàng đầu là bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi, giữ vững độc lập dân tộc”11.
2.4.2. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, tuy đất nước tạm thời chia làm 2
miền, nhưng cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc. Do

đó, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang và quân đội đã thay đổi: nếu trước đây chủ
yếu làm nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng đất nước, thì nay đồng thời phải tham
gia xây dựng đất nước, trực tiếp bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và tiến hành chiến tranh chống xâm lược ở miền Nam nhằm thống
nhất nước nhà.
Trong kháng chiến chống Mĩ, để bảo đảm kinh tế cho kháng chiến, tại Hội
nghị Trung ương lần thứ 11 (khóa III), Đảng ta chủ trương: chuyển hướng nền
kinh tế và tăng cường quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình theo hướng
kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, ra sức động viên
lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, tích cực phát triển kinh tế theo
từng vùng chiến lược, làm cho từng vùng có khả năng tự giải quyết phần lớn
nhu cầu ăn, mặc, ở, học, bảo vệ sức khỏe, tiêu dùng thiết yếu, phục vụ sản xuất,
xây dựng và chiến đấu. Nhờ thực hiện có hiệu quả chủ trương này, dù bị chiến
tranh phá hoại của Mỹ tàn phá nặng nề, nhưng kinh tế miền Bắc đã thể hiện sức
mạnh ưu việt, không chỉ đứng vững mà còn phát triển nhiều mặt; cơ bản khắc
phục thiếu thốn và yếu kém về vật chất, vũ khí, trang bị quân sự, vừa đáp ứng
yêu cầu đánh thắng chiến tranh phá hoại, bảo vệ miền Bắc, vừa chi viện với mức
độ ngày càng cao cho miền Nam; xây dựng và tăng cường tiềm lực mọi mặt, góp
phần ổn định đời sống, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn miền Bắc đối với
tiền tuyến lớn miền Nam.
Trong thời gian 10 năm (1955-1965), với sự nỗ lực của chính mình và sự
giúp đỡ của quốc tế, chúng ta đã tích cực củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang,
thành lập mới nhiều quân, binh chủng; công nghiệp quốc phòng được xây dựng
với hàng trăm xí nghiệp có khả năng sản xuất vũ khí nhẹ, sửa chữa, bảo quản,
nâng cấp vũ khí, trang bị quân sự; nguồn dự trữ chiến lược về lương thực, thực
phẩm, quân trang, quân dụng đã được bổ sung, tăng cường nhanh chóng cả về số
lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian.
Sau khi Mỹ gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 2/8/1964, lấy cớ mở rộng
chiến tranh và đánh phá miền Bắc, đặc biệt năm 1965 Mỹ đưa thêm 55 vạn quân
11


Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, Tập 1, Nxb QĐND, Hà Nội - 1985, tr. 37.


15
vào Miền Nam trực tiếp tham chiến. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương
12 khoá III chủ trương động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ, bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc,
giải phóng miền Nam. Thực hiện chủ trương này, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ quân
đội đã xuất ngũ, đang làm việc ở các nông trường được động viên trở lại quân
đội; tuyển thêm quân để mở rộng lực lượng vũ trang; động viên sức người, sức
của chi viện cho miền Nam với khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một người”; kết hợp chặt chẽ giữa lao động sản xuất với sẵn sàng
chiến đấu “tay súng tay cày”.
Vì vậy, năm 1965 số người động viên vào quân đội tăng 5 lần. Để bảo đảm
kinh tế cho nhu cầu thời chiến, ngoài viện trợ, chúng ta đã động viên từ 12-20%
tổng sản lượng lương thực, thực phẩm, 20-24% ngân sách Nhà nước. Riêng về
nguồn nhân lực, mức động viên cao nhất có năm lên tới 1,2 triệu người, chưa kể
lực lượng thanh niên xung phong và lực lượng vũ trang khác. Trong lịch sử đấu
tranh chống xâm lược, đây là lần động viên kinh tế lớn nhất, nhất là nguồn nhân
lực, vật tư, tài chính.
Với phương châm vừa sản xuất, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa; vừa
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đường lối phát triển kinh
tế do Đại hội III của Đảng đề ra vẫn được triển khai tích cực ngay cả trong điều
kiện bị đánh phá ác liệt. Cùng với việc xác lập quan hệ sản xuất mới, miền Bắc
đã tiến hành công nghiệp hóa theo hướng “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”12.
Nhờ chủ trương này, một số ngành công nghiệp nặng đã có năng lực đáng kể,
tăng cả về số lượng và quy mô. Công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất có 797 xí
nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng có 538 xí nghiệp. Tỷ trọng công

nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công, nông nghiệp từ 42,4% năm 1960 tăng
lên 53% năm 1965. Hơn 90% hàng tiêu dùng thiết yếu và một phần tư liệu sản
xuất do công nghiệp trung ương và địa phương bảo đảm. Đây là cơ sở vật chất,
kỹ thuật quan trọng để trang bị lại cho nền kinh tế quốc dân thực hiện tái sản
xuất mở rộng, tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật để xây dựng và phát triển công nghiệp
quốc phòng theo hướng khai thác triệt để thế mạnh, tiềm năng của mọi ngành,
mọi lĩnh vực nhằm phát triển và nâng cao khả năng của các ngành kinh tế, kết
hợp nâng cao khả năng phục vụ quốc phòng. Nhờ vậy, mặc dù công nghiệp quốc
phòng chưa phát triển, nhưng do biết dựa vào nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang
phát triển và biết khai thác sự giúp đỡ của các nước, biết kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong đường lối xây dựng và phát triển công nghiệp, chúng ta nhanh
chóng tạo được bước phát triển nhảy vọt về chất trong việc cải tiến trang bị kỹ
thuật cho lực lượng vũ trang trên quy mô lớn theo hướng hiện đại.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã giữ vững và phát triển sản xuất
đáp ứng nhu cầu kháng chiến và đời sống ngay cả khi chiến tranh ác liệt trên cả
hai miền. Từ năm 1965 đến năm 1975, miền Bắc đã năm lần chuyển hướng nền
kinh tế: năm 1965 từ thời bình chuyển sang thời chiến do chiến tranh phá hoại;
năm 1969 từ thời chiến chuyển sang thời bình; năm 1972 từ thời bình chuyển
12

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nhà xuất bản CTQG, H. 2002, t.21, tr. 545-546.


16
sang thời chiến do chiến tranh phá hoại; năm 1973 từ thời chiến chuyển sang
thời bình sau Hiệp định Pari; năm 1975 chuyển từ chiến tranh sang hòa bình
trên phạm vi cả nước. Thành công đó “là một việc hiếm có trong lịch sử chiến
tranh, một sự cố gắng vượt bậc, một thành tích kỳ diệu của nhân dân ta, Đảng ta
và Nhà nước ta”13 trong chuẩn bị kinh tế và bảo đảm kinh tế cho kháng chiến.
Như vậy, chuẩn bị kinh tế để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và chiến

tranh đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đặt ra từ đầu của
quá trình cách mạng, được xác định là một bộ phận của đường lối phát triển kinh
tế, xã hội. Theo đó, dù trong thời chiến hay thời bình, chúng ta luôn chủ động
chuẩn bị tiềm lực kinh tế, nhất là tiềm lực kinh tế quân sự. Sự nhất quán đó được
khẳng định trong các văn kiện của Đảng cho thấy sự đúng đắn của nhận thức và
thực tiễn giải quyết hài hòa, linh hoạt mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng
và chiến tranh.
Ví dụ: để chuẩn bị cho tổng tiến công mùa xuân 1975, sau khi Bộ Chính trị
ra nghị quyết (6/73) về chuẩn bị giải phóng miền Nam, cả nước đã dồn sức
chuẩn bị cho thực hiện quyết tâm giải phóng miền Nam. Cụ thể:
- Về chuẩn bị hậu phương: miền Bắc tập trung huy động cao nhất sức
người, sức của cho tiền tuyến, chỉ trong 2 năm (1973 và 1974) đã động viên 50
vạn tân binh bổ sung cho chiến trường miền Nam.
- Về chuẩn bị hậu cần
+ Hậu cần chiến lược tập trung mọi mặt bảo đảm cho phát triển lực lượng
vũ trang quy mô lớn. Ta thành lập các quân đoàn với biên chế đủ đáp ứng yêu
cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng.
+ Củng cố các căn cứ hậu cần ở miền Bắc để tiếp nhận vật chất, kỹ thuật bổ
sung cho chiến trường miền Nam. Các căn cứ hậu cần chiến lược trên các chiến
trường và hậu cần của quân khu đã được mở rộng và bổ sung dự trữ vật chất,
phương tiện kỹ thuật quân sự.
+ Đoàn 559 mở rộng tuyến vận tải chiến lược và xây dựng hệ thống đường
ống xăng dầu trên cả 2 tuyến Đông và Tây Trường Sơn với điểm cuối là Bù Gia
Mập, nhờ đó vận tải ôtô được tiến hành cả trong mùa mưa.
Kết quả sau gần 2 năm chuẩn bị:
+ 5.560 km đường Trường Sơn được nâng cấp và xây dựng mới, đưa chiều
dài đường vận tải chiến lược Trường Sơn là 16.800 km
+ 1.311 km đường ống xăng dầu được xây dựng mới, đưa tổng chiều dài
tuyến đường ống xăng dầu là 14.000 kiểu mới.
+ Vận chuyển 26 vạn tấn: 10 vạn tấn xăng dầu; 7 vạn tấn đạn; 7 vạn tấn

lương thực, thực phẩm; 2 vạn tấn vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự khác.
+ Đoàn 559 trở thành đơn vị chiến lược cung cấp hậu cần, kỹ thuật cho tất
cả các mặt trận trên chiến trường miền Nam.
Hậu cần, kỹ thuật chiến lược và hậu cần, kỹ thuật ở các mặt trận B2,3,4,5
và QK5,6,7,8,9 đã hợp thành thế trận hậu cần, kỹ thuật vững chắc, rộng khắp
trên các chiến trường. Thế trận chiến lược hậu cần, kỹ thuật được hình thành liên
hoàn từ phía sau ra phía trước, nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Do đó
13

Lê Duẩn, Giai cấp công nhân Việt Nam và liên minh công nông, Nxb Sự Thật, H. 1976, tr. 506 - 507.


