MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu Mác cùng với Ăngghen là người đặt nền móng cho học thuyết
lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, lần đầu tiên đem khoa học thay
thế cho mộng tưởng, làm nên bước chuyển tiếp vĩ đại của lịch sử tư
tưởng xã hội chủ nghĩa (từ không tưởng đến khoa học), thì Lênin là
người đã truyền bá chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học vào nước
Nga, đã sáng lập học thuyết Đảng kiểu mới, đã lãnh đạo thành công
Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, mở ra một thời đại mới trong lịch
sử loài người. Sau thành công của Cách mạng Tháng 10 Nga, Lênin
cùng các cộng sự bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách
nghiêm ngặt theo đúng nguyên lý của Mác - Angghen. Sau khi giành
thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng mười, cuộc nội chiến nước Nga
1921 đã khiến nền kinh tế nước nhà bị khủng hoảng nghiêm trọng,
nước Nga Xôviết đứng trước bờ vực thẳm, nhận thấy chính sách "cộng
sản thời chiến" không còn phù hợp, Lênin quyết định chuyển sang
"Chính sách kinh tế mới" tạo ra bước ngoặt vĩ đại của nước Nga
XôViết.
Một chính sách được gọi là mới, trước hết nó phải đem lại hiểu quả
cho sự phát triển kinh tế - xã hội và đất nước, cải thiện đời sống phát triển
dân sinh. Nhằm đáp ứng những yêu cầu đó, Chính kinh tế mới (NEP) của
Lênin đã ra đời trong điều kiện, hoàn cảnh hết sức đặc biệt với nước Nga
lúc bấy giờ đó là sau nội chiến năm 1921, chính những sai lầm trong hoạt
động kinh tế đã gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế và chính trị ở nước
Nga. Liên minh công nông đứng trước nguy cơ tan rã, vai trò lãnh đạo của
Đảng yếu đi. NEP ra đời đã làm cho nước Nga vốn bị tàn phá nặng nề trong
nội chiến thì nay đã có những bước phát triển vượt bậc. Nền kinh tế chuyển
từ "cộng sản thời chiến" sang "chủ nghĩa xã hội", bằng con đường, biện
pháp hướng vào nền kinh tế thị trường, phát triển hàng hóa, có sự quản lý
của chính quyền Xôviết. Sự thay đổi đó đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt
nước Nga Xôviết tạo điều kiện ban đầu cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga Xôviết.
Ngoài ý nghĩa to lớn trong nước NEP còn có ý nghĩa quốc tế đặc biệt
quan trọng đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN trong đó có
Việt Nam và điều đặc biệt là nước ta cũng có những điều kiện tiền đề rất
giống với nước Nga thời đó. Với sự nhận thức đúng đắn vai trò và ý nghĩa
của NEP Đảng ta đã vận dụng nó vào đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Nhằm
đưa nước ta sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, sánh vai với các cường quốc
1
trên thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn. Để thực hiện thành
công chủ trương mà Đảng và Nhà nước đề ra, chúng ta không thể không
tham khảo bài học kinh nghiệm của các nước XHCN đi trước qua đó rút ra
bài học cho riêng mình. Thực tiễn đã chứng minh rằng: việc vận dụng sáng
tạo Chính sách kinh tế mới của Lênin (NEP) vào nước ta, phù hợp với xu
thế chung của thế giới: hợp tác hoá, đa phương hóa, các nước xích lại với
nhau hợp tác cùng phát triển, với những nhận thức trên, tôi chọn vấn đề:
Tính biện chứng trong Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa
của nó đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa to lớn của NEP nói chung và vấn đề xây
dựng nền kinh tế thị trường nói riêng đối với các nước đang phát triển trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng đã có rất
nhiều công trình có giá trị to lớn khai thác ở những khía cạnh, góc độ khác
nhau, và nhiều bài viết, bài báo, tác phẩm trong đó có những công trình
tiêu biểu như sau:
+ Trần Ngọc Hiên: Chính sách kinh tế mới của Lênin và vận dụng
vào điều kiện ở nước ta, năm 1989.
+ Nguyễn Quang Đăng: Biện chứng của NEP và thời đại.
+ Nguyễn Ngọc Thành: Tính biện chứng trong Chính sách kinh tế
mới của Lênin và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay, năm 2007.
+ Lê Thành Sinh: Chính sách kinh tế mới của Lênin với công cuộc
đổi mới ở Việt Nam.
+ Nguyễn Văn Kỷ: Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của nước ta
hiện nay.
+ Trần Ngọc Bút: Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XX
Ngoài ra còn nhiều công trình, các bài báo, hội thảo khoa học được
đăng lên các tạp chí hay chuyên đề
3. Mục đính và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là làm rõ tính biện chứng trong nội dung của
Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin đề xướng; từ đó chỉ ra ý nghĩa
của nó trong thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài:
2
- Khái quát hoàn cảnh ra đời của Chính sách kinh tế mới và tính biện
chứng trong nội dung của Chính sách kinh tế mới.
- Ý nghĩa của việc vận dụng Chính sách kinh tế mới trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong NEP của
Lênin, hoàn cảnh ra đời, so sánh bối cảnh nước Nga và Việt Nam cũng như
những tư tưởng biện chứng của NEP. Trên cơ sở đó, chỉ ra những ý nghĩa và
giải pháp cơ bản của việc nghiên cứu Chính sách kinh tế mới vào việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Xuất phát từ phương pháp duy vật biện chứng Mácxit. Sử dụng
những phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, so sánh
cùng với việc tham khảo một số tài liệu, sách báo có liên quan làm cho đề
tài phong phú, khoa học và có sức thuyết phục hơn.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn của Chính
sách kinh tế mới, chỉ ra tầm quan trọng của nó đối với việc xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài còn đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát triển NEP trong cơ
chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước.
Đề tài góp phần một phần nhỏ vào việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận của NEP, là tài liệu có thể tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề
liên quan đến nội dung của đề tài.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm có 2 chương và 6 tiết.
3
Chương 1
HOÀN CẢNH CỦA SỰ RA ĐỜI CHÍNH SÁCH KINH TẾ
MỚI VÀ TÍNH BIỆN CHỨNG TRONG NỘI DUNG CỦA
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI
Sau thành công của Cách mạng Tháng Mười, từ cuối năm 1918, nước
Nga Xôviết ở trong hoàn cảnh nội chiến, 14 nước đế quốc bao vây hòng bóp
chết nhà nước Nga Xôviết trẻ tuổi, triệt tiêu chính quyền công - nông đầu
tiên trên thế giới. Trong bối cảnh đó Lênin thi hành "cộng sản thời chiến"
với những nội dung chủ yếu là: Trưng thu lương thực thừa, nhà nước quản
lý tập trung cao độ các nguồn lực; quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản chủ
nghĩa; cấm tự do buôn bán, xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ; nhà nước Xô
viết nắm quyền trực tiếp phân phối sản phẩm và các nguồn lực chủ yếu bằng
hiện vật trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Có thể nói rằng, chính sách "cộng sản thời chiến" là sự vận dụng
quan hệ chính trị vào kinh tế để giải quyết nhiệm vụ chính trị - tức là phục
vụ mục tiêu bảo vệ và củng cố chính quyền. Sau khi nội chiến kết thúc,
chính sách đó đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình và bộc lộ đầy đủ
những điểm yếu, bất hợp lý trong điều kiện mới. Nó không còn tư cách là
một công cụ có tính chất đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển và về cơ
bản nó không thực hiện quan hệ hàng - tiền. Do vậy, chính sách cộng sản
thời chiến kìm hãm và thủ tiêu động lực kinh tế. Những tác động tiêu cực
của chính sách "cộng sản thời chiến" cùng với những khó khăn chồng chất
của đất nước sau nội chiến làm cho nước Nga rơi vào khủng hoảng kinh tế -
chính trị sâu sắc và ở vào thế "ngàn cân treo sợi tóc". Trong điều kiện khó
khăn phức tạp đó, lãnh tụ Cách mạng Tháng Mười - V.I. Lênin đã dựa trên
cơ sở hiểu biết và phân tích tình hình kinh tế, chính trị lúc bấy giờ để
chuyển chính sách cũ chỉ thích hợp với chiến tranh sang "Chính sách kinh tế
mới" gọi tắt là NEP.
1.1. Hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời Chính sách kinh tế mới
Ngày 8-3-1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga XôViết, V.I. Lênin
- lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân Nga và cách mạng thế giới đã đề
xướng với Đảng việc áp dụng Chính sách kinh tế mới và đã được Đại hội
chấp thuận. Ở vào thời điểm đó, thực hiện NEP tại nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Xô viết Nga là một quyết định dũng cảm, táo bạo, sáng suốt của
V.I.Lê-nin và những người Cộng sản Nga.
