Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Hoạt động thương mại đối với phát triển nông thôn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.43 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ

HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM
GVHD: Th.S Huỳnh Viết Thiên Ân
SVTH : Nhóm 6
Lưu Thị Lan Hương

41K11

Trần Thị Hồng Thắm

41K11

Đinh Hoàng Diệu Linh

41K11

Nguyễn Ngọc Châu

41K11

Từ Thị Mỹ Thuận

42K04

Đà Nẵng, tháng 04 năm 2018



PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

MỤC LỤC

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

2


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

MỞ ĐẦU
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Nước ta có những tiền
đề quan trọng để phát triển nông nghiệp. Và thật vậy, nền nông nghiệp Việt Nam đã có
riêng cho mình những dấu ấn nhất định: xuất khẩu gạo hàng thứ 2 trên Thế Giới, xuất
khẩu hồ tieu luôn đứng ở vị trí đầu bảng,… Thành công là đáng ghi nhận nhưng bên cạnh
đó vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chết như việc thu mua nông sản thông qua thương lái là
chính, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân và chế biến… Mặc khác 1 nền nông
nghiệp hiện đại không đơn thuần chỉ là giống mới, công nghệ tiên tiến mà còn phải có hệ
thống thương mại nông thôn phát triển. Mới gần 80% dân số nước ta sống wor nông thôn,
tìm năng của thị trường nông thôn Việt Nam là lớn. Nhưng gần như thị trường này hiện
nay các doanh nghiệp vẫn còn đang bỡ ngỡ.
Thương mại nông thôn đã và đang trở thành vấn đề có tính cấp thiết. Nhận thức
được điều này, Nhà nước ta đã có những chính sách, những chương trình hành động cụ
thể để phát triển thương mại nông thôn – Những hoạch định mang tính chiến lược, định
hướng cho sự phát triển của nông thông Việt Nam. Là sinh viên Kinh tế chúng em xin tìm

hiểu và trình bày đề tài: “Hoạt động thương mại nông thôn đối với phát triển nông thôn”.
Nhằm nghiên cứu và đánh giá quá trình thực hiện chính sách trong những năm gần
đây từ đó đưa ra giải pháp để thực hiện những chính sách này từ góc độ kinh tế.

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

3


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

NỘI DUNG
Phần I: Cơ sở lý luận về hoạt động thương mại
1. Hoạt động thương mại
1.1.
Khái niệm hoạt động thương mại
• Theo nghĩa rộng

Đó là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, đồng nghĩa với hoạt động kinh doanh.
“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi“ (K2 Đ4 Luật Doanh nghiệp 2005). Hoạt động kinh doanh thực
hiện trong nhiều lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, hoạt động thương mại bao gồm không chỉ các hoạt động mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ mà còn là các hoạt động đầu tư cho sản xuất dưới các hình thức đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp, được điều chỉnh bằng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp
2005 Luật Kinh doanh bất động sản , Luật Chứng khoán và các Luật chuyên ngành khác.



Theo nghĩa hẹp

Theo Luật thương mại , “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác“ (K1 Đ3 Luật thương mại).
Hoạt động thương mại được định nghĩa theo Luật thương mại chỉ tập trung vào các hoạt
động kinh doanh trong 2 khâu lưu thông và dịch vụ, không bao hàm khâu đầu tư cho sản
xuất.


Hai lĩnh vực chủ yếu của hoạt động thương mại là thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

4


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

 Thương mại hàng hóa (Mua bán hàng hoá) là hoạt động thương mại, theo đó bên

bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở
hữu hàng hoá theo thỏa thuận (K8 Đ3 Luật thương mại).



Thương mại dịch vụ (Cung ứng dịch vụ) là hoạt động thương mại, theo đó một
bên (gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác
và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh
toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận (K9 Đ3 Luật
thương mại).
Đối với hoạt động mua bán hàng hóa, có những thương nhân chuyên kinh doanh

mua bán hàng hóa và có những thương nhân đồng thời là nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ.
Vì vậy, pháp luật thương mại cũng có một số nội dung liên quan đến quá trình đầu tư sản
xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ như tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, quyền
sở hữu trí tuệ.
1.2.

Đặc điểm của hoạt động thương mại

Là một trong những hoạt động kinh doanh, hoạt động thương mại có những đặc điểm sau
đây:
 Chủ thể: Hoạt động thương mại là quan hệ giữa các thương nhân hoặc ít nhất
một bên là thương nhân, người thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại có tính
chất nghề nghiệp
Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Đ6 Luật thương
mại).

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

5


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN


NHÓM 6

Ngoài ra, tham gia vào các hoạt động thương mại còn có các cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh (Không phải là
thương nhân theo Luật thương mại)
 Mục đích của người thực hiện hoạt động thương mại: Lợi nhuận
 Nội dung của hoạt động thương mại: 2 nhóm hoạt động cơ bản là mua bán hàng
hoá và cung ứng dịch vụ (thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ). Ngoài ra, các
hình thức đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận cũng là những hoạt động thương mại.
2. Hoạt động thương mại nông thôn

Những hoạt động của hoạt động thương mại nông thôn

2.1.

2.1.1. Hoạt động đầu tư thương mại cho các xã nông thôn mới

Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020".
Nhằm thúc đẩy thương mại nông thôn ngày càng phát triển vững mạnh theo hướng văn
minh, hiện đại Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông
thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020” (số 23/QĐ-TTg, ngày
06/01/2010). Theo đó, từ nay đến năm 2020, sẽ có khoảng 9.126 tỷ đồng đầu tư phát triển
thương mại nông thôn với mục tiêu đến năm 2020, tất cả các xã đều có chợ đạt chuẩn theo
tiêu chí nông thôn mới; hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp và xây mới các chợ; 80% số thị
trấn có hình thức tổ chức phân phối quy mô nhỏ và vừa.
Đến năm 2011, quy hoạch phát triển hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn, trong đó có
quy hoạch chợ biên giới phải được hoàn thành. Đến năm 2015, 50% chợ biên giới, chợ
cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu được nâng cấp, cải tạo và xây mới. Theo đề án,
từ nay đến năm 2020, sẽ cải tạo, nâng cấp 142 chợ và xây mới 276 chợ biên giới, chợ cửa

khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu với tổng vốn đầu tư dự kiến là 1.534 tỷ đồng. Mục
tiêu phát triển thương mại nông thôn nhằm kích thích tiêu dùng và tăng nhanh sức tiêu thụ
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