17
đã bảo đảm tốt, kịp thời kinh tế cho Tổng tiến công chiến lược năm 1975 thắng
lơị với 3 chiến dịch: Tây Nguyên, Huế - Đà nẵng, Hồ Chí Minh.
Việc bảo đảm kinh tế cho chiến tranh giải phóng dân tộc đạt được kết quả
to lớn là do:
- Chế độ chính trị-xã hội ưu việt ở Miền Bắc.
- Thực hiện cơ chế tập trung, bao cấp.
- Huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Sự nỗ lực của ngành hậu cần quân đội.
- Nguồn bảo đảm đa dạng:
+ Trong nước (cả kinh tế dân sự và công nghiệp quốc phòng);
+ Viện trợ từ bên ngoài;
+ Tự túc tăng gia sản xuất của các đơn vị quân đội;
+ Từ chiến lợi phẩm và khai thác nguồn của địch.
- Phương thức bảo đảm linh hoạt: kết hợp bảo đảm tại chỗ với bảo đảm từ
hậu phương và các quân khu, quân đoàn, các đơn vị…
2.4.3. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ 1975 đến nay

Sau khi đất nước thống nhất, cùng với việc hàn gắn vết thương chiến tranh,
ổn định đời sống nhân dân, trong điều kiện hoà bình, Đảng ta chủ trương thực
hiện giảm quân số thường trực và ngân sách quốc phòng, điều chỉnh lại thế bố
trí chiến lược về quân sự, quốc phòng trên phạm vi cả nước.
Theo đó, đã chuyển 29 sư đoàn, 50 trung đoàn sang làm kinh tế (lúc cao
nhất là 280.000 người, chưa kể lực lượng công nhân viên quốc phòng và bộ đội
thường trực tăng gia sản xuất làm kinh tế cải thiện đời sống). Quân đội đã tham
gia nhiều chương trình kinh tế trọng điểm quốc gia như: khôi phục đường sắt
Bắc-Nam; xây dựng thuỷ điện Hoà bình, nhiệt điện Phả Lại; dầu khí Vũng Tàu;
rà phá bom mìn; thành lập các đơn vị kinh tế như: Binh đoàn 11, 12, 15, 16, 18...
Trong thời gian này, chúng ta đã tiếp quản nhiều cơ sở sản xuất, sửa chữa
vũ khí của chính quyền Sài Gòn cũ (trị giá 600 triệu đôla) và xây dựng một số
nhà máy quốc phòng ở miền Nam và Miền Trung.
Năm 1978, khi Khơmeđỏ tiến hành chiến tranh Biên giới Tây Nam, buộc
chúng ta phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và giúp nhân dân Cămpuchia
thoát khỏi nạn diệt chủng. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương động viên cục
bộ bằng việc: gọi nhập ngũ trở lại cán bộ, chiến sĩ đã phục viên ở các tỉnh phía
Nam; xây dựng phòng tuyến biên giới; thành lập 2 mặt trận (479, 789) và các
Quân đoàn 14, 26, 29 ở phía Bắc. Do nguồn viện trợ quân sự đã giảm, nên việc
bảo đảm kinh tế cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chủ yếu dựa vào tự lực cánh
sinh.
Năm 1979, trước tình hình Trung Quốc đưa 60 vạn quân tiến công toàn
tuyến biên giới phía Bắc nước ta, Nhà nước đã tiến hành tổng động viên và kêu
gọi quốc tế ủng hộ, giúp đỡ về vật chất và tinh thần để chống sự xâm lược của
Trung Quốc. Nhờ vậy, chúng ta đã bảo đảm đầy đủ nhu cầu kinh tế cho chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời giúp đỡ Cămpuchia, Lào. Riêng mặt trận
Cămpuachia, từ 1979-1989, chi phí quân sự ta giúp bạn là 2,5 tỷ đôla (250