4
Chính sách kinh tế mới là một khái niệm không có nghĩa như một vài
chính sách cụ thể, mà ở đây nó có một nghĩa bao trùm đó chính là đường lối
xây dựng CNXH ở một nước kinh tế còn lạc hậu như nước Nga.
Khi dùng khái niệm Chính sách kinh tế mới, Lênin còn có ý định để
phân biệt Chính sách kinh tế mới với chính sách cộng sản thời chiến. Đồng
thời Lênin muốn nhấn mạnh yếu tố kinh tế trong mối quan hệ với các yếu tố
khác. Vì vậy, khi tiếp cận với nội dung của Chính sách kinh tế mới phải
xuất phát từ cách nhìn nhận theo quan điểm hệ thống. Quan điểm này cho
phép nhìn rõ các mối quan hệ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu đem
tách riêng từng nội dung, từng vấn đề ra thì không thể nhận thức được đầy
đủ nội dung của Chính sách kinh tế mới, thậm chí hiểu sai nội dung của nó.
Trước hết, NEP thể hiện một cách nhìn nhận mới của Lênin về con
đường đi lên CNXH ở nước Nga, Lênin đã đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn
của nước Nga để đi đến quan điểm mới hơn, phù hợp với điểm xuất phát về
mặt kinh tế khi đi lên CNXH. Đó là quá trình đi lên CNXH từ nông nghiệp,
nông thôn và nông dân.
Quan niệm này của Lênin được hình thành qua sự phân tích hết sức
khoa học tình hình nước Nga Xôviết tại thời điểm đó - một nước còn lạc hậu
về kinh tế, tỷ trọng nông nghiệp chiếm 51% và 82,4% dân số là nông dân.
Chính sách kinh tế mới được thể hiện ở việc xác lập quan niệm về
mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố vật chất với yếu tố tinh thần, giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng
tầng. Thực hiện tốt quan niệm này có ý nghĩa to lớn, tạo ra sự phù hợp hài
hòa trong xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.
NEP thể hiện quan niệm về việc xác lập lực lượng cách mạng, động
lực cách mạng, động lực cách mạng dưới CNXH. Trong cuộc cách mạng
XHCH, xây dựng thành công CHXH, việc xác lập lực lượng cách mạng,
động lực cách mạng mà cốt lõi là liên minh công nông hết sức cần thiết,
quyết định sự thắng lợi của CNXH.
NEP còn thể hiện quan niệm về biện pháp có tính chất đòn bẩy để
thúc đẩy tiến trình cách mạng, đó là biện pháp khuyến khích bằng lợi ích vật
chất.
Muốn khuyến khích người lao động tham gia hăng hái sản xuất ngoài
việc tiến hành các biện pháp về giáo dục chính trị, tư tưởng, thì biện pháp
khuyến khích bằng lợi ích vật chất có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần
thiết.
5
NEP còn thể hiện quan niệm việc xây dựng mô hình về kinh tế của
nước Nga lúc đó là thông qua hình thức: chủ nghĩa tư bản nhà nước và hợp
tác xã.
Theo nhận xét của Lênin, các hoạt động kinh tế xã hội được thông
qua hình thức CNTB nhà nước và hợp tác xã có hiểu quả to lớn. Nhưng đây
lại là những vấn đề rất mới mẻ cần được chứng minh trong thực tiễn và làm
sáng tỏ nhiều hơn.
Sau cách mạng tháng 10 Nga thành công (1917) việc thực hiện kế
hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội
chiến 1918-1920 . Trong thời kì này, V.I. Lênin đã áp dụng chính sách cộng
sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành lại
cho họ mức ăn tối thiểu, đồng thời xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ (ví dụ
như cấm buôn bán lương thực trên thị trường thể hiện bằng sắc lệnh của hội
đồng tối cao 1920 đã quốc hữu hóa toàn bộ khu vực tiểu thủ công nghiệp,
loại bỏ thương nghiệp bán lẻ và kết thúc bằng việc cấm chợ của các thành
phố trong đó có chợ trời ở Moscow), xóa bỏ việc tự do mua bán lương thực
trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy
nhà nước vào nền kinh tế: cuối giai đoạn nội chiến tiền lương trả cho công
nhân còn 7,4%.
Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng
lợi của nhà nước Xôviết nhờ đó mà quân đội đủ sức chiến thắng kẻ thù, bảo
vệ được nhà nước Xôviết non trẻ của mình
Tuy nhiên khi hòa bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không
còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Hậu quả chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề, thêm vào đó chính
sách trưng thu lương thực thừa đã làm mất động lực đối với nhân dân.Việc
xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế
vốn dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển.Vì vậy, khủng hoảng kinh tế chính
trị diễn ra rất sâu sắc. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng
thay thế. Chính sách kinh tế mới được V.I. Lênin khởi xướng để đáp ứng
nhu cầu này nhằm tiếp tục xây dựng kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong giai đoạn mới. Trong lịch sử của nước Nga Xôviết những năm 1921-
1927, Chính sách kinh tế mới xuất hiện như một hiện tượng, lịch sử - tự
nhiên, trong đó chứa đựng sự thống nhất biện chứng của các điều kiện
khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị - xã hội, lịch sử phát triển của
nước Nga.
Như vậy, Chính sách kinh tế mới được V.I. Lênin đề xướng trong
những điều kiện sau đây:
6
Trước hết, Chính sách kinh tế mới xuất hiện là do hậu quả của các
cuộc chiến tranh. Vừa ra đời còn non trẻ nhưng nước Nga Xôviết phải đối
đầu với 2 cuộc chiến tranh liên tiếp: Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất
(1914-1918) và cuộc nội chiến ở nước Nga kéo dài 4 năm (1917-1921). Hai
cuộc chiến tranh này đã tàn phá nước Nga nặng nề cả về vật chất lẫn tinh
thần.
* Về công nghiệp
Công nghiệp là ngành bị tổn thất lớn nhất, ước tính mất khoảng 1/4
tài sản quốc gia, tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 giảm bốn lần so với
năm 1917, số lao động giảm, tỷ trọng còn 25%. Đại công nghiệp giảm mạnh
kéo theo các ngành khác cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
* Về nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp tuy tập trung nhưng vẫn giảm nặng, diện tích
gieo trồng không được mở rộng, trồng trọt kém hiểu quả làm cho chăn nuôi
cũng bị giảm theo, tổng sản lượng đầu năm 1921 chỉ còn 146kg/ người/ năm
1921, trong khi trước đó gấp 4 lần so với hiện tại.
* Về giao thông vận tải
Giao thông vận tải bị tàn phá nghiêm trọng về đường xá cơ sở hạ
tầng, nhà ga, đường sắt, đường bộ, kho tàng khối lượng vận chuyển năm
1920 chỉ còn đạt 20% so với năm trước .
* Về tài chính - tín dụng
Ngành tài chính - tín dụng bị lâm vào tình trạng rối loạn, năm 1913
bội chi ngân sách là 31 tỉ rúp đến năm 1921 tăng lên 21.837 tỉ rúp, mức tăng
trung bình toàn quốc năm 1923 lên tới 21 triệu lần so với năm 1913, đồng
rúp mất giá trị nhanh gây lạm phát nghiêm trọng. Ở một số địa phương thực
hiện trao đổi bằng hiện vật là chủ yếu, tiền lương suy giảm công nhân gặp
nhiều khó khăn, sản xuất thiếu thốn, nhà máy thu hẹp, công nhân bỏ nhà
máy ra kiếm sống ở ngoài ngày một nhiều hơn.
* Về văn hóa - giáo dục - y tế
Tất cả đều bị xuống cấp một cách nhanh chóng, nạn mù chữ tăng lên
cả ở thành thị và nông thôn, hệ thống giáo dục không đủ trường lớp về y tế
thường xuyên thiếu thốn thuốc men chữa trị, sức khỏe lao động xã hội bị
xuống cấp. Song tất cả đều "trỗi dậy" bởi lý do tất cả vì cách mạng, vì chính
quyền, mọi người cùng nhau gánh vác vượt qua mọi khó khăn, tất cả vì cái
chung, còn cái riêng sẽ từng bước được giải quyết. Theo nguyên lý triết học
Mác (cái chung quyết định cái riêng), đứng trên cái trục chính đó mà nhân
dân Nga đã chiến thắng không chỉ có kẻ thù mà còn cả chính mình, đó là
giải phóng toàn thể nhân dân lao động và mở ra hướng mới cho nhân loại
7
mặc dù lúc này vật chất, tinh thần chưa đáp ứng đủ nhu cầu đó, song cũng
cần thấy nó để hướng tới, phấn đấu cho cái mới ra đời, đó chính là chủ
nghĩa xã hội.