6


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

hàng hoá trong nước. Do vậy, trong năm 2010, cơ bản hoàn thành việc rà soát, đánh giá
và tổ chức lại hợp tác xã thương mại ở địa bàn nông thôn. Để nhà đầu tư yên tâm đầu tư
lâu dài ở thị trường nông thôn, quy hoạch phát triển hạ tầng thương mại nông thôn (trọng
tâm là mạng lưới chợ) được ưu tiên số một. Các địa phương sẽ lập tức bắt tay thực hiện
quy hoạch phát triển hạ tầng cho thương mại nông thôn với tổng kinh phí dự kiến từ nay
đến năm 2011 là 31,5 tỷ đồng (mỗi tỉnh 500 triệu đồng).
Năm tiếp theo (2012), các chợ đầu mối nông sản sẽ được xây dựng xong tại các vùng sản
xuất hàng hoá tập trung như chợ lúa gạo ở Cần Thơ, chợ nông sản Nghệ An, Hải Dương,
chợ rau quả chất lượng cao ở Lâm Đồng… Đây là cơ sở để hình thành các trung tâm đấu
giá và sở giao dịch hàng nông sản. Đến năm 2020, với tổng số vốn đầu tư dự kiến là 6.040
tỷ đồng, các địa phương sẽ tiến hành cải tạo, nâng cấp 31 chợ và xây mới 82 chợ đầu mối
nông sản ở địa bàn nông thôn. Ngoài ra, sẽ xây dựng 3.000 chợ tại 3.000 xã chưa có chợ
từ nay đến năm 2020, với tổng vốn đầu tư dự kiến 1.500 tỷ đồng.
Đến năm 2015, 100% chợ trung tâm huyện được kiên cố hóa, 30% thị trấn có loại hình tổ
chức phân phối quy mô nhỏ và vừa; tỷ lệ hàng nông sản được tiêu thụ thông qua hợp
đồng chiếm từ 25 - 30%, đến năm 2020 là 45 - 50%. Ngoài ra, sẽ hình thành một sở giao
dịch gạo tại Cần Thơ, một sở giao dịch cà phê tại Đắc Lắk và một số trung tâm đấu giá
hàng nông sản vào năm 2020.
Đề án cũng đề cập khá đầy đủ các mô hình phát triển thương mại nông thôn như: Định

hướng phát triển thương mại nông thôn theo mô hình mạng lưới dân sinh trên địa bàn xã;
mạng lưới kinh doanh của cá nhân, hộ kinh doanh, hộ nông dân vừa sản xuất vừa kinh
doanh thương mại; mạng lưới kinh doanh của các hợp tác xã, cụm xã.
Cấu trúc thương mại trên địa bàn thị trấn, thị tứ bao gồm mạng lưới kinh doanh của doanh
nghiệp sản xuất – chế biến, lưu thông hàng hóa và các hợp tác xã, liên hiệp các hợp tác xã
thương mại có hệ thống chi nhánh, cửa hàng, cơ sở sơ chế, phân loại, bao gói; các xí
nghiệp, trạm trại sản xuất, hệ thống bến bãi, kho cơ sở và kho trung chuyển đặt tại các thị
trấn, thị tứ. Do đó mạng lưới khinh doanh của các hộ kinh doanh có quy mô hiện đại hơn,
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

7


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

sớm hơn hộ kinh doanh trên địa bàn xã. Mạng lưới chợ trung tâm huyện, chợ dân sinh và
một số loại hình phân phối khác được hình thành từng bước theo quy hoạch.
Ở vùng sản xuất nông sản tập trung hoặc ven đô tiếp tục được cải tạo, nâng cấp, xây mới
một số chợ đầu mối tổng hợp hoặc chuyên doanh tạo tiền đề hình thành các trung tâm đấu
giá và sở giao dịch hàng nông sản, đồng thời phát triển chợ trên sông, chợ biên giới, chợ
cửa khẩu, chợ khu kinh tế cửa khẩu.
Tại những vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, hình thành các kênh tiêu thụ cấp
độ lớn với sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn của nhà nước; doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thương mại, hộ kinh doanh, đại lý,
chợ đầu mối…
Tại những vùng sản xuất nông sản hành hóa chưa phát triển, phân tán vừa và nhỏ thì hàng
nông sản chủ yếu được tiêu thụ thông qua mạng lưới chợ, siêu thị, cửa hàng chuyên
doanh thị trấn, thị tứ; chợ dân sinh, cửa hàng tạp hóa ở địa bàn xã.

Tại các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, xây dựng mối liên kết kinh tế bền
vững giữa hộ nông dân, hợp tác xã thương mại với cơ sở sản xuất - chế biến, giữa cơ sở
sản xuất – chế biến với doanh nghiệp thương mại; xây dựng cơ chế để các hộ sản xuất và
xã viên hợp tác xã được mua cổ phần trong công ty cổ phần hoặc doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hóa.
Đối với vật tư nông nghiệp: Phát triển mạng lưới kinh doanh theo hướng củng cố, hoàn
thiện mạng lưới chợ tư liệu sản xuất, hệ thống phân phối, đại lý, cơ sở kinh doanh. Triển
khai xây dựng mô hình thí điểm cung ứng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp theo
hướng gắn với mô hình thí điểm tiêu thụ nông sản.
Đối với hàng nông nghiệp tiêu dùng thì căn cứ nhu cầu thị hiếu, và mức thu nhập của cư
dân nông thôn, thiết lập mạng lưới kinh doanh tiêu dùng với quy mô và phương thức hoạt
động phù hợp từng địa bàn; phát triển các chợ kinh doanh tổng hợp, hệ thống đại lý, cửa
hàng thương nghiệp tại các trung tâm cụm xã, cơ sở kinh doanh, hợp tác xã thương mại và
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