18

triệu/năm); Lào là 1,2 tỷ đôla (120 triệu/Năm). Đây là một khoản chi không nhỏ
trong điều kiện nền kinh tế nước ta lúc đó.
Việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng giai đoạn này chủ yếu là tự lực cánh
sinh từ ngân sách Nhà nước và hậu cần quân đội, kết hợp với hậu cần nhân dân.
Sau năm 1989, nhất là từ khi đổi mới, việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
được kết hợp giữa hiện vật với thị trường. Nguồn bảo đảm chủ yếu thông qua
ngân sách Nhà nước và quân đội tự bảo đảm thông qua hoạt động làm kinh tế và
tăng gia sản xuất của các đơn vị quân đội. Việc bảo đảm đã được phân cấp.
Ngân sách nhà nước bảo đảm cho bộ đội chủ lực; ngân sách địa phương (khoảng
từ 6-8%) và ngân sách Nhà nước bảo đảm cho công tác quốc phòng địa phương.
Mặc dù thành tựu của thời kỳ đổi mới đã tạo thế và lực mới cho phát triển
triển đất nước và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự, nhưng
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”
nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, tiến tới
xóa bỏ chế độ chính trị ở nước ta. Vì thế, chuẩn bị tiềm lực kinh tế để bảo đảm
kinh tế cho quốc phòng trong bối cảnh đó được đặt ra trực tiếp và thường xuyên
hơn. Để tạo thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội
XI chủ trương “Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc
phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng
- an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn” 14, trong đó “… phát triển kinh tế
là trung tâm, là một trong những nhân tố quan trọng bảo vệ Tổ quốc…” và “xây
dựng tiềm lực kinh tế của đất nước vững mạnh là yếu tố có ý nghĩa quyết định
thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc…”. Điều đó cho thấy, chúng ta đã nhận thức
đúng, toàn diện, sâu sắc và biện chứng hơn vai trò của kinh tế và chuẩn bị tiềm
lực kinh tế để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ
quá độ; là con đường tất yếu để nước ta thoát nghèo và nguy cơ tụt hậu, giữ
vững ổn định xã hội. Đó còn là tiền đề nâng cao tiềm lực kinh tế, tăng cường sức
mạnh quốc phòng. Để có tiềm lực kinh tế mạnh, chúng ta vừa đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa hoàn thiện các yếu tố của chủ nghĩa xã hội với
từng bước tích lũy tiềm lực khoa học và công nghệ, nhất là khoa học và công
nghệ quân sự, trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang, khi cần có thể nhanh
chóng huy động và chuyển hóa thành thực lực quốc phòng.
Từ vấn đề trên cho thấy, chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta
đều coi trọng và nhấn mạnh vai trò của kinh tế, nhất là chuẩn bị kinh tế để bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống.

14

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88.


19
PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM CHI PHỐI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM KINH TẾ CHO
QUỐC PHÒNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1. Đặc điểm chi phối bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Để xác định nội dung, phương thức, nhất là giải pháp bảo đảm kinh tế cho
quốc phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay phải nắm vững tình hình mọi mặt cả trong và ngoài nước.
3.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, an ninh thế giới và khu vực
Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
* Tình hình thế giới: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri
thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát
triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những
hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu

tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ,
biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra
phức tạp”. “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa
đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”.
* Tình hình khu vực: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam
Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình
hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là
đối với những nước đang và kém phát triển”.
+ Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, viện trợ, nhất là
viện trợ quân sự không còn.
+ Chủ nghĩa đế quốc ngày càng đẩy mạnh “diễn biến hoà bình”, kết hợp
với bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta.
+ Toàn cầu hoá là một xu hướng, vừa đem lại cả thời cơ và thách thực lớn
cho nền kinh tế nói chung, cho bảo đảm kinh tế cho quốc phòng nói riêng.
Tình hình trên đặt ra mấy vấn đề sau:
+ Việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng phải dựa vào tự lực là chủ yếu;
+ Chuẩn bị bảo đảm kinh tế cho quốc phòng không chỉ phục vụ cho sẵn
sàng đập tan chiến tranh xâm lược bằng hình thức vũ trang mà cả phi vũ trang;
+ Thông qua mở cửa hội nhập để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng.
3.1.2. Đặc điểm tình hình trong nước
- Tuy thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo ra thế và lực mới cho việc
bảo đảm kinh tế cho quốc phòng cả về năng lực, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật quân sự, song vẫn còn nhiều hạn chế so với yêu cầu bảo đảm kinh tế cho
một cuộc chiến tranh hiện đại, nhất là tiềm lực kinh tế của ta còn hạn chế, công


