Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

CẢM HỨNG THẾ sự TRONG TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY tốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.14 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Nếu ở giai đoạn trước, cảm hứng yêu nước, cảm hứng sử thi… là cảm hứng
chủ đạo của các nhà văn trước buổi bình minh của tiến trình hiện đại hóa văn học,
thì với văn học giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, các nhà văn đã bắt đầu
hướng cái nhìn, sự quan tâm của mình nhiều hơn đến hiện thực cuộc sống, họ bắt
đầu nói nhiều hơn, suy ngẫm nhiều hơn về những giá trị đạo đức, nhân cách sống
của con người.
Có thể nói, vấn đề thế sự là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của độc
giả, bởi lẽ đó là những gì gần gũi, gắn bó với đời sống con người. Đặc biệt là đối
với những người cầm bút, bởi họ là những người có tâm hồn nhạy cảm trước thời
cuộc và bởi để tạo nên những tác phẩm có giá trị lớn thì tác phẩm đó phải mang
tính hiện thực xã hội, gẫn gũi với thực tế cuộc sống và phản ánh chân thực những
vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống của con người. Văn học giai đoạn này đã đạt
được nhiều thành tựu với những cây bút xuất sắc như Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy
Tốn, Nguyễn Bá Học, Đặng Trần Phất…
Trong số những nhà văn đó, Phạm Duy Tốn là nhà văn tiên phong của nền
văn học mới đầu thế kỉ XX. Ông viết văn không nhiều. Toàn bộ văn nghiệp chỉ để
lại có bốn truyện ngắn, nhưng ông vẫn được đánh giá là một nhà văn có ảnh hưởng
quan trọng đối với văn học Việt Nam trong thời kì đầu hiện đại hóa. Đối với truyện
ngắn của ông, cảm hứng thế sự là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo
nên thành công cho tác phẩm. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Cảm hứng thế sự
trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn để khám phá những giá trị về nội dung trong
các sáng tác của Phạm Duy Tốn (Câu chuyện thương tâm, Con người sở khanh,
Nước đời lắm nỗi, Sống chết mặc bay) và đồng thời muốn khẳng định sự đóng
góp của ông đối với nền văn học nước nhà giai đoạn 1900-1945.
1 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


CHƯƠNG 1
CẢM HỨNG THẾ SỰ VÀ SÁNG TÁC CỦA PHẠM DUY TỐN
Cảm hứng và cảm hứng thế sự


Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh
1.1.
1.1.1.

liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng nhất định,
một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận
tác phẩm.
Lí luận văn học định nghĩa: cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư
tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành động.
Có thể nói, thuật ngữ cảm hứng chủ đạo lúc đầu chỉ yếu tố nhiệt tình say sưa
diễn thuyết, sau chỉ là một trạng thái mê đắm xuất hiện trong tứ thơ. Về sau, lí luận
văn học xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố nội dung nghệ thuật, của thái độ tư
tưởng, cảm xúc ở nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả.
Cảm hứng của tác phẩm trước hết là sự say mê khẳng định chân lí, lí tưởng,
phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực; là thái độ ngợi ca, đồng
tình với những nhân vật chính diện; là sự phê phán, tố cáo các hiện tượng đen tối
các thế lực tầm thường. Tuy nhiên, cảm hứng trong nghệ thuật phải là cảm hứng
mang tư tưởng. Vưgôtxki từng khẳng định, đó phải là tiếng nói của một trái tim
thông minh, trái tim biết suy nghĩ. Nghĩa là cảm hứng trong tác phẩm không phải là
cái tình cảm được xướng lên, mà phải là tình cảm mãnh liệt, toát ra từ tình huống,
từ tính cách, sự miêu tả và nội dung của nó bao giờ cũng là một tình cảm xã hội
1.1.2.

được ý thức.
Cảm hứng thế sự là cảm hứng về cuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về
con người của thực tại. Những tác phẩm mang cảm hứng thế sự chú ý khẳng định
giá trị thẩm mĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quí
trên hành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người.
1.2.
Khuynh hướng tiếp cận thế sự của văn học thế kỉ XX


2 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


1.2.1.

Ra đời khoảng năm 1804, Sơ kính tân trang của Phạm Thái (1777-1813) đáng kể
là một hiện tượng độc đáo của văn học dân tộc: trong khi suốt thời trung đại các
truyện nôm của ta như Hoa tiên, Nhị độ mai, Lục Vân Tiên thường phỏng dịch lại
các truyện Tàu hoặc lấy cảm hứng từ sách vở bên Tàu thì Sơ kính tân trang là một
thứ tự truyện của tác giả, địa điểm mô tả là ở Việt Nam, nhân vật là người Việt
Nam.
Dù vậy chăng nữa, bút pháp miêu tả trong Sơ kính tân trang nhìn chung vẫn
là một thứ bút pháp ước lệ nó là một phần của thi pháp văn học trung đại. Nếu ở
Truyện Kiều, Nguyễn Du đã cho ta biết cô Kiều đẹp, qua những câu thơ: Làn thu
thủy nét xuân sơn – Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh, thì ở Sơ kính tân
trang Phạm Thái cũng tả người bằng lối so sánh đó, mà xem ra lại không chau
chuốt bằng: Chiều cá nhảy vẻ nhạn sa – Mặt long lanh nguyệt tóc rà rà mây. Đây
là một đặc điểm quán xuyến trong nền văn học ở ta từ thế kỷ XIX về trước, một
nền văn học trung đại, mà trước khi Pháp chiếm Việt Nam, đã có những dấu hiệu
bế tắc.
Phải đến đầu thế kỷ XX, khi mà cơ sở xã hội thay đổi theo hướng Âu hóa rồi
cả nền văn học đổi hướng theo thì những khuôn sáo ấy mới được dứt bỏ dần dần.
Từ chỗ văn chương tập cổ, văn chương ước lệ “ở bên ta mà nói chuyện bên Tàu”
người ta bắt đầu làm nên một thứ văn chương nói ngay về cuộc sống bên cạnh
mình, nếu có cần lấy mẫu thì chép ngay cái mẫu sinh động của đời sống, chứ
không theo những mẫu sẵn có trong sách vở nước ngoài. Đứng ở cuối thế kỷ XX
nhìn lại, có thể bảo đây là chuyện đương nhiên, thế nhưng chỉ cần đặt mình vào
cuộc sống đầu thế kỷ sẽ thấy đây là cả một bước chuyển khó khăn, phải có sự nỗ