8


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

hộ kinh doanh. Từng bước phát triển chuỗi cửa hàng tiện lợi, siêu thị, trung tâm thương
mại trong quá trình cải tạo mạng lưới chợ truyền thống ở nông thôn, thị trấn, thị tứ.
Phát triển chợ trên địa bàn nông thôn vùng đồng bằng: Di dời, cải tạo, nâng cấp và xây
mới các chợ dân sinh. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng hoặc xây mới các chợ tổng hợp bán
buôn, bán lẻ tại trung tâm kinh tế huyện. Tập trung xây dựng chợ đầu mối bán buôn nông
sản quy mô lớn tại các vùng sản xuất hàng hóa tập trung của vùng và tỉnh.
Đối với nông thôn trung du, miền núi: Ngoài định hướng phát triển chợ đầu mối nông sản
tại các vùng sản xuất tập trung, chợ dân sinh địa bàn xã và trung tâm huyện, chú trọng

nâng cấp, cải tạo và xây mới chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ nằm trong khu kinh tế cửa
khẩu.
Tất cả các dự án đầu tư hạ tầng thương mại trên địa bàn nông thôn đều được hưởng chính
sách ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 29/09/2006 của
Chính phủ, được vay tín dụng đầu tư nhà nước theo quy định tại Nghị định số
151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất
khẩu và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/09/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số Điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP.
Đề án Phát triển thương mại nông thôn đang mở ra một bức tranh thương mại nông thôn
hiện đại, gắn kết thương mại với sản xuất, đặt hàng cho sản xuất. Đề án đầu tư cải thiện
một bước quan trọng cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn theo hướng hiện đại đáp ứng
hội nhập quốc tế và khai thác tiềm năng các vùng kinh tế, các đầu mối thương mại nội
quốc và xuất khẩu.


Ví dụ tỉnh Ninh Bình

Từ năm 2010 đến nay, đã có 61/85 chợ đạt tiêu chí nông thôn mới, chiếm 71,8% tổng số
chợ nông thôn trên địa bàn . Hầu hết các chợ được đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp với
tổng số vốn khoảng 110 tỷ đồng bằng nguồn trái phiếu Chính phủ, ngân sách tỉnh, ngân
sách huyện và các nguồn vốn khác. Riêng năm 2017, toàn tỉnh có 19 xã đăng ký đạt
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG

9


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6


chuẩn NTM thì có 5 chợ được hỗ trợ đầu tư nâng cấp, cải tạo, xây mới với tổng mức đầu
tư trên 6 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách tỉnh hỗ trợ 5,5 tỷ đồng; còn lại được huy động từ
các nguồn vốn khác.
Bên cạnh đó, Sở cũng lồng ghép nguồn trong chương trình xúc tiến thương mại để hỗ trợ
cho một số chợ nông thôn trên địa bàn tỉnh xây dựng các hạng mục đảm bảo an toàn thực
phẩm. Đến nay đã hỗ trợ đầu tư cho 2 chợ, tổng số vốn hỗ trợ là 221 triệu đồng.
Để tiêu chí số 7 thực sự mang lại hiệu quả cho các địa phương, tỉnh đã ban hành Quy định
về quy trình chuyển đổi mô hình quản lý, kinh doanh khai thác chợ trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình và Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 5/5/2014 về việc phê duyệt mô hình chợ đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh, Sở Công thương đã phối hợp với các cấp,
các ngành liên quan triển khai công tác an toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn, nhất là
công tác thiết kế chợ cho phù hợp quy định và thói quen tiêu dùng của người dân nông
thôn, bố trí quầy hàng trong chợ, công tác đảm bảo an toàn vệ sinh, phòng chống cháy
nổ...
Trong thời gian tới, để hoàn thành tiêu chí số 7, các cấp, các ngành chức năng trong tỉnh
cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để mọi người hiểu rõ mục tiêu của việc xây
dựng và hoàn thành tiêu chí là đóng góp vào sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc
phòng-an ninh theo hướng bền vững gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao thu nhập và đời
sống của nhân dân, dân làm, dân thụ hưởng, người dân là chủ thể trong xây dựng NTM.
Đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền từ huyện đến xã cần phải chủ động triển khai thực
hiện, xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện cụ thể cho từng giai đoạn, phù hợp với điều
kiện thực tế của địa phương.
2.1.2. Hoạt động đầu tư đội ngũ cán bộ

Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý HTX thương mại dịch vụ, cán bộ ban quản lý
chợ và lao động nông thôn tham gia kinh doanh thương mại, có chính sách hỗ trợ nông
dân nâng cao chất lượng, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm. Đối tượng hỗ trợ là những sản
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 10



PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

phẩm đã được bình chọn, đáp ứng các tiêu chí cơ bản về chất lượng, tính đặc trưng, có giá
trị đặc biệt trên thị trường và mang lại giá trị kinh tế cao cho người sản xuất và có khả
năng sản xuất với khối lượng lớn như rau sạch, hoa cao cấp, gạo Séng Cù, lúa hương
thơm, tương ớt Mường Khương và sản phẩm thổ cẩm các loại. Đổi lại, người dân sẽ được
các nhà phân phối đưa những mặt hàng sản xuất trong nước đến tận nơi có nhu cầu với
giá hợp lý và thanh toán thuận tiện nhất.
Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thương mại nông thôn

2.2.

2.2.1. Các nhân tố khách quan


Môi trường văn hóa xã hội

Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ giữa người mua và người
bán. Như vậy, ta phải nghiên cứu khách hàng và túi tiền của họ để đưa ra một cách chính
xác về sản phẩm và cách thức phục vụ khách hàng. Ở đây nó bao gồm các nhân tố như về
dân số, thu nhập… Từ đó xem xem nó ảnh hưởng đến haojt động thương mại của nông
thôn như thế nào.


Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thương mại ở nông thôn. Kinh
tế ổn định sẽ làm như cầu tăng lên. Cơ sở vật chất nông thôn còn yếu kém, dân trí chưa

phát triển theo kịp với yêu cầu của thị trường vì vậy sưc hấp dẫn của nông thôn đối với
nhà đầu tư trong và ngoài nước thấp, do đó có thể nông thôn sẽ càng có nguy cơ tụt hậu
so với thành thị.