20

nghiệp quốc phòng của ta cũ và lạc hậu về công nghệ, mới chỉ bảo đảm cho Sư
đoàn bô binh.
- Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra có thể không kéo dài, nhưng
không gian chiến tranh sẽ mở rộng, tính chất ác liệt và khẩn trương hơn, thời
gian chuẩn bị ngắn.
- Khối lượng bảo đảm lớn, tính chất bảo đảm phức tạp, yêu cầu bảo đảm rất
khẩn trương, liên tục. Trong lúc khả năng có hạn, địch đánh phá ác liệt chỉ huy,
chỉ đạo bảo đảm rất phức tạp, bảo vệ các cơ sở kinh tế trước đòn tiến công hoả
lực của địch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để duy trì khả năng bảo đảm kịp
thời, liên tục cho tác chiến.
- Kinh tế thị trường vừa tạo thuận lợi, vừa đặt ra thách thức cho việc huy
động và bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, đặc biệt thể chế kinh tế thị trường
đang trong quá trình từng bước hoàn thiện. Trong điều kiện như vậy, chỉ có thể
kết hợp bảo đảm bằng hiện vật với tài chính; kết hợp cơ chế kế hoạch với cơ chế
thị trường để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
- Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc đặt ra cho nhiệm vụ bảo đảm đã có sự phát
triển về nội dung và phương thức bảo đảm.
- Tiến hành công tác bảo đảm trong điều kiện địa hình, thời tiết nước ta có
nhiều khó khăn phức tạp: Địa hình nước ta dài, hẹp, nhiều sông ngòi và dãy núi
cắt ngang. Hệ thống giao thông, nhất là ở khu vực miền núi rất khó khăn. Ví dụ:
với 15.360km đường quốc lộ đã có 3.800 cây cầu; với 17.450km tỉnh lộ có tới
3.640 cây cầu... Địch có thể lợi dụng yếu tố địa hình để chia cắt và thực hành
tiến công từ nhiều hướng. Vì vậy, nếu kẻ thù tiến hành chiến tranh xâm lược, thì
yêu cầu bảo đảm cho các tình huống là phải tạo khả năng chống chia cắt trong
các hoạt động bảo đảm.
Đặc điểm trên cho thấy tính phức tạp, khẩn trương, liên tục của bảo đảm
kinh tế trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Do đó, phải tích cực, chủ động vận
dụng cả biện pháp kỹ thuật, chiến thuật với nỗ lực cao và phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc mới có thể hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm kinh tế cho
quốc phòng và chiến tranh.

3.2. Giải pháp bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Giáo dục nhận thức
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để đất nước
không bị động, bất ngờ, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống thì chuẩn bị tiềm
lực kinh tế để bảo đảm cho quốc phòng cần được nhận thức từ mấy vấn đề sau:
Một là, chuẩn bị tiềm lực kinh tế và bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, sẵn
sàng ứng phó với mọi tình huống là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Bản chất của chuẩn bị tiềm lực kinh tế, đặc biệt là chuẩn bị
tiềm lực kinh tế quân sự để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là sự gắn kết quá
trình xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng
thành một thể thống nhất, thúc đẩy nhau phát triển. Mục đích chuẩn bị tiềm lực
kinh tế là tạo sức mạnh răn đe, ngăn chăn từ xa nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia,
thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ


21
quốc. Nếu tiềm lực kinh tế được chuẩn bị tốt, có hiệu quả ngay trong thời bình,
sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ngược lại,
không chỉ khó có sức mạnh thật sự, mà còn phát sinh sơ hở để các thế lực thù
địch có thể lợi dụng chống phá cách mạng nước ta.
Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và trình độ
của các chủ thể về chủ trương bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Bảo đảm kinh
tế cho quốc phòng là chủ trương chiến lược của Đảng. Vì vậy, cần thường xuyên
quán triệt sâu sắc chủ trương này trong toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
chủ trì trong hệ thống chính trị, nhằm thống nhất cả nhận thức và hành động.
Phải thấy rằng, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, sẵn sàng ứng phó với mọi tình
huống là chủ trương đầu tư cho phát triển bền vững, là trách nhiệm của toàn dân,
trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng; trách nhiệm quản lý nhà nước của
Chính phủ giữ vai trò quyết định. Chủ trương này chỉ có thể thành hiện thực khi

mọi tổ chức và cá nhân trong hệ thống chính trị có nhận thức đầy đủ và phát huy
tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong việc chuẩn bị kinh tế và bảo đảm kinh tế
cho quốc phòng. Do vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để toàn dân
nhận thức sâu sắc trách nhiệm và tự giác tham gia thực hiện. Cùng với đó là
năng lực, trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ về chính trị và ý thức quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh của các chủ thể phải
không ngừng được bồi đắp, ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Ba là, chuẩn bị kinh tế và bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong thời
bình là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, có tính qui luật. Ở nước ta hiện nay, để
thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, chúng ta không coi nhẹ nhiệm vụ chuẩn bị
tiềm lực kinh tế quân sự để “chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa
an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong
mọi tình huống”15. Với ý nghĩa đó, trong bối cảnh còn giai cấp và đấu tranh giai
cấp, còn mưu đồ xâm lược, nhất là khi cuộc chạy đua vũ trang mới đang hình
thành, thì chuẩn bị kinh tế, nhất là tiềm lực kinh tế quân sự để bảo đảm kinh tế
cho quốc phòng thời bình, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu quốc phòng khi cần thiết là
nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, có tính quy luật, góp phần bảo đảm cho đất
nước phát triển bền vững.
Bốn là, nội dung cốt lõi của việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là xây
dựng công nghiệp quốc phòng độc lập, tự chủ, hiện đại. “Công nghiệp quốc
phòng là một phần quan trọng của thực lực và tiềm lực quốc phòng, an ninh; là
bộ phận của công nghiệp quốc gia”16, là ngành công nghiệp đặc thù hoạt động
công ích, ngoài nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển, sản xuất, cải tiến, hiện đại hoá
vũ khí, trang bị, vật tư và sản phẩm khác phục vụ quốc phòng, công nghiệp quốc
phòng còn “tham gia phát triển kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”17. Như vậy, công nghiệp quốc phòng không đơn
15
16


17

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 233.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, Điều 3.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, Điều 3.