Cùng với sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện khách quan, về mặt
chủ quan, Đảng Bônsêvich Nga còn có nhận thức chưa rõ về mặt chủ nghĩa
xã hội, từ đó đã vấp phải những sai lầm. Do không nhận rõ các quy luật
khách quan nên việc xác định các chủ trương chính sách không sát, không
phù hợp, có phần nóng vội đốt cháy giai đoạn. Cụ thể, trong những năm
tháng sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, do hoàn cảnh khách quan mà
nước Nga phải áp dụng chính sách cộng sản thời chiến và hiểu quả thực tế
của nó đã làm hình thành nên quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp đi lên
chủ nghĩa xã hội. Từ đó đã xuất hiện hàng loạt chủ trương, biện pháp không
thích hợp dẫn đến cuộc khủng hoảng có tính chất toàn diện. Cuộc khủng
hoảng này đặt vận mệnh của nước Nga Xô viết trẻ tuổi vào tình trạng "ngàn
cân treo sợi tóc".
Do vậy, nhận thức lại, nhận thức đúng đắn những điều kiện khách
quan kết hợp với sự sửa chữa những sai lầm chủ quan trước đây về CNXH
chính là tiền đề trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện của Chính sách kinh tế mới.
Sự ra đời của NEP phản ánh tiến trình phát triển quy luật của đời sống xã
hội.
NEP xuất hiện là một kết quả cụ thể trong sự nghiền ngẫm của V.I.
Lênin về những biện pháp có tính chất chiến lược nhằm chỉ đạo cuộc cách
mạng dành thắng lợi. Những tư tưởng chiến lược này đã hình thành ở V.I.
Lênin ngay từ khi Cách mạng tháng Mười (1917) thành công. Khi tình thế ở
nước Nga xuất hiện những thuận lợi cho sự ra đời của xã hội XHCH. Lênin
đã đón trước thời cơ, tìm tòi nghiền ngẫm để dự kiến con đường đi tới thắng
lợi của cách mạng. Đồng thời Người cũng chuẩn bị những biện pháp chiến
lược và sách lược để đưa nước Nga tiến lên. Về sau những tư tưởng đó được
thể hiện trong Chính sách kinh tế mới.
Tóm lại, do những tác động khách quan và chủ quan trên đây, sau
khoảng ba năm thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, Lênin cùng Đảng
Bônsêvích đã chuyển sang triển khai Chính sách kinh tế mới trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết.
Ngay bản thân tên gọi của chính sách cộng sản thời chiến không
những đã nói lên phạm vi, giới hạn mà còn nói lên điều kiện áp dụng nó
trong thời kỳ chiến tranh chống lại kẻ thù xâm lược, nhằm bảo vệ đất nước.
Do sự chi phối của quy luật chiến tranh, nước Nga cũng như bất cứ
nước nào khác trên thế giới, trong điều kiện như vậy đều phải có những chủ
8
trương, biện pháp kịp thời tập trung sức người, sức của để chiến đấu và
chiến thắng kẻ thù, giữ vững thành quả cách mạng. Vì vậy, trong thời gian
này, Đảng Bônsêvích Nga, đứng đầu là Lênin đã chủ trương áp dụng chính
sách cộng sản thời chiến nhằm thực hiện mục đích nói trên. Nhân dân nước
Nga đã thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương của Đảng Bônsêvích và
Lênin để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ nước Nga Xôviết non trẻ đang đứng
trước nguy cơ bị diệt vong, trước tình tạng "ngàn cân treo sợi tóc". Việc
chiến thắng kẻ thù trong giặc ngoài chứng tỏ chính sách cộng sản thời chiến
đã đóng góp một phần tích cực vào cuộc chiến tranh vệ quốc nhằm bảo vệ
nước Nga Xôviết, bảo vệ thành quả cách mạng.
Để thấy được bước phát triển mới, sáng tạo của Chính sách kinh tế
mới so với chính sách cộng sản thời chiến, phải đi sâu tìm hiểu về "Chính
sách kinh tế mới"
Thực chất của Chính sách kinh tế mới là phát triển đến mức tối đa lực
lượng sản xuất và cải thiện tình cảnh của công nhân và nông dân, sử dụng
chủ nghĩa tư bản tư nhân, hợp tác xã và hướng nền sản xuất của xã hội đi
vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất là tiêu chuẩn quan trọng đánh giá sự tiến bộ của nền sản xuất xã
hội.
Triết học Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Khi xem xét bất cứ sự vật hiện
tượng nào cũng phải xuất phát từ quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể. Với
cách nhìn đó, việc V.I. Lênin áp dụng chính sách cộng sản thời chiến ở nước
Nga ngay sau khi Cách mạng tháng Mười thắng lợi, giai cấp vô sản ở nước
Nga đã thiết lập được chính quyền, bảo vệ được thành quả của cách mạng
mà nhân dân nước Nga đã đổi bằng xương máu. Thực tế đã cho thấy: Chính
sách cộng sản thời chiến đã đóng góp tích cực tạo ra sức mạnh để cho nước
Nga chiến thắng thù trong giặc ngoài, bảo vệ được nước XHCN đầu tiên
trên thế giới.
Cuối năm 1920 đầu năm 1921, khi cuộc nội chiến đã được giải quyết,
nước Nga bước vào giai đoạn cách mạng mới - thời kỳ hòa bình xây dựng
đất nước, xây dựng chế độ XHCN. Việc áp dụng các biện pháp đã làm trong
chính sách cộng sản thời chiến giai đoạn này tỏ ra không thích hợp nữa, và
bộc lộ nhiều nhược điểm, trước hết được biểu hiện trong vấn đề nhận thức
lý luận về con đường đi lên CNXH của nước Nga. Lênin đã nhận thức thấy:
khi mà những điều kiện khách quan còn bị hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật
do lịch sử để lại của nước Nga còn lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật còn
thấp kém, công nhân lành nghề chưa đủ, lại bị mai một do không có việc
phải bỏ về nông thôn Trong điều kiện đó đã đặt vấn đề chuyển ngay từ
9
nước Nga của chế độ Sa Hoàng thành nước Nga XHCN thì quả là một sai
lầm. Với tinh thần cách mạng không ngừng, V.I. Lênin đã dũng cảm và kiên
quyết sửa chữa những sai lầm mắc phải, khắc phục nó trong tiến trình xây
dựng đất nước.
Khi mà chủ trương, biện pháp của chính sách cộng sản thời chiến đã
bộc lộ những nhược điểm, yếu kém và không còn thích hợp nữa thì Lênin đã
suy ngẫm, tìm tòi đưa ra các chủ trương, biện pháp mới thích hơn, nhằm
khắc phục tình hình khủng hoảng đã diễn ra ở nước Nga và Chính sách kinh
tế mới được ra đời đáp ứng mục đích chỉ đạo cách mạng của Lênin. So với
chính sách cộng sản thời chiến thì Chính sách kinh tế mới là một bước phát
triển sáng tạo, là sự đổi mới về tư duy lý luận của Lênin và những người
cách mạng nước Nga. Chính sách kinh tế mới vừa là giải pháp trước mắt để
chống khủng hoảng, vừa là một nội dung mới có tính chất chiến lược lâu
dài. Sáng tạo của Chính sách kinh tế mới được thể hiện ở việc đổi mới về
nhận thức, đổi mới về con đường đi lên CNXH , làm cho nó phù hợp với
thực tiễn hơn. Vì vậy các chủ trương, biện pháp mang tính chất trực tiếp đi
lên CNXH ở trong chính sách cộng sản thời chiến, được thay bằng các chủ
trương, biện pháp gián tiếp, thông qua các bước đi và hình thức kinh tế quá
độ. Chủ trương xóa bỏ thương nghiệp trong chính sách cộng sản thời chiến
đã chuyển sang phục hồi thương nghiệp, thực hiện trao đổi thông qua thị
trường trong Chính sách kinh tế mới. Việc phân phối sản phẩm cho người
lao động dưới hình thức trực tiếp bằng hiện vật đã chuyển sang phân phối
sản phẩm thông qua lưu thông hàng hóa, sử dụng lại đồng tiền trong lưu
thông
Phải nói rằng, việc mở rộng và đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp
và công nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân, thông qua con đường chủ
nghĩa tư bản nhà nước và hợp tác xã để đi lên CNXH là một bước phát triển
mới sáng tạo về tư duy lý luận của V.I. Lênin.
1.2. Tính biện chứng trong nội dung Chính sách kinh tế mới
1.2.1 NEP là biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa mục tiêu và bước đi
Vào những năm 1920 - 1921, nước Nga vừa thoát khỏi 2 cuộc chiến
tranh kéo dài 7 năm. Những hậu quả của chiến tranh rất nặng nề và khó
lường hết. Chiến tranh đã gây ra khó khăn về nhiều mặt: kinh tế, chính trị,
xã hội, đời sống của con người. Nhưng thời gian sau 2 cuộc chiến tranh
cũng là một thời kỳ chuyển mình của nước Nga: nước Nga bước vào một
thời kỳ mới, thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước.
10
Cách mạng tháng Mười Nga 1917 thắng lợi, nước XHCN đầu tiên
trên thế giới ra đời, Lênin đưa CNXH từ trong lý luận của C. Mác trở thành
hiện thực ở nước Nga Xôviết.