Cung cầu hàng hóa trên thị trường

Đây là yếu tố ảnh hưởng đối với giá cả hàng hóa, nếu cung hàng hóa trên thi trường
tiêu thụ tăng sẽ ảnh hưởng tiêu cực và ngược lại nếu cung hàng hóa giảm sẽ kích thích
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 11


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

khả năng tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp sẽ tăng lên và nếu nược lại sẽ gây ảnh
hưởng xấu đến doanh nghiệp và họat động thương mại nông thôn.


Đối thủ cạnh tranh

Đó là đối thủ cạnh tranh có mặt hàng giống như mặt hàng của doanh nghiệp hoặc các ,mặt
hàng thay thế nhau:
Đưa ra sản phẩm, dịch vụ cho cùng một khách hàng ở cùng một mức giá tương tự.
Cùng kinh doanh một hay một số sản phẩm.
Cùng hoạt động trên một lĩnh vữ nào đó.
Cùng cạnh tranh để kiếm lời của một nhóm hàng nhất định.
2.2.2. Các nhân tố chủ quan
• Tiềm lực tà chính






Nền kinh tế của nông thôn còn yếu kém. Nhưng nguồn vốn lại là sức mạnh của quá
trình tra đổi trong hoạt động thương mại. Do vậy, việc huy động nguồn vốn vào kinh
doanh, khả năng phân phối, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh đề
ảnh hưởng đến hoạt động thương mại. Nông thôn muốn mở rộng kinh doanh, tăng khả
năng bán hàng thì phải có tiền để đầu tư vào các khâu, lựa chọn đầu tư vào việc cho chiến
lược phát triển hoạt động thương mại.


Tiềm năng con người

Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng cơ hội và sử dụng sức
mạnh khác của họ một cách hiieju quản để khai thác và vượt qua cơ hội kinh doanh.
Chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực đó là sự chủ động phát triển sức mạnh
con người của doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, cạnh tranh và thích nghi
với điều kiện thị trường. Con người còn có vai trò quyết định đến việc tổ chức và quản lý
để quyết định đến sự thành công về hoạt động thương mại của nông thôn.


Tiềm lực vô hình

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 12


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN


NHÓM 6

Sức mạnh về tài sản vô hình thể hiện: Hình ảnh và uy tín của việc trao đổi mua bán.
Một hình ảnh tốt liên quan đến hàng hóa, dịch vụ, chất lượng sản phẩm,… là cơ sở tạo ra
sự quan tâm của khách hàng, kích thích khách hàng đến mua sản phẩm.
Mức độ nổi tiếng cả nhãn hiệu: Một nhãn hiệu được ưa chuộng thì sẽ thu hút được
khách hàng đến mua và trung thành với nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp.
Uy tín là mối quan hệ lãnh đạo của doanh nghiệp: Nó ảnh hưởng đến giao dịch thương
mại, trong các hoạt động lớn, trong doanh nghiệp bán hàng ở các doanh nghiệp nhỏ.


Khả năng kiểm soát, chi phối độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hóa của
doanh nghiệp

Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến hoạt
động kinh doanh thương mại. Sự thay đổi quá mức ở “đầu vào” ảnh hưởng đến “giá đầu
vào” “chi phí” “khối lượng cung cấp” “thời điểm giao hàng”.

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 13


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

Phần II. Thực trạng của hoạt động thương mại đối với phát triển nông thôn
Việt Nam
1. Thực trạng hoạt động thương mại đối với sự phát triển nông thôn Việt Nam

Hợp tác xã nông nghiệp đơn vị kinh tế tập thể cơ sở có chức năng hoạt động dịch vụ

hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên và kinh doanh trong mọi lĩnh vực sản xuất chế biến,
tiêu thụ nông sản… sau những năm chuyển đổi với các mức độ khác nhau đã tổ chức một
số hoạt động dịch vụ chủ yếu. Tuy nhiên các loại hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã trong
cả nước rất khác nhau. Số lớn các hợp tác xã chỉ hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và gần
như bắt buộc vỡi những công trình có giá trị lớn như thủy lợi, điện. Những dịch vụ mà thị
trường cạnh tranh như vật tư nông nghiệp, thương mại tiêu thụ nông sản thì thấp hơn rất
nhiều, thậm chí nhiều địa phương các hợp tác xã không đủ điều kiên để tổ chức hoạt động
dịch vụ này. Phần lớn các hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã nông nghiệp mang tính phục
vụ hạch toán kinh doanh còn ít. Cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện quan trọng cho mức
độ và chất lượng trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu
cầu của hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là trong điều kiện của công nghiệp
hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Những vấn đề đang đặt ra là phải tiếp tục hoàn
thiện nâng cao bổ sung và tổ chức lại các hệ thống dịch vụ cho phát triển nông nghiệp
nông thôn. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp
cũng như tổ chức công tác nghiên cứu khoa học cho dịch vụ sản xuất nông nghiệp cả về
phương diện lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế.
Trong hoạt động thương mại ở địa bàn nông thôn, việc tổ chức mạng lưới kinh doanh
(MLKD) giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Một mặt, MLKD bảo đảm cung ứng các nguyên
liệu, vật tư, các công cụ lao động cần thiết cho nông nghiệp và các hoạt động sản xuất
khác ở khu vực nông thôn, cũng như cung ứng các loại hàng công nghiệp tiêu dùng. Mặt
khác, MLKD bảo đảm tiêu thụ các loại nông sản hàng hoá và các sản phẩm hàng hoá
khác của khu vực kinh tế nông thôn, tạo tiền đề để khu vực kinh tế này phát triển, góp
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 14