22
thuần là ngành sản xuất vật chất, mà còn đảm nhận nhiệm vụ chính trị đặc biệt
mà các ngành công nghiệp khác không muốn làm, không có khả năng làm, hoặc
không được làm, đó là “bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ
thuật từng bước hiện đại”18. Với ý nghĩa đó, “Mở rộng phương thức huy động
nguồn lực xây dựng công nghiệp quốc phòng và nâng cao khả năng bảo đảm của
công nghiệp quốc phòng”19 là chủ trương xây dựng công nghiệp quốc phòng độc
lập, tự chủ, hiện đại. Đây là vấn đề chiến lược nảy sinh từ nhu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, một nội dung cốt lõi của việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.2.2. Thường xuyên làm tốt công tác tạo nguồn và dự trữ vật chất
Tạo nguồn và dự trữ vật chất là một trong những khâu then chốt của công
tác bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
3.2.2.1. Tạo nguồn bảo đảm. Có 4 nguồn:
- Nguồn trong nước
- Nguồn từ hoạt động sản xuất, làm kinh tế của lực lượng vũ trang
- Nguồn khai thác từ nước ngoài
- Nguồn thu của địch (chỉ có trong chiến tranh)
Mỗi nguồn bảo đảm trên đều có vị trí, có thế mạnh riêng. Trong đó:
- Nguồn từ hậu phương là nguồn bảo đảm cơ bản, thường xuyên, quan
trọng có ý nghĩa quyết định. Nguồn này chủ yếu do Nhà nước cung cấp và phần
đóng góp của nhân dân và các tổ chức kinh tế - xã hội.

- Nguồn từ hoạt động sản xuất, làm kinh tế của LLVT rất quan trọng
- Nguồn khai thác từ nước ngoài giúp nâng cao trình độ trang bị phương
tiện kỹ thuật quân sự trong nước
- Nguồn thu của địch góp phần đáp ứng kịp thời yêu cầu bảo đảm
* Biện pháp tạo nguồn
- Nguồn trong nước: Nguồn này được quyết định bởi tiềm lực kinh tế cả
trong thời bình và thời chiến. Vì vậy, để có thể bảo đảm tốt kinh tế cho quốc
phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì ngay trong
thời bình cần:
+ Trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để phát
triển kinh tế - xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại mà tạo ra tiềm lực mọi mặt cho quốc phòng.
+ Có kế hoạch, phương án thích hợp để nhanh tróng chuyển nền kinh tế từ
thời bình sang thời chiến ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh, duy trì năng lực sản
xuất quân sự để bảo đảm cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
+ Có cơ chế, chính sách và luật pháp quy định trách nhiệm, quyền lợi của
công dân và các thành phần kinh tế nhằm huy động tốt nhất mọi nguồn lực cho
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thời bình và khi có chiến tranh.
+ Phát huy nội lực, chủ động hội nhập quốc tế, tranh thủ vốn, khoa học và
công nghệ phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an
ninh, ưu tiên đầu tư phát triển khoa học và công nghệ quân sự.
18
19

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 83.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 138.


23
+ Lực lượng vũ trang nói chung, ngành hậu cần quân đội nói riêng, tham

gia tích cực và có hiệu quả vào quá trình xây dựng đất nước; phát triển tiềm lực
mọi mặt và tạo nguồn cung cấp cho lực lượng vũ trang.
- Nguồn từ hoạt động sản xuất, làm kinh tế của lực lượng vũ trang
Sản xuất, làm kinh tế là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quân đội ta,
vừa góp phần tham gia phát triển kinh tế - xã hội, vừa tăng cường cơ sở vật chất,
kỹ thuật cho quốc phòng, cải thiện đời sống bộ đội, thực hiện quan điểm tự lực,
tự cường trong công tác hậu cần.
Để phát huy thế mạnh của quân đội về lực lượng, trình độ kỹ thuật, tính kỷ
luật và năng lực khoa học và công nghệ quân sự, Quân uỷ Trung ương đã có
Nghị quyết về tham gia lao động sản xuất và làm kinh tế, theo đó:
+ Về sản xuất quốc phòng: Sản xuất, sửa chữa vũ khí, phương tiện kỹ thuật
quân sự đáp ứng yêu cầu huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ
trang trong thời bình; đồng thời có lực lượng dự trữ cho giai đoạn đầu chiến
tranh; chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng mở rộng sản xuất quân sự khi cần thiết. Tận
dụng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực quân sự để sản xuất sản phẩm dân dụng;
từng bước hiện đại hoá công nghiệp quốc phòng Việt Nam, phù hợp khả năng
kinh tế và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
+ Tập trung làm tốt nhiệm vụ xung kích xây dựng các khu kinh tế - quốc
phòng trên phạm vi cả nước. Đã và đang triển khai xây dựng hơn 20 khu kinh tế
- quốc phòng ở hầu khắp các địa bàn chiến lược thuộc 7 Qk, trong đó tập trung
nhiều ở 3 QK phía Bắc, nhiều nhất là Qk2 (5 khu KT-QP).
+ Đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự túc trong tất cả các đơn vị, góp phần nâng
cao hiệu quả phục vụ đời sống và xây dựng quân đội.
- Nguồn khai thác từ nước ngoài:
Trong điều kiện toàn cầu hoá, nhất là toàn cầu hóa kinh tế, thông qua mở
rộng hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại nói riêng, có thể khai thác ngoại
lực (vốn, công nghệ) để phát triển kinh tế và phát triển công nghiệp quốc phòng.
Đồng thời mở rộng thị trường; thêm bạn bớt thù; tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước trong cộng đồng quốc tế với công cuộc giữ nước của chúng ta.
- Nguồn thu của địch trong chiến đấu: chiến lợi phẩm thu được của địch