Với sự dẫn dắt khôn khéo của Lênin và những người cộng sản
Bônsêvích Nga, CNXH ở nước Nga đã đứng vững trước sự bao vây của
nhiều nước đế quốc với ý đồ bóp chết nước Nga Xôviết.
Nhưng trong thời kỳ hòa bình xây dựng này, trước những thử thách
mới như đã nêu ở trên, nước Nga có giữ vững được hay không? Đó là câu
hỏi lớn nhất đang đặt ra cho Đảng Bônsêvích Nga, cho Lênin và nhân dân
nước Nga Xô viết và phải được minh chứng thông qua thực tiễn.
Vì vậy, mục tiêu lớn nhất, bao trùm nhất của nước Nga Xôviết và
cũng chính là mục tiêu của Chính sách kinh tế mới là: quyết tâm bảo vệ và
xây dựng thành công CNXH ở nước Nga. Đó cũng là mục tiêu chiến lược
của cuộc cách mạng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước Nga. Nhưng đi
như thế nào? Có thể chuyển trực tiếp nước Nga lên CNXH được không?
Vấn đề đặt ra và giải quyết là quan hệ giữa mục tiêu trong giai đoạn đầu đầy
khó khăn và thử thách này.
Chính sách kinh tế mới đã thể hiện một cách nhìn nhận mới của Lênin
về con đường đi lên CNXH, tìm ra sự phù hợp cần thiết với hoàn cảnh nước
Nga Xô viết. Đó là quan niệm về con đường gián tiếp đi lên CNXH.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bônsêvich Nga và Lênin, nước Nga đã phải trải qua nhiều khó khăn, gian
khổ trong một hoàn cảnh hết sức phức tạp.
Tình thế phức tạp nhất của nước Nga Xôviết lúc này là: vừa ngừng
tiếng súng, cuộc khủng hoảng toàn diện đã xảy ra. Khi mà nguy cơ của cuộc
khủng hoảng ngày càng tăng lên thì càng đòi hỏi những người cộng sản phải
nhận thức một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những vấn đề lý luận và thực
tiễn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước Nga.
Lênin đã xuất phát từ sự phân tích các mâu thuẫn đang tồn tại ở nước
Nga Xô viết trong thời kỳ quá độ lên CNXH đó là:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm lịch sử của nước Nga đúng về
phương diện khách quan mà nói, nước Nga bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH trong hoàn cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn. Ngoài sự tàn phá do
chiến tranh, bản thân nền kinh tế nước Nga ở một trình độ thấp kém: đến
năm 1920, nước Nga là một nước mà CNTB chỉ mới phát triển ở mức trung
bình, lạc hậu về mặt kinh tế, sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ yếu
trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, mâu thuẫn lớn nhất của nước Nga lúc
này là mâu thuẫn giữa hiện trạng của nước Nga với yêu cầu của CNXH phải
11
có một nền kinh tế phát triển toàn diện, năng suất cao. Thế nhưng với khả
năng hiện có, nước Nga không thể đáp ứng được yêu cầu đó. Trong quá
trình chỉ đạo thực hiện chính sách kinh tế, Lênin đã thường xuyên quan tâm
đến mâu thuẫn này và tìm mọi biện pháp để giải quyết, làm cho CNXH
thắng lợi ở nước Nga.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa nhận thức và hiện thực về các quy luật đi lên
CNXH. Về một phương diện nào đó, chúng ta sẽ thấy hiện tượng trên là
không tránh khỏi. Bởi vì, nước Nga Xôviết như chúng ta đã biết, là nước
đầu tiên trên thế giới xây dựng CNXH.
Do nhận thức còn nhiều mơ hồ nên đã dẫn tới sự chỉ đạo trong hành
động không đúng, không phù hợp với quy luật khách quan. Điều đó đã gây
ra nhiều khó khăn cho cách mạng nước Nga. Những năm tháng thực hiện
chính sách cộng sản thời chiến đã hình thành quan niệm về quá độ trực tiếp
lên CNXH. Từ đó trong những chủ trương biện pháp ở thời gian tiếp theo
rơi vào tình trạng nóng vội, đốt cháy giai đoạn, tạo thêm những nguyên
nhân làm tăng nguy cơ cuộc khủng hoảng ở nước Nga lúc bấy giờ
Thứ ba, một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng, làm tăng
thêm nguy cơ của cuộc khủng hoảng ở nước Nga, đó là sự bao vây của bọn
đế quốc bên ngoài, nhằm phá hoại nước Nga Xôviết đang còn non trẻ, tạo ra
mâu thuẫn giữa CNXH ở nước Nga và CNTB ở các nước đế quốc. Bọn đế
quốc luôn cấu kết với bọn phản động ở trong nước để phá hoại cách mạng
nước Nga. Biểu hiện rõ ràng nhất là sự nhúng tay của bọn đế quốc bên
ngoài, cấu kết với bọn phản động trong nước gây ra cuộc nổi loạn ở
Crônxtat.
Tìm hiểu mâu thuẫn trong những năm 1920 - 1921, phân tích toàn
diện các nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng ở nước Nga, Lênin đã chỉ
ra: nguyên nhân bên trong, những sai lầm về lãnh đạo quản lý, trước hết và
chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế.
Kết luận trên của Lênin đã hướng dẫn hành động của Người trong
việc thực hiện mối quan hệ biện chứng giữa mục tiêu và bước đi, tìm ra các
giải pháp thích hợp để giải quyết tình thế cách mạng của nước Nga. Ở trong
Chính sách kinh tế mới, Lênin đã như vậy để có CNXH hiện thực ở nước
Nga. Bảo vệ vững chắc thành quả Cách mạng tháng Mười vĩ đại, mở ra thời
kỳ phát triển mới cho nhân loại, đó là mục tiêu của cách mạng nước Nga,
cũng là mục tiêu mà chính trong nội dung của Chính sách kinh tế mới đã
được đặt ra.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra là CNXH và chủ nghĩa cộng sản,
Chính sách kinh tế mới của Lênin được cụ thể hóa bằng những bước đi sau:
12
Bước đi đầu tiên, thực hiện tốt chính sách thuế lương thực
Việc thay đổi chế độ trưng thu lương thực, bằng thuế lương thực đã
đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân lao động, làm thay đổi bộ mặt
của đời sống của nông dân, kích thích tái sản xuất, lòng tự giác, vì từ nay họ
có quyền định đoạt sản phẩm do mình làm ra sau khi hoàn thành thuế cho
nhà nước, còn sản phẩm "dư thừa" thì họ thực hiện việc trao đổi mua bán
với công nghiệp để tái sản xuất được tốt hơn, làm cho xã hội sôi động hơn.
Thuế lương thực có ý nghĩa chuyển từ biện pháp hành chính thuần túy
sang biện pháp hoạch toán kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Đây chính
là biện pháp giải quyết đúng đắn giữa "cái chung" với "cái riêng". Cái
chung được biểu hiện ở cái riêng, có nghĩa là Nhà nước Nga Xôviết lớn
mạnh, được thể hiện ở sự lớn mạnh của đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, đây lại là vấn đề gây nhiều tranh cãi "nghi ngờ" trong
chính quyền. Họ đã đặt ra nhiều câu hỏi dường như là "đúng" và đã được
Lênin trả lời một cách rất thỏa đáng. Như là vấn đề : "Tại sao lại chính nông
dân mà không phải là công nhân đặt lên hàng đầu?". Với cái nhìn biện
chứng, phân tích kỹ càng của mình Lênin đã giải thích rõ ràng rằng: vì nông
dân chiếm đa số dân số, đây là thị trường lớn cho tiêu thụ công nghiệp, lúc
đó các sản phẩm công nghiệp chủ yếu là công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
Hơn nữa, muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mì và
nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì đó là "trở
ngại" lớn nhất. Vì vậy chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch
lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống
nông dân, bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ
nông dân. Người nào không hiểu điều đó, người nào không có ý đưa vấn đề
nông dân lên hàng đầu như thế là một sự "từ bỏ" hoặc tương tự như sự từ bỏ
chuyên chính vô sản, thì chẳng qua chỉ vì người đó không chịu suy nghĩ kỹ
càng vấn đề đó và bị lời nói trống rỗng chi phối vấn đề cấp thiết nhất hiện
nay là dùng những biện pháp có thể phục hồi ngay những lực lượng sản xuất
của kinh tế nông dân. Như Mác nói: "con người muốn tồn tại cần phải ăn, ở,
mặc, đi lại và tái sản xuất " còn Lênin thì nhấn mạnh "không vì cái lợi ích
trước mắt, mà hy sinh đi cái lợi ích lâu dài của mình được, cho nên cần phải
nhanh chóng nâng cao lực lượng sản xuất của nông dân, phải bắt đầu từ
nông nghiệp". Một câu hỏi khác "nếu có tự do buôn bán thì sẽ có tư hữu, đó
là điều kiện cho tư sản phục hồi". Lênin thừa nhận điều này và ông cho rằng
đó là điều kiện không đáng lo ngại vì nó chịu sự kiểm soát của nhà nước do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
13
Về mức thu thuế cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể để điều chỉnh
mức thuế cho phù hợp, có thể giảm, miễn thuế khi mất mùa. Đây là sự xác
định đúng đắn vai trò của "quần chúng nhân dân" với chính quyền mới đảm
bảo được ổn định lâu dài.