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

phần quan trọng đưa nền nông nghiệp nước ta trở thành một nền nông nghiệp sản xuất

hàng hoá, bảo đảm cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phát triển, có
sức cạnh tranh cao, và thông qua đó nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn. Việc tổ
chức tốt MLKD ở thị trường nông thôn, theo nghĩa rộng, bao gồm cả hoạt động nhập
khẩu các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp, xuất khẩu nông sản và các sản phẩm hàng hoá
khác của nông thôn và các dịch vụ có liên quan, sẽ làm cho nền sản xuất nông nghiệp,
kinh tế nông thôn nói chung và cả công nghiệp chế biến nông sản trở nên năng động, đáp
ứng được yêu cầu của hội nhập.
Địa bàn nông thôn là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước,
cho xuất khẩu và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Nông thôn cũng là nơi
tiêu thụ nhiều vật tư nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Thực tế, thu nhập của các hộ gia đình
ở một số khu vực nông thôn tăng lên đáng kể so với vài năm trước do sự phát triển sản
xuất các sản phẩm nông, ngư nghiệp cho xuất khẩu và thu nhập từ tiền đền bù đất nông
nghiệp để phục vụ quá trình đô thị hóa. Vì thế, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của khu vực này
là rất lớn. Nhiều hộ gia đình nông thôn hiện nay, đặc biệt là các hộ ở khu vực làng nghề,
ngoại vi các thành phố lớn, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu tập trung như đồng bằng
sông Cửu Long, không chỉ có nhu cầu về những mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống mà còn
về các mặt hàng cao cấp hơn. Qua đó, có thể nhìn nhận đây là thị trường có tiềm năng rất
lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển mạng lưới phân phối hàng hóa, nhất là các
mặt hàng thiết yếu.
Việc tổ chức mạng lưới kinh doanh theo ngành hàng trên địa bàn nông thôn phụ thuộc
chủ yếu vào chủ thể kinh doanh và cơ sở kinh doanh thương mại.


Về Chủ thể kinh doanh: Hình thành nên mạng lưới kinh doanh thương mại ở thị trường
nông thôn hiện nay bao gồm sự hiện diện của tất cả các loại hình: các doanh nghiệp Nhà
nước (cả sản xuất và thương mại), các hợp tác xã thương mại, hợp tác xã nông nghiệp, các

công ty cổ phần, công ty TNHH các doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể.
• Về cơ sở kinh doanh: đó là hệ thống chợ và các cửa hàng, các điểm bán lẻ. Chợ đã trở
thành nơi giao dịch trao đổi mua bán quan trọng thường nhật các hàng nông sản thực

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 15


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

phẩm, hàng tiêu dùng và cả một số vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất của tuyệt đại đa
số hộ gia đình, nhất là vùng nông thôn miền núi. Từ khi có Nghị định 02/2003/NĐ-CP
ngày 14/01/2003 về phát triển và quản lý chợ đến cuối năm 2010, cả nước đã xây mới
được 1.449 chợ và cải tạo nâng cấp được 1.874 chợ, nâng tổng số chợ lên trên 8.528 chợ,
trong đó chợ nông thôn chiếm khoảng 77,8%.
Các cửa hàng, các điểm mua bán của DNNN, của doanh nghiệp tư nhân, của hộ kinh
doanh được bố trí ở các thị trấn, thị tứ, trên các trục đường giao thông của các thôn, xã là
những chủ thể nòng cốt trong việc thu gom, tập trung nông sản để cung ứng cho công
nghiệp chế biến, thị trường thành thị, thị trường xuất khẩu và các cơ sở này cũng là đầu
mối cung ứng vật tư nông nghiệp, hàng tiêu dùng thiết yếu để bán lẻ đến các hộ nông dân.
Sự phát triển nhanh và đa dạng của loại hình cửa hàng bán lẻ tư nhân trên địa bàn nông
thôn đã góp phần thúc đẩy và đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của dân cư nông thôn về
khối lượng, cơ cấu chủng loại, qui cách mẫu mã của hàng hóa tiêu dùng.
Các loại hình bán lẻ trên thị trường nông thôn đang phát triển ngày càng đa dạng.
Các loại hình bán lẻ truyền thống ở nông thôn bước đầu đã có sự cải tiến trên cơ sở vận
dụng những phương thức bán hàng hiện đại.
Kết cấu hạ tầng bán lẻ trên địa bàn nông thôn chủ yếu vẫn là chợ và cửa hàng tư
nhân. Trong hơn thập kỷ qua, chợ nông thôn đã tăng nhanh về số lượng và đã được chú
trọng đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, công tác phát triển và quản lý cơ sở hạ tầng
thương mại nông thôn tại các địa phương đã nhận được sự quan tâm đầu tư xây dựng,
nâng cấp. Nhờ vậy, cơ bản đáp ứng được nhu cầu mua - bán, trao đổi hàng hóa, phục vụ
đời sống nhân dân vùng nông thôn.

 Việc thúc đầy hoạt động thương mại còn gặp khó khăn về huy động vốn

Quyết định số 4800/QĐ-BCT ngày 8/2/2016 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc
hướng dẫn thực hiện và xét công nhận tiêu chí cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (tiêu
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 16


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

chí số 7) được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước tại
địa phương đánh giá xã đạt tiêu chí cụ thể, rõ ràng hơn. Trên cơ sở này, một số Sở Công
Thương đã tham mưu cho UBND tỉnh/thành phố ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết
các xã trên địa bàn thực hiện tiêu chí số 7, rà soát lại toàn bộ hệ thống chợ, siêu thị mini,
cửa hàng tiện lợi…, bảo đảm cho việc thẩm định, xét công nhận được chính xác và khách
quan.
6 tháng đầu năm 2017, các tỉnh/thành phố đã đầu tư xây mới, nâng cấp, cải tạo cơ sở
hạ tầng thương mại nông thôn với nguồn kinh phí khoảng 5.838 tỷ đồng. Đồng thời, với
sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, hợp tác xã quản lý, phát triển chợ, việc trao
đổi, mua - bán hàng hóa tại các chợ đã góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại, đáp ứng
đầy đủ nhu cầu của người dân nông thôn.
Sau khi rà soát, đánh giá, thẩm định xét công nhận tiêu chí đạt chuẩn theo hướng dẫn
của Bộ Công Thương tại Quyết định số 4800/QĐ-BCT, số liệu thống kê cho thấy, hiện
nay, cả nước có 4.276 xã (48,018%) đạt tiêu chí số 7, tăng 2,16% so với đầu năm 2017.
Một số tỉnh/thành phố có số xã đạt chuẩn tiêu chí số 7 đạt tỷ lệ cao so với tổng số xã trên
địa bàn là: TP. Hồ Chí Minh (100%), Đà Nẵng (100%), Bắc Ninh (97,938%), Thừa Thiên
Huế (99,038%).
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới của Bộ Công Thương (Ban Chỉ đạo), việc đánh giá xét công