Ví dụ: Về kinh nghiệm tạo nguồn ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ
Có 4 nguồn chính: Hậu phương chi viện, thu mua tại chỗ, sản xuất tại chỗ,
chiến lợi phẩm. Trong đó tỷ lệ các nguồn như sau:
Phân
loại
VCKT
LTTP

Khối
lượng
(Tấn)
598.912
392.999

Trung ương
chi viện
Khối
%
lượng
187.593
31
59.934
15

Thu mua tại chỗ

Tự sản xuất

Khối
lượng

368.336
318.666

Khối
lượng
11.148
7.544

%
61,5
82,02

%
1,9
1,9

Chiến lợi
phẩm
Khối
%
lượng
31.835 5,3
6.855
1,7

Ghi
chú

T.T7%


Trong tổng số 31.835 tấn chiến lợi phẩm có: 6.855 tấn lương thực, thực
phẩm; 548 tấn xăng dầu; 23.149 tấn vũ khí gồm 435.762 khẩu súng pháo các
loại và 21.187 tấn đạn; 412 tấn vật tư; 251 tấn nguyên vật liệu.


24
Ngoài ra còn khai thác tại nước bạn Cămpuchia 201.067 tấn lương thực;
4.775 tấn thực phẩm; 9.728 tấn muối...
Từ kinh nghiệm tạo nguồn ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ cho
thấy, mặc dù trong điều kiện chiến tranh khó khăn như vậy, nhưng vẫn có nhiều
nguồn lực có thể khai thác để bảo đảm cho lực lượng vũ trang và quân đội. Mỗi
nguồn có vai trò nhất định trong từng giai đoạn chiến tranh. Đây là kinh nghiệm
quý cần tiếp tục nghiên cứu để vận dụng trong điều kiện thời bình và chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc.
3.2.2.2. Dự trữ vật chất
* Dự trữ vật chất thời bình
Cùng với tạo nguồn phải tổ chức tốt dự trữ vật chất, nhất là vật tư chiến
lược để chủ động bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Dự trữ vật chất phải được
thực hiện cả ở phạm vi quốc gia và trong quân đội, trong đó:
- Dự trữ quốc gia do Trung ương, các địa phương và các ngành tổ chức.
- Dự trữ ở các cấp trong quân đội (chiến lược, chiến dịch, chiến thuật) cho
sẵn sàng chiến đấu thực hiện theo quyết định của Tổng tham mưu trưởng
Riêng dự trữ chiến đấu được quy định theo yêu cầu của từng nhiệm vụ
chiến đấu cụ thể. Căn cứ vào dự báo nhu cầu tiêu thụ, dự kiến tiêu hao, tổn thất,
khả năng dự trữ, khả năng vận chuyển... để cấp trên quy định cho cấp dưới.
Ví dụ: Theo chỉ thị 41/TTMT ký ngày 27/7/2001 về quy định dự trữ thời
bình và năm đầu chiến tranh cho các quân khu như sau:
+ Lương thực, thực phẩm: 20 ngày cho các Qk:1,2,3,4,5,7,9;
+ Quân trang: Qk5,7,9 dự trữ 30% quân số; Qk1,2,3,4 dự trữ 20% quân số;
+ Nhiên liệu: Qk 1,2,3,4: dự trữ 4 cơ số xăng xe máy, 2 cơ số xăng dầu tầu