Bước đi thứ hai, khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa nông
nghiệp nông thôn, thực hiện lưu thông công nghiệp với nông nghiệp.
Dưới thời CNTB, nông dân với công trường thủ công đã có sự sản
xuất lớn tập trung, có những cánh đồng cỏ rộng vài nghìn ha phục vụ nuôi
cừu để sản xuất lấy bông vải, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp dệt
nhưng nó chỉ diễn ra với các nước tư bản phát triển, trong khi đại đa số nông
dân còn chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu, nước Nga là một
minh chứng. Thuộc tính cố hữu của nông dân trong sản xuất là mang tính
"tự cấp, tự túc" kinh tế tự nhiên cho nên không có nền sản xuất lớn được, và
từ đó kéo theo sự trao đổi bằng hiện vật. Cái mà chủ nghĩa xã hội đang cần
lại là khác với nó, đó là sản xuất hàng hóa lớn cho xã hội, xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ ý nghĩa kinh tế và chính trị của trao đổi hàng hóa, Lênin
đã nêu lên sự so sánh sau đây: Từ trước đến nay, người làm công tác lương
thực chỉ biết có một chỉ thị chủ yếu: thu đủ 100% mức lương thực trưng thu.
Ngày nay, chỉ thị đã khác, phải thu đủ 100% thuế lương thực trong thời gian
ngắn nhất, rồi thu 100% nữa bằng cách đổi các sản phẩm của đại và tiểu
công nghiệp.
Như vậy, chính sách thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư tưởng
chuyển sang kinh doanh lương thực, được coi như một đòn bẩy quan trọng
cho sự phát triển sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp nói chung.
Theo hướng đó, nhà nước đã đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kỹ
thuật cho nông dân.
Nhờ quán triệt đầy đủ quan điểm Lênin trong chính sách lương thực,
nên đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nước Nga đã đạt mức trước chiến
tranh (1913), trong khi các nước TBCN tham gia chiến tranh thế giới lần thứ
nhất phải trải qua 10 năm, kể từ sau hiệp ước Vec-xây, mới khôi phục xong
sản xuất nông nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ thứ 2 trong cơ chế NEP phải giải quyết 2 vấn
đề:
Một là, lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân?
Hai là, khôi phục và phát triển kinh tế hàng hóa bên trong nông
nghiệp mới thực hiện được NEP nhưng sẽ kéo theo sự khôi phục và kích
thích xu hướng tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó giải quyết như thế nào?
Quan điểm của Lênin về vấn đề này như sau:
14
- Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của CNTB là một sự phát triển
không tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, khi cần khôi phục
kinh tế công nghiệp, nông nghiệp.
- Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó có hại cho cách mạng
"chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng
nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực
hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế,
nhất định sẽ phá sản"
- Nhưng không được coi thường, buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát
sự phát triển ấy của xu hướng tư bản chủ nghĩa, nhất là đấu tranh chống nạn
đầu cơ. Muốn vậy phải sử dụng hình thức kinh tế "chủ nghĩa tư bản nhà
nước", Lênin nói "chủ nghĩa tư bản nhà nước không đáng sợ, mà đáng mong
đợi, học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước"
- Vì lợi ích của CNXH phải phát triển tư bản nhà nước và tự do buôn
bán để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và để chống
tệ quan liêu.
Quan điểm của Lênin như vậy thật rõ ràng, có tính chất biện chứng và
có tính nguyên tắc.
Bước đi thứ ba, khôi phục và phát triển lại nền sản xuất công nghiệp
phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân
Để nông nghiệp phát triển hướng vào sản xuất hàng hóa kinh tế, thì
ngoài liên kết tập trung hợp tác, thì nó phải được cơ khí hóa nền sản xuất
tức là công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, đây là vấn đề quan trọng
được xem như là nội dung của cải cách kinh tế. Mặt khác cân đối công
nghiệp, nông nghiệp nhằm thiết lập thế cân bằng những "viên gạch" đầu tiên
để đi vào "đại công nghiệp", điện khí hóa, lúc đó chúng ta có "đủ lực và
sức" để đi vào chủ nghĩa xã hội đây là bước tiến đi từ thấp tới cao với những
"bước đi" vững chắc. Trong thực tiễn nhiều nước xã hội chủ nghĩa kể cả ở
Việt Nam đã không nắm bắt được đầy đủ tư tưởng này của Lênin nên đã đề
ra những mục tiêu không tập trung cho phát triển công nghiệp nặng một
cách tràn lan, không căn cứ vào thực tế, cũng như những điều kiện cụ thể,
cho nên đã phải trả "giá đắt", níu kéo sự phát triển kinh tế, hàng hóa thì
khan hiếm, nguyên vật liệu thiếu thốn, gây khủng hoảng lương thực cuộc
thử nghiệm này đã chiếm của chúng ta khá nhiều thời gian, làm chậm bước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Lênin để khôi phục công nghiệp sau chiến tranh cần tập trung
vào 2 yếu tố:
15
Thứ nhất, cần có hàng công nghiệp trao đổi với nông nghiệp trên thị
trường, đặc biệt là công nghiệp vừa và nhỏ, vấn đề này ở nước ta gọi là hàng
công nghiệp cải tiến.
Thứ hai, cần thu hút công nhân có kỷ luật vào sản xuất ở các nhà
máy. Để thực hiện nhiệm vụ đó cần phải có : kế hoạch chính sách, trong
công nghiệp trước hết là ưu tiên công nghiệp vừa và nhỏ, xác định ngành
mũi nhọn, then chốt, có trọng điểm để tập trung đầu tư phát triển, thích ứng
với tình hình kinh tế, ít vốn đầu tư, mang lại hiểu quả kinh tế cao, dễ tìm
nguyên vật liệu, phát huy lợi thế so sánh.
Khi xây dựng công nghiệp cần phải xuất phát từ nhu cầu công nghiệp,
nông thôn, có khả năng tích lũy và khôi phục vốn. Tập trung sản xuất hợp lý
và cân đối lao động, ngành nghề giữa công nghiệp, nông nghiệp, thành thị,
nông thôn.
Xây dựng công nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh thị
trường là bước tiến của công nghiệp, thứ nhất, là tập trung trung được
nguồn vốn cho sản xuất, thứ hai, là có thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản
phẩm, thứ ba, là tiến hành cải cách công nghiệp quốc doanh và công nghiệp
tư nhân, chủ động, năng động hơn vì lúc này nó lấy hiểu quả kinh tế làm
trọng, tăng sản lượng cho chủ nghĩa xã hội. Việc tổ chức lại sản xuất, quản
lý, và cân đối ngành nghề nó không chỉ giúp cho doanh nghiệp tự chủ hoạch
toán kinh tế mà còn giảm gánh nặng cho nhà nước, mặt khác nó còn nâng
cao mức thu ngân sách cho nhà nước. Đối với nông nghiệp thì công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến là những khâu quan
trọng để tháo gỡ khó khăn "đầu vào", "đầu ra" cho nông nghiệp, hướng vào
sản xuất hàng hóa tập trung có quy hoạch.
Đặt trong mối quan hệ thống nhất, toàn diện, khái quát nhất cho
chúng ta thấy sự dứt khoát chặt chẽ có sự gắn kết đan xen nhau, các yếu tố
hợp thành nền kinh tế mới đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cái này ràng buộc cái kia, tác động qua lại nhau, hỗ trợ cùng phát
triển.
Một ví dụ đơn giản dễ thấy đó là: nếu cần muốn mở rộng sản xuất thì
sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, để nông nghiệp sản xuất hàng hóa thì
cần phải có kinh tế hợp tác, hợp tác xã và có sự tác động công nghiệp hóa
nông nghiệp nông thôn, tạo thành một thị trường năng động, chủ động và và
tích cực, trong đó công nghiệp quốc doanh giữ vai trò chỉ đạo chi phối, điều
tiết công nghiệp và ngành nghề khác ngoài quốc doanh. Kết quả ở nước Nga
năm 1923 tỷ trọng công nghiệp quốc doanh và tập thể chiếm 75,3% bảo
đảm phần lớn cho sản xuất nông nghiệp và nghành nghề khác
16
Chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung mệnh lệnh sang hoạch toán
kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cũng không làm giảm đi sức
mạnh của nhà nước. Nhà nước thực hiện sự quản lý vĩ mô của mình bằng
điều tiết, điều chỉnh và kiểm tra, kiểm soát sự hoạt động của các doanh
nghiệp.