nhận tiêu chí số 7 theo Quyết định số 4800/QĐ-CT đã được triển khai, song đến nay, một
số tỉnh/thành phố vẫn khó khăn trong việc rà soát, tổng hợp dữ liệu báo cáo. Công tác đầu
tư xây dựng chợ nông thôn triển khai thực hiện chậm do hiệu quả đầu tư thấp, khả năng
huy động sức dân đóng góp rất hạn chế, ngân sách địa phương không có nguồn kinh phí
để hỗ trợ đầu tư xây dựng chợ. Bên cạnh đó, một số địa phương không có quỹ đất công,
khi xây dựng chợ phải thực hiện giải phóng mặt bằng nhưng việc giải tỏa, di dời các hộ
dân rất khó khăn, phức tạp.

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 17


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định về an toàn thực
phẩm tại các chợ còn hạn chế do nhân lực quá ít, cán bộ tuyến xã, phường kiêm nhiệm
nhiều chương trình cùng lúc và phần đông chưa đào tạo nghiệp vụ quản lý chất lượng, an
toàn, vệ sinh thực phẩm, thiếu tính hệ thống, chưa thực sự gắn kết để phối kết hợp triển
khai thực hiện.
Nhận thức của một bộ phận trong ban quản lý chợ và bà con tiểu thương kinh doanh
trong chợ còn hạn chế, không muốn thay đổi, sợ mất quyền lợi, do đó đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến công tác chuyển đổi hình thức quản lý kinh doanh, khai thác chợ. Công tác
giải tỏa tụ điểm kinh doanh tự phát trên địa bàn chưa đạt yêu cầu đề ra, việc tái lấn chiếm
sau khi giải tỏa vẫn còn xảy ra. Tại các vùng sâu, vùng xa rất khó huy động vốn của các
thành phần kinh tế ngoài nhà nước, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho công tác
phát triển cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (nhất là chợ) còn nhiều hạn chế... Vì vậy,
việc đầu tư, nâng cấp chợ bị chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu, kế hoạch của địa phương.
Nằm trong đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định
hướng đến năm 2020”, từ năm 2012 đến năm 2015, việc ký kết hợp đồng tiêu thụ nông

sản giữa các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp về phát
triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn chế biến và tiêu thụ nông sản đã được triển khai. Nổi
bật là mô hình liên kết sản xuất giống và tiêu thụ lạc giữa doanh nghiệp An Trường Lộc
(thị trấn Vĩnh Lộc, Chiêm Hóa) và Công ty TNHH Một thành viên MITRACO (tỉnh Hà
Tĩnh) với người dân và HTX Nông lâm nghiệp Phúc Sơn; Mô hình liên kết trồng lúa chất
lượng (giống BG1) giữa Trung tâm Khuyến nông tỉnh với Công ty cổ phần Giống cây
trồng Bắc Giang và UBND xã Tân Trào (Sơn Dương); Mô hình liên kết trồng ngô ngọt
giữa Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Ninh Bình) với Trạm Khuyến
nông (Sơn Dương) và UBND tại 5 xã: Lâm Xuyên, Hồng Lạc, Sầm Dương, Đông Thọ,
Hợp Hòa (Sơn Dương); Mô hình liên kết cấp giống vật tư, thu mua mía cho nông dân với
Công ty cổ phần Mía đường Sơn Dương (Sơn Dương).

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 18


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

Nhằm quảng bá các mặt hàng trong nước sản xuất, hoạt động tổ chức các phiên chợ
bán lẻ hàng Việt, đưa hàng Việt về các xã vùng sâu, vùng xa đã đem lại hiệu quả lớn. Từ
đầu năm đến nay, Trung tâm Xúc tiến đầu tư tỉnh đã phối hợp với các huyện Chiêm Hóa,
Nà Hang và Lâm Bình tổ chức 4 phiên chợ bán lẻ hàng Việt và Chương trình đưa hàng
Việt về nông thôn. Qua các phiên chợ, doanh nghiệp có điều kiện nghiên cứu nhu cầu, tập
quán, khả năng tiêu dùng của người dân, đặc biệt dân nông thôn để điều chỉnh sản xuất, tổ
chức kênh phân phối phù hợp, nâng cao thị phần tại thị trường nông thôn. Còn người tiêu
dùng nông thôn thì được tiếp cận nguồn hàng hóa chất lượng cao do các doanh nghiệp
Việt Nam sản xuất, với giá cả phù hợp, từ đó tạo tâm lý ưa chuộng sử dụng hàng Việt
trong cộng đồng.
Cùng với đó, mô hình thí điểm “Tự hào hàng Việt Nam” đã được triển khai tại Cửa

hàng thương mại Sơn Dương (Siêu thị Công ty cổ phần Khoáng sản Tuyên Quang) và
Cửa hàng thương mại thôn Cây Chanh 2, xã Đức Ninh (Hàm Yên). Hai mô hình thí điểm
này nhằm góp phần phát triển hệ thống phân phối theo các chuỗi liên kết: Sản xuất - phân
phối - tiêu dùng, với các loại hàng hóa phong phú, đa dạng chất lượng cao sản xuất trong
nước. Từ mô hình thí điểm rút ra kinh nghiệm để triển khai trong thời gian tới, hướng tới
thực hiện trên địa bàn các huyện khác trong tỉnh.
Có thể khẳng định, hàng loạt các “gói kích cầu” đã được triển khai trên địa bàn tỉnh
trong thời gian qua, đã góp phần hướng hoạt động thương mại dịch vụ về với khu vực
nông thôn. Với nhu cầu lớn từ người tiêu dùng, thị trường nông thôn đang dần là “miếng
bánh ngọt” mà nhiều doanh nghiệp hướng tới.
Nhằm thúc đẩy thương mại nông thôn ngày càng phát triển vững mạnh theo hướng
văn minh, hiện đại Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông
thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020” (số 23/QĐ-TTg, ngày
06/01/2010). Theo đó, từ nay đến năm 2020, sẽ có khoảng 9.126 tỷ đồng đầu tư phát triển
thương mại nông thôn với mục tiêu đến năm 2020, tất cả các xã đều có chợ đạt chuẩn theo

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 19


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

tiêu chí nông thôn mới; hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp và xây mới các chợ; 80% số thị
trấn có hình thức tổ chức phân phối quy mô nhỏ và vừa.
2. Vai trò của hoạt động thương mại đối với sự phát triển nông thôn Việt Nam


Đẩy mạnh hoạt động thương mại ở nông thôn với vấn đề thúc đẩy phân công lao
động đã tạo công ăn việc làm cho người dân giúp cho thu nhập của người dân được

cải thiện.