thuyền; Qk 5,7,9: dự trữ 5 cơ số xăng xe máy, 2 cơ số xăng dầu tầu thuyền…
* Dự trữ vật chất thời chiến
- Hậu cần lực lượng vũ trang: dự trữ theo nhiệm vụ tác chiến, chiến dịch
- Khu vực phòng thủ tỉnh (tp): Hậu cần khu vực phòng thủ địa phương dự
trữ đủ cho tác chiến của khu vực phòng thủ, dự trữ một phần cho nhiệm vụ tiếp
theo và sẵn sàng chi viện cho cả nước theo yêu cầu của trên. Lượng tối thiểu
phải đạt khoảng 70% tổng lượng dự trữ theo yêu cầu; đồng thời tiếp tục tạo
nguồn bổ sung trong quá trình tác chiến. Lực lượng phải bảo đảm gồm: bộ đội
địa phương mỗi tỉnh (tp) có thể 1-2 trung đoàn bộ binh, một số phân đội hoả lực
và chuyên môn; mỗi huyện (quận) 1-2 tiểu đoàn bộ binh, cùng các lực lượng
dân quân tư vệ. Các xã (phường), các cơ quan, cơ sở sản xuất, kinh doanh… từ
trung đội, đại đội đến tiểu đoàn dân quân tự vệ cơ động, trung đoàn tự vệ chiến
đấu và một số phân đội chuyên môn, cùng một số lực lượng khác như Công an,
Biên phòng và nhân dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Kho trong
căn cứ hậu cần khu vực phòng thủ dự trữ khoảng 2-3 tháng; bộ đội địa phương
dự trữ cho 1-2 đợt hoạt động tác chiến, mỗi đợt khoảng 10-20 ngày.
+ Hậu cần các quân khu: dự trữ đủ cho tác chiến của chủ lực quân khu, bảo
đảm cho bộ đội địa phương tỉnh (tp), huyện (quận); bảo đảm một số mặt, chủ
yếu là súng đạn, mìn… cho dân quân, tư vệ xã (phường), các cơ quan, cơ sở sản
xuất, kinh doanh, thanh niên xung phong phục vụ chiến đấu và dự trữ theo yêu


25
cầu của trên, sẵn sàng bảo đảm cho bộ đội chủ lực của Bộ tác chiến trên địa bàn
quân khu. Tuỳ theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ mỗi quân khu có khoảng 4-5 sư
đoàn bộ binh, một số trung, lữ đoàn binh chủng chiến đấu.
3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, phương thức bảo đảm kinh tế cho
quốc phòng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.2.3.1. Cơ chế bảo đảm

Hiện nay, cơ chế kinh tế thay đổi, do đó cơ chế bảo đảm kinh tế cho quốc
phòng cũng phải thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, việc đổi mới cơ chế bảo đảm
kinh tế cho quốc phòng phải tính đến quy luật của chiến tranh. Hiện nay chúng
ta thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng không
có nghĩa là trong bảo đảm kinh tế cho quốc phòng phải xoá bỏ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường, mà phải kết hợp cả hai
cơ chế, phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của từng cơ chế. Theo đó,
trong thời bình, phải thực hiện tốt hơn, thường xuyên hơn hoạt động bảo đảm
bằng tiền thay cho bảo đảm bằng hiện vật; khi chiến tranh xảy ra thì ngược lại.
3.2.3.2. Phương thức bảo đảm
Phương thức bảo đảm là tổng thể các phương pháp, cách thức tổ chức bảo
đảm nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu về mọi mặt cho lực lượng vũ trang
huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
Từ thực tiễn bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và chiến tranh giải phóng dân
tộc có thể vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 3 phương thức bảo đảm
như: bảo đảm tại chỗ; cơ động và theo khu vực (tự nghiên cứu thêm)
3.2.3.3. Công tác vận tải
Nhiệm vụ vận tải trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc rất phức tạp, khẩn
trương, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, lực lượng vận tải huy động từ
nhiều nguồn, trình độ và khả năng đều, địch đánh phá ác liệt... Vì vậy, ngành
vận tải quân sự kết hợp với hệ thống giao thông vận tải của Nhà nước, các địa
phương và các thành phần kinh tế thuộc khu vực phòng thủ để huy động lực
lượng, phương tiện vận tải, lấy lực lượng vận tải quân sự làm trung tâm hiệp
đồng, phối hợp.
Phải tổ chức tốt mạng đường vận chuyển, có đường chính, dự bị, vòng
tránh, có phương án khắc phục các tình huống trong quá trình vận chuyển; kết
hợp sử dụng nhiều loại phương tiện, vận dụng linh hoạt các phương thức vận tải
cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không, đường ống. Trong khu vực
phòng thủ cần triệt để tận dụng các loại phương tiện vận tải cơ giới nhỏ và thô
sơ cho phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng,

hiệu quả vận chuyển, đáp ứng yêu cầu bảo đảm cho chiến tranh, đồng thời hạn
chế thấp nhất thiệt hại do địch đánh phá.
3.2.3.4. Huy động các thành phần kinh tế bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
Quốc phòng của Việt Nam là quốc phòng toàn dân. Vì vậy, việc bảo đảm
kinh tế cho quốc phòng cũng dựa trên cơ sở toàn dân.
- Làm tốt công tác giáo dục để mọi người dân hiểu quyền lợi, trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình đối với nhiệm vụ bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.


×