Kiên định tập trung dân chủ có kế hoạch và xây dựng hệ thống pháp luật
chặt chẽ, kết hợp được hai nội dung thị trường và kế hoạch hóa tạo nên sự
ổn định phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế. Các thành phần
kinh tế ấy đều nằm trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Bước đi thứ tư, củng cố mở rộng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế, muốn có sự phát triển bình thường, bất cứ ở nước
nào cũng phải thực hiện tốt các khâu của chu trình sản xuất, đó là: sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Thương nghiệp là một khâu quan trọng nối liền giữa sản xuất và tiêu
dùng. Làm tốt khâu thương nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất và lưu thông phát
triển, xây dựng và củng cố lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ thực hiện
Chính sách kinh tế mới, Lênin chủ trương đẩy mạnh việc củng cố và mở
rộng thương nghiệp, với các mục tiêu như sau:
Thương nghiệp có vai trò quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu của
Chính sách kinh tế mới, nhằm thiết lập liên minh kinh tế giữa giai cấp công
nhân và nông dân.
Trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu và phân tán của nước Nga thì
thương nghiệp là sợi dây ràng buộc giữa hàng chục triệu người tiểu nông
với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho nông nghiệp và công nghiệp tái sản
xuất được.
Nếu không có sự hoạt động của thương nghiệp thì không thể sử dụng
được các hình thức quá độ trong sản xuất lưu thông.
Trong thời kỳ thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, với tư tưởng
xóa bỏ thương nghiệp, coi nhẹ vai trò của thương nghiệp đã kìm hãm sự
phát triển của nó, gây ảnh hưởng lớn cho sản xuất và lưu thông.
Quan niệm xóa bỏ thương nghiệp là sự vi phạm quy luật phát triển
khách quan của nền sản xuất xã hội, làm ảnh hưởng đến đời sống của nhân
dân. Khi bước vào thời kỳ thực hiện Chính sách kinh tế mới, tình hình cơ
cấu của thương nghiệp nước Nga hết sức phức tạp, cụ thể là: thương nghiệp
tư nhân chiếm 26,2%, người nội trợ chiếm 28,4%, công nhân chiếm 15,5%,
thợ thủ công chiếm 13,4%, các thành phần khác chiếm 11%, viên chức
chiếm 5,7%
17
Vào những năm 1923, 1924 trong thương nghiệp, tư bản tư nhân nắm
18% chu chuyển thương nghiệp bán buôn và bán lẻ. Tình hình lĩnh vực lưu
thông hàng hóa như vậy hoàn toàn không phù hợp với mục tiêu kinh tế và
chính trị mà Chính sách kinh tế mới đang đòi hỏi. Cuộc đấu tranh giữa 2
con đường XHCN và TBCN trên lĩnh vực thương nghiệp càng biểu hiện rõ
nét và gay gắt. Chính vì vậy, Lênin đã chỉ ra, trong điều kiện cụ thể của
nước Nga, phải nắm lấy thương nghiệp và coi thương nghiệp là một mắt
xích hết sức quan trọng mà giai cấp vô sản phải nắm cho bằng được, Lênin
chỉ ra rằng: "Thương nghiệp là một cái "mắt xích" trong cái xích những sự
kiện lịch sử, trong những hình thức quá độ của công cuộc xây dựng CNXH
của chúng ta vào những năm 1921 - 1922, đó là "mắt xích" mà chúng ta,
chính quyền của nhà nước vô sản, mà chúng ta, đảng cộng sản đang nắm
quyền lãnh đạo - "chúng ta phải đem toàn lực ra nắm lấy". Nếu ngày nay
chúng ta "nắm" được khá chặt mắt xích đó thì chắc chắn là một ngày gần
đây, chúng ta sẽ làm chủ được toàn bộ cái dây xích. Bằng không, chúng ta
sẽ không đạt được nền móng của những mối quan hệ kinh tế và xã hội trong
xã hội XHCN" [45;279].
Để nắm chắc thương nghiệp, phát huy vai trò của thương nghiệp theo
tinh thần của Chính sách kinh tế mới, Lênin đã xác định bước đi cụ thể của
thương nghiệp như sau:
Làm cho thương nghiệp XHCN trở lại vị trí của mình và chiếm giữ
các vị trí chỉ huy trong thương nghiệp để triển khai quá trình lưu chuyển
hàng hóa, đồng thời làm chủ quá trình lưu thông đó, phải đi thẳng tới nhu
cầu của nông thôn và thành thị. Phải xây dựng và củng cố mối liên hệ chặt
chẽ giữa công nghiệp quốc doanh với thương nghiệp quốc doanh và thương
nghiệp tập thể, để nắm vững quỹ hàng hóa công nghiệp dùng nó làm
phương tiện điều tiết thị trường.
Nhà nước cần củng cố và phát triển nhiều hình thức thương nghiệp
như sau:
- Tổ chức các hình thức thương nghiệp nhà nước ở các thành phố lớn
(cửa hàng bách hóa tổng hợp)
- Tổ chức các Xanhđica (thương nghiệp để tiêu thụ và cung ứng)
- Tổ chức hệ thống hợp tác xã tiêu thụ
Song song với việc mở rộng, xác lập vị trí của thương nghiệp XHCN,
nhà nước Xôviết đã tiến hành xây dựng, mở rộng mạng lưới giao thông vận
tải để vận chuyển hàng hóa đi các nơi trong nước. Đồng thời, Nhà nước phải
tiến hành củng cố hệ thống tài chính, thiết lập sự cân đối về ngân sách, ổn
định đồng tiền, tiến tới hạch toán kinh tế trong ngành thương nghiệp.
18
Nhờ các biện pháp tích cực theo quan điểm của Chính sách kinh tế
mới nên đến năm 1925 - 1926 thương nghiệp nước Nga, giao thông vận tải
phát triển, nền tài chính tiền tệ ổn định, góp phần thực hiện mục tiêu của
Chính sách kinh tế mới là bảo vệ và xây dựng CNXH ở nước Nga.
Bước đi thứ năm, củng cố nền tài chính, ổn định tiền tệ
Khôi phục kinh tế theo quan điểm NEP đã tạo điều kiện kinh tế thuận
lợi cho việc giải quyết các vấn đề tài chính, tiền tệ. Các xí nghiệp đi vào
hoạch toán kinh tế không đòi hỏi kinh tế từ ngân sách nhà nước, đồng thời
lại nộp một phần lợi nhuận vào ngân sách nhà nước, đồng thời lại nộp một
phần lợi nhuận vào ngân sách. Hoạt động ngoại thương phục hồi, bắt đầu bổ
sung dự trữ vàng cho nhà nước Xôviết. Đó là một mặt của tình hình, nhưng
mặt khác, các hoạt động sản xuất và lưu thông càng mở rộng, kinh tế hàng
hóa phục hồi và phát triển thì càng đòi hỏi phải giải quyết vấn đề tài chính,
tiền tệ một cách cấp bách.
Việc ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xôviết được đặt trong bối
cảnh đặc biệt: nước Nga trước cách mạng đã đạt trình độ phát triển kinh tế
hàng hóa cao, nhưng trải qua mấy năm thi hành "chính sách cộng sản thời
chiến" và những hậu quả của chiến tranh, nền kinh tế bị xáo trộn, bị tàn phá,
kinh tế hàng hóa bị thu hẹp, xu hướng hiện vật hóa ngày càng tăng. Bước
vào khôi phục kinh tế trong tình trạng lạm phát nặng nề, ngân sách bội chi
ngày càng lớn, đồng rúp mất giá. Nhà nước đứng trước hai vấn đề cực kỳ
khó khăn: chấn chỉnh công tác tài chính và ổn định đồng tiền. Hai vấn đề
liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau trong quá trình cải
cách lĩnh vực quan trọng này.
Vấn đề thu chi ngân sách luôn là công việc của chính phủ việc đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, khoa học kỷ thuật, giáo dục, y tế,
văn hóa Nói tóm lại, mọi mặt của đời sống xã hội là vấn đề đáng được
quan tâm.
Nguồn thu chủ yếu của nhà nước ta các loại thuế, cho nên vấn đề thu
thuế phải được thực hiện nghiêm minh, rõ ràng, chính xác tránh thất
thoát cùng với đó là sự đầu tư trở lại của chính phủ đặc biệt là đầu tư xây
dựng cơ bản cần phải được kiểm tra chặt chẽ tránh tệ lợi dụng tham nhũng,
vụ lợi cá nhân. Cân đối tài chính nhằm tăng cường sự quản lý của nhà nước,
đồng thời nó kiểm soát được tệ hàng giả, hàng lậu, trốn thuế, làm tăng thu
cho nhà nước ổn định thị trường.