Tạo thêm việc làm và thúc đẩy thực hiện phân công lao động tại chỗ: chuyển lao động
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có năng suất và thu nhập thấp sang lĩnh vực công
nghiệp có năng suất và thu nhập cao hơn. Qua đó, thực hiện phương châm “rời ruộng
không rời làng” (ly nông bất ly hương). Mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông
thôn đã đạt 24,4 triệu đồng/năm (tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010)


Đẩy mạnh hoạt động thương mại ở nông thôn đã giúp cho tỷ trọng nông nghiệp
tăng

Tỷ trọng nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,0-4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng
lương thực có hạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khảng 16-17%, tỷ
trọng nghành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%.
Thuỷ sản đạt sản lượng 3, 0-3, 5 triệu tấn (trong đó 1/ 3 là sản lượng nuôi trồng. Kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ, sản đạt 9 - 10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3, 5 tỷ
USD. ” Đứng trước tình hình đó hiện nay Việt nam là 1 nước đang phát triển với nền
nông nghiệp lúa nước lâu đời. Để thực hiện tốt những yêu cầu cũng như những định
hướng trên, Đảng và Nhà nước đã đề ra kế hoạch thực hiện cho việc phát triển ngành
nông nghiệp là tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên 1 trỡmh độ mới bằng việc ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học đổi mới cây trông vật nuôi, tăng giá trị thu đước
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 20


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6


trên đơn vị diện tích, quy hoạch sử dụng đất hợp lý đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá
điện khí hoá giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản phẩm, phát triển kết cấu hạ tầng công
nghiệp dịch vụ chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm mới và cải thiện đới sống
nông dân và dân cư nông thôn. Vì thế vai trò của thương mại nông nghiệp nông thôn rất
quan trọng. Đây là tiền đề tạo cơ sở cho kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển.


Góp phần thúc đẩy cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng ở
nông thôn, trước hết là hệ thống giao thông, mạng lưới điện, cấp và thoát nước.



Góp phần tích cực thúc đẩy tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng
hóa tập trung, tạo nên một đội ngũ nông dân lao động công nghiệp như của các
công ty Vinamilk, Mía đường Lam Sơn, Bảo vệ Thực vật An Giang…



Trực tiếp tham gia tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp góp phần nâng
cao giá trị gia tăng, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.



Nhiều doanh nghiệp đã đóng vai trò trung tâm trong tổ chức sản xuất theo chuỗi
giá trị, xác định thị trường,… Chính điều này cũng giúp tác động đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thu hút lao động chuyển dịch cơ cấu
lao động từ lĩnh vực nông, lâm, thủy sản sang công nghiệp, dịch vụ.

3. Tác động của hoạt động thương mại đối với sự phát triển nông thôn Việt Nam

3.1.

Tích cực

3.1.1. Đối với kinh tế

Tác động đến tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực, theo hướng nâng cao dần tỷ trọng ngành
nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản.

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 21


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng giá
trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Mức tăng trưởng
của nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP đã giảm dần từ 3,44% (năm 2014) xuống
còn 1,36% (năm 2016). Điều này là phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nguồn: Tổng cục thống kê ( năm 2014,2015,2016)
Trong mức tăng 6,21% của toàn nền kinh tế (năm 2016), khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 1,36%, thấp nhất kể từ năm 2011 trở lại đây, đóng góp 0,22 điểm phần trăm
vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,57%, thấp hơn mức tăng
9,64% của năm trước, đóng góp 2,59 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,98%, đóng
góp 2,67 điểm phần trăm.
Trong năm 2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp có mức tăng

cao nhất với 6,11%, nhưng do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm
vào mức tăng chung; ngành nông nghiệp với quy mô trong khu vực lớn nhất (khoảng 75%)
chỉ tăng thấp ở mức 0,72%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,80%,
đóng góp 0,09 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm nay gặp nhiều
khó khăn do diễn biến bất lợi của thời tiết, rét đậm, rét hại đầu năm tại các tỉnh miền Bắc và
Bắc Trung Bộ; hạn hán, xâm nhập mặn tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; liên tục những đợt lũ trong các tháng cuối năm tại
các tỉnh miền Trung và sự cố môi trường biển xảy ra cuối tháng Tư tại vùng biển các tỉnh
Bắc Trung Bộ đã gây ảnh hưởng lớn tới kết quả sản xuất của khu vực này.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2014-2016
Tốc độ tăng so với năm trước (%)

Đóng góp của các khu

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 22


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

Năm
2014

Năm
2015

Năm
2016


vực vào tăng trưởng
năm 2016 (Điểm %)

Tổng số

5,98

6,68

6,21

6,21

Nông, lâm nghiệp, thủy sản

3,44

2,41

1,36

0,22

Công nghiệp và xây dựng

6,24

9,64


7,57

2,59

Dịch vụ

6,16

6,33

6,98

2,67

Nguồn: Tổng cục thống kê
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016 theo giá so sánh 2010 ước tính
đạt 870,7 nghìn tỷ đồng, tăng 1,44% so với năm 2015, bao gồm: Nông nghiệp đạt 642,5
nghìn tỷ đồng, tăng 0,79%; lâm nghiệp đạt 28,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,17%; thủy sản đạt
200 nghìn tỷ đồng, tăng 2,91%.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dần sang các hoạt động phi nông, lâm nghiệp và thủy
sản thể hiện trước hết ở sự chuyển dịch cơ cấu hộ. Năm 2016, khu vực nông thôn có 8,58
triệu hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 53,7% tổng số hộ, giảm 8,5 điểm phần trăm
so với năm 2011; 6,4 triệu hộ phi nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 40,0% tổng số hộ
và tăng 6,6 điểm phần trăm; 1,01 triệu hộ khác, chiếm 6,3%, tăng 1,9 điểm phần trăm.
Phân bổ lao động làm việc trong những năm vừa qua cũng thể hiện việc cơ cấu lại kinh tế
nông thôn theo hướng nâng cao tỷ trọng khu vực phi nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tại
thời điểm 01/7/2016, trên địa bàn nông thôn có 15,94 triệu người trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động hoạt động chính là sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm
51,4% tổng số lao động nông thôn, giảm 8,2 điểm phần trăm so với năm 2011; 14,21 triệu
người hoạt động chính trong các ngành nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm

45,8% tổng số lao động và tăng 6,9 điểm phần trăm; 0,87 triệu người không hoạt động
kinh tế, chiếm 2,8%, tăng 1,3 điểm phần trăm.

ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 23


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn còn thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu hộ theo thu nhập.
Tại thời điểm 01/7/2016 có 7,66 triệu hộ có thu nhập lớn nhất từ nông, lâm nghiệp và thủy
sản trong 12 tháng qua, chiếm 47,9% tổng số hộ nông thôn, giảm 9,1 điểm phần trăm so với
năm 2011; 7,07 triệu hộ có thu nhập lớn nhất từ hoạt động phi nông, lâm nghiệp và thủy sản,
chiếm 44,2% và tăng 7,5 điểm phần trăm; 1,25 triệu hộ có thu nhập lớn nhất từ các nguồn
khác, chiếm 7,9%, tăng 1,7 điểm phần trăm.
Tác động đến tỷ lệ hộ nghèo
Nhà nước áp dụng chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2011-2015. Mức chênh lệch chuẩn
nghèo vùng nông thôn của giai đoạn 2006-2010 và giai đoạn 2011-2015 từ dưới 200.000
lên mức dưới 400.000 đồng/người/tháng, trong khi mức tăng tỷ lệ nghèo giữa 2 giai đoạn
này là hơn 50%. Chính sách an sinh xã hội được thực hiện cơ bản đồng bộ, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân và các đối tượng chính sách của xã hội tiếp tục được
chăm lo. Nhiều chương trình, chính sách đã đi vào cuộc sống như chương trình giảm
nghèo bền vững cho 62 huyện nghèo; chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các xã
đặc biệt khó khăn ở khu vực dân tộc thiểu số và miền núi; phong trào cả nước chung tay
vì người nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau;… Ước tính năm 2017 tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giảm khoảng 1 - 1,5% so với cuối năm 2016. Những con
số đáng khích lệ trên là kết quả của việc thực hiện tốt các chương trình phát triển nông
thôn, việc hỗ trợ về nguồn lực sản xuát đã làm tăng thu nhập và giảm chi phí cho người
nông dân, giúp người nông dân tăng thu nhập, từ đó thoát nghèo thành công và bền vững.

3.1.2. Đối với xã hội

Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân trong xã,
thông qua các chương trình đầu tư trên địa bàn xã, cơ sở hạ tầng được xây dựng, hệ thống
giao thông được cải thiện, các tuyến đường liên thôn được mở rộng, bê tong hóa, các bản
được đầu tư xây dựng nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, thư viện. Nhờ đó, các hoạt
động tập thể ngày càng diễn ra phong phú và sôi nỗi , các phong trào quần chúng, thể dục
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 24


PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NHÓM 6

thể thao như bóng chuyền, bóng bàn, cầu long, bóng đá được phát triển, phục vụ nhu cầu
giải trí, rèn luyện của người dân.
Các khóa tập luyện về kinh nghiệm sản xuất cũng được mở nhiều hơn, tại đó, người dân
có thể trao đổi và học hỏi kinh nghiệm, làm thu hẹp khoảnh cách giữa mọi người. Người
dân được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, thu nhập dần tăng lê, đồng nghĩa với việc
các loại hình dịch vụ cũng được sử dụng nhiều hơn, tiếp cận lối sống văn minh, hiện đại.
Tác động đến việc làm cho người lao động
Việt Nam là một đất nước có khoảng 70% dân số sinh sống ở nông thôn, lao động ở
nông thôn cũng chiếm gần 70% lực lượng lao động của cả nước. Mặc dù trong những
năm qua, xu hướng đô thị hóa đang gia tăng, nhưng theo Tổng cục Thống kê, "đến năm
2014, có 69,3% lực lượng lao động nước ta tập trung ở nông thôn" 1. Trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Điều đó được thể hiện ở nhiều chính sách như chính sách đất đai, chính sách tín dụng
nông thôn, chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và đa dạng
hoá sản phẩm nông nghiệp, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông
thôn... Với mục tiêu phát huy tốt vai trò của người dân trong các chương trình phát triển

nông thôn, người dân có được việc làm bằng cách tham gia tích cực vào việc học thực
hiện các dự án, các công trình. Các chương trình hỗ trợ vốn, giống cây trồng, vật nuôi, đã
tạo cho người dân công ăn việc làm. Công tác đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn
thực sự là một trong những bước đột phá đáng kể trong việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ở nông thôn. Trước đây, người lao động ở nông thôn hầu như không được đào
tạo, họ chủ yếu chỉ lao động bằng kinh nghiệm cá nhân, không có nhiều điều kiện tiếp cận
với những kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất nên hiệu quả sản xuất không cao, lao động
manh mún, nhỏ lẻ. Ngày nay, nhờ có công tác đào tạo nghề, một bộ phận không nhỏ lao
động nông nghiệp đã có thể tiếp cận được với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, có định
hướng phát triển nghề nghiệp, sản xuất theo hướng bền vững. Đây là một bước đột phá
trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở nước ta thời gian qua.
ĐH KINH TẾ - ĐH ĐÀ NẴNG 25


×