Ổn định tiền tệ tránh lạm phát "rối loạn nền kinh tế" ổn định tiền tệ
còn làm cho tâm lý đầu tư sản xuất được yên tâm. Để đảm bảo thực hiện
đầy đủ nội dung yêu cầu trên: trước hết cần phải có một đội ngũ cán bộ
19
trong sạch vững mạnh, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực và có năng lực
trong quản lý cũng như việc theo sát thị trường yêu cầu thực tế của nó. Tóm
lại, công tác quản lý của nhà nước và công tác cán bộ giảm các chi phí
không cần thiết, đầu tư cho trọng điểm, tinh giảm bộ máy quản lý nhà nước
tránh chồng chéo và nhiều vấn đề khác, làm tốt công tác này góp phần
thắng lợi trong thời ký quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin rất quan tâm đến kế hoạch, điều tra, giám sát theo dõi thực hiện
từ trung ương đến cơ sở và huy động tài chính từ mọi phía công tác tài chính
gắn với hệ thống ngân hàng nhà nước và doanh nghiệp tạo nên sự thống
nhất ăn khớp, đồng bộ.
Tất cả những nội dung trên ở Liên Xô trong thời kỳ thực hiện NEP đã
thu được thành công to lớn từ năm 1923 đến 1924, tổng thu là 2.026 triệu
rúp, tổng chi là 2.022 triệu rúp phần lớn cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
1.2.2. Chính sách kinh tế mới là sự biểu hiện mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị
Trong triết học Mác - Lênin, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
một nội dung được quan tâm nhiều nhất. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị thường được biểu hiện trong đời sống xã hội, trong đường lối chính sách
của Đảng cộng sản. Nó là cơ sở phương pháp luận cho việc lãnh đạo, chỉ
đạo cách mạng của người lãnh đạo.
Ở trong Chính sách kinh tế mới, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
được biểu hiện khá đậm nét, trong quá trình chỉ đạo cách mạng nước Nga,
thời kỳ đầu của nước Nga Xôviết đã coi trọng mối quan hệ này. Mối quan
hệ đó được Lênin khái quát như sau: "Chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế" và "Chính trị không thể giữ vị trí ưu tiên so với kinh tế" [43;273].
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
Mác từng chỉ ra rằng: Quan điểm và tư tưởng của mỗi thời kỳ lịch sử
được giải thích bằng điều kiện kinh tế của đời sống và quan hệ chính trị - xã
hội do các quan hệ kinh tế của thời kỳ đó quyết định.
Như vậy, với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, chính
trị sẽ do cơ sở kinh tế quyết định. Cơ sở kinh tế có vai trò rất to lớn đối với
tư tưởng chính trị và hệ thống tổ chức chính trị, vai trò đó được thể hiện ở
các mặt sau đây:
Chính cơ sở kinh tế quy định sự xuất hiện, quyết định nội dung, tính
chất, mục tiêu, các nguyên tắc của chính trị. Còn mạnh mẽ hơn thế nữa, cơ
sở kinh tế còn có vai trò quyết định đến sự thay đổi và phát triển của đường
lối chính trị, hệ tư tưởng chính trị và cơ cấu của hệ thống chính trị Thực
tiễn của cuộc cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở các nước trên thế
20
giới và ngay cả ở nước ta đã chứng minh một cách hùng hồn về vai trò của
kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với chính trị. Vai trò quyết định của kinh
tế được biểu hiện trên các phương diện sau:
Về khách quan mà xét thì việc xây dựng và phát triển nền kinh tế
XHCN đòi hỏi phải đập tan nhà nước tư sản và xây dựng chính quyền của
giai cấp vô sản - một công cụ cơ bản đảm bảo sự thống trị chính trị của quần
chúng lao động.
Bản chất của nền kinh tế, cấu trúc của nó cũng quy định bản chất và
nguyên tắc cơ bản của hoạt động chính trị, quyết định nội dung và cấu trúc
của hệ thống chính trị, quyết định tính chất hoạt động và phát triển của
chính trị.
Ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể đối với tư liệu sản xuất, trong khi chính quyền vẫn là chính quyền
của một giai cấp, đó là giai cấp vô sản - thì nhà nước XHCN lại trở thành cơ
quan mà thông qua đó, quần chúng nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình đối với toàn xã hội. Nhà nước không còn là công cụ quyền lực của
một nhóm nhỏ những kẻ có đặc quyền để đàn áp lại đa số nhân dân lao
động; ở đây, nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân
Sự tăng trưởng về quy mô, sự phức tạp hóa của các liên hệ kinh tế và
phát triển kinh tế quy định tính tất yếu: để hoàn thiện hơn nữa hệ thống
chính trị của xã hội, phải nâng cao vai trò của nó trong quản lý các quá trình
kinh tế
Những vấn đề nếu trên hoàn toàn phù hợp với sự chỉ dẫn của Lênin:
" qua mỗi giai đoạn, mỗi bước tiến của lực lượng sản xuất và nét văn hóa
của ta, chúng ta lại phải hoàn thiện và sửa đổi chế độ Xô viết của ta"
[45;278].
Do chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế, cho nên mọi chính
sách kinh tế đúng đắn đều phải xuất phát từ tình hình hiện thực, phản ánh
sát, đúng với trạng thái hiện thực của nền kinh tế và chính sách đó xét cho
cùng cũng do tình hình kinh tế quyết định. Tình hình kinh tế là cơ sở xuất
phát cho việc lựa chọn các phương tiện, chính sách kích thích nền sản xuất
phát triển nhằm hoàn thiện nền sản xuất xã hội. Đồng thời kinh tế cũng có
vai trò quyết định cả việc lựa chọn chính sách phân phối và sự dụng hợp lý
tổng sản phẩm xã hội, sản phẩm thặng dư dưới hình thức giá trị và hiện vật.
Luận điểm về vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị là biểu
hiện tập trung của kinh tế, đã được Lênin áp dụng để chỉ đạo việc xây dựng
xã hội mới ở nước Nga sau cách mạng tháng Mười năm 1917. Song, do tình
hình kinh tế ở nước Nga trong những năm đầu tiên sau Cách mạng tháng
21
Mười nên nhà nước đã phải áp dụng chính sách cộng sản thời chiến mà tập
trung nhất là chính sách trưng thu lương thực, phân phối vật chất theo
những tiêu chuẩn nghiêm ngặt Nhưng sau cuộc nội chiến và cuộc chiến
tranh chống can thiệp của bọn đế quốc bên ngoài đã làm cho nền kinh tế
nước Nga đổ nát, gặp nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng toàn diện bắt đầu
diễn ra ở nước Nga Xôviết. Tình hình kinh tế - chính trị đó đòi hỏi phải có
chính sách đúng đắn hơn, phù hợp với thực tế hơn. Lênin đã chuyển sang
Chính sách kinh tế mới mà đặc trưng của nó là chính sách thuế lương thực,
ra sức phát triển thương nghiệp và phát huy tính chủ động của tư nhân trong
việc xây dựng và quản lý nền sản xuất xã hội, giải quyết khó khăn của đất
nước.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Song, chính trị không phải
là sự phản ánh giản đơn, trực tiếp quá trình kinh tế, mà là sự phản ánh một
cách sáng tạo, phản ánh tập trung các hiện tượng kinh tế. Đó là:
Sự phản ánh những nhu cầu kinh tế đã được loại bỏ tất cả cái gì đó có
tính ngẫu nhiên, không ổn định, nó tách ra, nêu lên cái chủ yếu, cái cơ bản
nhất của kinh tế.
Trong lịch sử xã hội loài người, khi các quan hệ xã hội mang tính chất
chính trị thì điều chắc chắn là: Kinh tế không bao giờ tự nó phát triển được
hay không một thứ kinh tế nào phát triển ngoài chính trị được. Tất cả sự
phát triển kinh tế có sự tác động của chính trị thông qua quyền lực chính trị
và thiếu nó thì sự phát triển kinh tế chỉ có sự dẫn đến hỗn loạn mà thôi. Từ
đây đặt ra vấn đề một giai cấp cầm quyền thì không được sai lầm về chính
trị, nếu không nó sẽ làm đổ vỡ kinh tế.
Tính chủ động của chính trị so với kinh tế là hết sức cao. Nó giữ vai
trò lãnh đạo, điều khiển, quản lý, định hướng phát triển kinh tế. Do thế,
chính trị không phải là sự phản ánh chủ động, tập trung trở thành một hệ
thống điều khiển kinh tế và điều khiển toàn bộ xã hội. Theo nghĩa này,
chính trị đích thực là chính trị, vì vinh quang chung, vì đời sống cộng đồng
làm cho mọi người được và sống tốt hơn.
Chính trị cũng không phản ánh lợi ích của cá nhân, mà của toàn giai
cấp, chính trị khái quát lợi ích giai cấp.
Chính trị không chỉ phản ánh về tư tưởng những nhu cầu của kinh tế
trên lập trường lợi ích chung của giai cấp, mà còn là tập trung ý chí, sức lực,
hành động của giai cấp để thực hiện một cách thực tế lợi ích chung đó. Sự
gián tiếp của chính trị đối với kinh tế biểu hiện rõ trong cơ chế tác động của
kinh tế lên chính trị.
22
Vị trí trung tâm trong cơ chế tác động có ý nghĩa quyết định của kinh
tế đối với chính trị là lợi ích. Sự biểu hiện tập trung, khái quát của kinh tế
trong chính trị được thể hiện trước hết thông qua lợi ích kinh tế, nghĩa là
thông qua những quan hệ xuất hiện một cách khách quan của các giai cấp,
các tập đoàn xã hội, các tập thể và cá nhân đối với nhu cầu tồn tại của mình,
đối với việc tạo ra hay duy trì những nhược điểm và phương tiện đảm bảo
những nhu cầu đó.
Là sự phản ánh vị trí các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các tập thể và
cá nhân trong hệ thống sản xuất xã hội, lợi ích kinh tế biểu hiện như là cái
kích thích hoạt động thực tiễn của con người. Theo Mác thì "tất cả cái gì mà
con người đấu tranh đều gắn với lợi ích của nó". Phát triển tư tưởng trên của
Mác, trong quá trình chỉ đạo việc xây dựng CNXH ở nước Nga Xôviết,
Lênin cũng đã đi đến nhận xét: " những lợi ích thúc đẩy đời sống của các
dân tộc "
Lợi ích là sự thống nhất giữa cái khách quan và chủ quan, được thể
hiện bằng một lợi ích đúng đắn phản ánh yêu cầu phát triển khách quan của
kinh tế - xã hội thì sẽ hình thành một chính trị khoa học. Ngược lại, sự thể
hiện một lợi ích không đúng đắn thì chính trị ấy không thể phản ánh chính
xác yêu cầu kinh tế khách quan.
Vì vậy, muốn cho chính trị thực sự trở thành sự biểu hiện tập trung
của kinh tế thì phải: Có sự nhận thực một cách khoa học về thực trạng kinh
tế, hiểu thấu đáo các yêu cầu của các quy luật kinh tế. Lựa chọn các hình
thức tổ chức, chính sách phù hợp với yêu cầu kinh tế - xã hội, bảo đảm sự
hoạt động tối ưu của hệ thống các quy luật kinh tế - xã hội một cách có kế
hoạch. Xây dựng tri thức khoa học nhằm giác ngộ quần chúng, thúc đẩy
quần chúng hoạt động phù hợp với yêu cầu của quy luật kinh tế - xã hội
khách quan.
Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đời sống chính trị về cơ bản phản
ánh đời sống kinh tế, chính trị bắt nguồn sâu xa từ quan hệ kinh tế, từ trình
độ và yêu cầu của lực lượng sản xuất chứ không phải do đạo đức, tinh thần,
trí tuệ tạo ra. Tư duy chính trị phải quán triệt rằng chính trị là phản ánh hiện
trạng kinh tế, đáp ứng yêu cầu của kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Chính trị phản ánh tập trung kinh tế. Do đó, chính trị không thể không
ưu tiên và ổn định chính trị (lo chính trị tức là lo kinh tế) chính trị là để phát
triển kinh tế. Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu trong kiến
trúc thượng tầng của xã hội.
23
Trong hoạt động thực tiễn ở nước Nga, Lênin đã đấu tranh kiên quyết
với phái "kinh tế" để bảo vệ quan điểm chính trị chiếm vị trí hàng đầu.
Người đã nhiều lần nhấn mạnh và bảo vệ quan điểm của mình. Trong điều
kiện của cách mạng XHCN, vị trí hàng đầu của chính trị so với kinh tế được
biểu hiện ở chỗ:
- Việc giành và củng cố quyền lực chính trị để hình thành và phát
triển nền kinh tế XHCN (vì lợi ích của nhân dân lao động). Trong mối quan
hệ đó, chính trị có vai trò quyết định và có ý nghĩa to lớn đối với kinh tế.
- Trong quan điểm chính trị, khi phân tích và giải quyết các vấn đề
kinh tế, không thể không đề cập đến vấn đề tổ chức và các vấn đề khác có
liên quan dưới ánh sáng của các chủ trương, đường lối của cách mạng đã đề
ra.
- Trong sự lãnh đạo về mặt chính trị của Đảng cộng sản đối với các
quan hệ kinh tế của nhà nước nó luôn luôn được đặt trong mối quan hệ với
các tổ chức kinh tế của quần chúng.
- Trong sự lãnh đạo về mặt chính trị của Đảng cộng sản, để xác định
chiến lược kinh tế, phương hướng xã hội của sự phát triển kinh tế.
Qua những vấn đề nói trên chứng tỏ vị trí hàng đầu của chính trị đối
với kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tất yếu đảm bảo sự thống trị về
mặt chính trị của giai cấp công nhân, bảo đảm cho nhân dân lao động thực
hiện có kết quả quyền lực chính trị và quản lý các quá trình hoạt động của
xã hội, trong đó có kinh tế. Chính vì vậy mà vai trò hàng đầu của chính trị
đối với kinh tế là nhân tố quan trọng nhất để thực hiện lợi ích căn bản của
giai cấp công nhân, là đòi hỏi của xã hội nhằm phát triển nền kinh tế có hiệu
quả, vì lợi ích tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Từ cách nhìn trên chúng ta thấy rằng, nếu quan điểm chính trị mà sai
lầm thì nó có thể làm tiêu vong toàn bộ những thành tựu kinh tế, làm cho
nền kinh tế phát triển không đúng hướng XHCN, Lênin đã nói: " Cố nhiên
là tôi đã, đang và sẽ còn nói mong muốn rằng chúng ta làm chính trị ít hơn,
và làm kinh tế nhiều hơn. Nhưng cũng dễ hiểu rằng muốn cho lòng mong
muốn thành sự thực thì cần phải không có những nguy cơ về chính trị và
những sai lầm chính trị" [43; 352].
Vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế còn thể hiện ở chỗ: Chính
trị đưa lại khả năng can thiệp một cách tự giác vào các quá trình kinh tế xã
hội khách quan. Điều đó có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình khách quan. Từ
vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế, chúng ta cần chống lại quan
điểm tuyệt đối hóa vai trò của chính trị, vì như thế xẽ dẫn đến chủ nghĩa duy
tâm chủ quan.
24
Trong thực tiễn, mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị có
một ý nghĩa hết sức to lớn. Nhưng tùy theo từng giai đoạn khác nhau của
cách mạng mà mối quan hệ đó có những biểu hiện khác nhau.
Ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, mối quan hệ giữa đấu tranh
kinh tế và đấu tranh chính trị được biểu hiện ở chỗ, ban đầu giai cấp công
nhân đấu đấu tranh để giành quyền lợi kinh tế chuyển lên đấu tranh chính trị
mà cốt lõi của vấn đề lúc này là ở chỗ giành cho được chính quyền về tay
giai cấp công nhân. Nếu xa rời vấn đề cốt lõi đó thì người ta rơi vào quan
điểm chính trị có tính chất cải lương tư sản.
Xuất phát từ cái cốt lõi là giai cấp vô sản phải dành cho được chính
quyền về tay mình, cho nên từ đấu tranh kinh tế cho đến các hình thức đấu
tranh khác cũng chỉ tập trung lại và là sự biểu hiện của cuộc đấu tranh chính
trị và chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu đối với kinh tế. Điều đó giải
thích cho chúng ta thấy một điều rõ ràng là, tại sao ngay từ tháng 2 năm
1848, trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Mác - Angghen đã xác định
rõ nhiệm vụ chủ yếu của giai cấp công nhân là: "trước hết phải trở thành
giai cấp thống trị, giành lấy dân chủ".
Sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị có một nội dung mới, và có phạm vi
rộng lớn hơn nhiều. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước, chính trị
trở thành vấn đề bao quát toàn bộ đời sống, xã hội.
Muốn có một xã hội phát triển toàn diện thì chính trị phải trở thành
phương tiện quan trọng, chính trị phải bảo đảm sự lãnh đạo đúng hướng trên
tất cả mọi lĩnh vực của đời sống - xã hội. Sau khi giai cấp công nhân đã
giành chính quyền, trọng tâm chính trị chuyển dần vào lĩnh vực kinh tế,
chính trị ngay trong kinh tế.
Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, để chiến thắng thù trong giặc
ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng, Lênin đã chỉ ra rằng: " mỗi bước dẫn
chúng ta tiến tới ngày thắng lợi bọn bạch vệ, đều chuyển dần trọng tâm đấu
tranh vào chính trị trong lĩnh vực kinh tế" [42;482] và người đã nhấn mạnh:
"Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh
tế để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để
sử dụng lúa mì và than, đó là hợp lý hơn sao cho không còn người đói nữa"
[42; 483].
1.2.3. NEP là biểu hiện quan hệ biện chứng giữa động lực là kích thích
vật chất và động viên tinh thần cho người lao động
Kích thích vật chất
25