1.2.2.

lực của nhiều người mới làm nổi.
Mở đầu thiên truyện Thầy Lazaro Phiền (1887), Nguyễn Trọng Quản viết: “Tôi
một có ý dụng lấy tiếng thường mọi người hằng nói mà làm ra một truyện hầu cho
kẻ sau coi mà bầy đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay, trước là làm cho trẻ ham vui

3 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


mà tập đọc, sau là làm cho các dân các xứ biết rằng người An nam sánh trí sánh tài
thì cũng chẳng kém ai”.
Như vậy, là những tìm tòi nhằm xây dựng văn chương hiện đại đã có từ cuối
thế kỷ trước và bắt đầu ngay ở Nam bộ, song phải qua thế kỷ XX, và trong không
khí của mảnh đất văn học chung quanh Hà Nội, nó mới diễn ra đầy đủ để đi đến
chỗ hoàn thiện. Lúc đầu, người ta còn viết tiểu thuyết bằng cái giọng của những
ảnh hưởng từ Trung Quốc, nhưng nó sẽ sớm bị vượt qua và các sáng tác viết theo
bút pháp phương Tây sẽ nổi hẳn lên. Sở dĩ các truyện ngắn của Phạm Duy Tốn
hoặc tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách đến cuối thế kỷ này còn đọc lại
được lý do một phần là vì chúng được viết bằng một tư duy văn học hiện đại, gần
với tư duy con người đương thời. Một lý do nữa khiến chúng trường tồn: chúng để
lại những bằng chứng, những tư liệu về cuộc sống con người mà ngày nay chúng ta
biết rất ít. Chẳng hạn như Tố Tâm, quyển tiểu thuyết ấy của Hoàng Ngọc Phách
không chỉ đáng nhớ vì đã diễn tả tâm lý con người đương thời, mà còn ghi lại hộ
chúng ta những chi tiết cụ thể, nào là Tố Tâm “bịt khăn tua đen” và “đi xe sắt” nào
là Đạm Thủy và Tố Tâm gặp nhau ở ngoài bãi bể Đồ Sơn.. bấy giờ là chuyện hoàn
toàn mới mẻ!
Tới đầu những năm ba mươi, những biến chuyển mở ra từ Nguyễn Trọng
Quản, Trần Chánh Chiếu, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách… nổi lên thành một
phong trào rầm rộ. Xu thế hướng vào thực tại trở nên có sức bao quát, chi phối mọi

dòng phái sáng tác, kể cả những dòng khác nhau nhất.
Mặc dù rất yêu kính Tản Đà, các nhà Thơ Mới thường cũng mang thơ Tản
Đà ra chế giễu. Tú Mỡ viết trên Phong hóa: Cây tươi tốt lá còn xanh ngắt/ Bói
đâu ra lác đác lá ngô vàng/ Trên đường đi nóng rẫy như rang/ Cảnh tuyết phủ mơ
màng thêm quái lạ. Trong khi diễn tả những cảm giác sôi nổi bồng bột của người
4 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


thanh niên đương thời, các nhà Thơ Mới mang vào các sáng tác của mình một
không khí Việt Nam, từ “gió nồng say trên hồ sen dào dạt” đến “con đường nho
nhỏ gió xiêuxiêu”, từ buổi trưa xao xác tiếng gà tới canh khuya thoảng hương hoa
bưởi. Nói như Hoài Thanh, Thơ Mới ra đời là để đáp ứng một nhu cầu của lớp
trẻ: nhu cầu được thành thực.
Trong một số sách lịch sử văn học, Tự lực văn đoàn thường được miêu tả
như một nhóm nhà văn đại diện cho chủ nghĩa lãng mạn, xa rời đời sống. Song
công bằng mà nói, chính trong tôn chỉ của mình, Tự lực văn đoàn đã đặt vấn đề “ca
ngợi những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người
khác đem lòng yêu nước một cách bình dân”. Và sự thực là cái hấp dẫn ở tác phẩm
của họ, không phải chỉ có tình yêu trai gái, mà còn là những phong cảnh sinh hoạt
đời thường: câu chuyện đối đáp trên một đoạn đường cái quan thuộc vùng quê Bắc
Ninh; nếp sống thanh bình ở những làng xóm trung du, mạn Phú Thọ. Rồi cái vắng
vẻ của một phố huyện, vẻ ồn ào đáng yêu của Hà Nội 36 phố phường. Trước khi
trở thành nhàm chán, những nét hiện thực thơ mộng này đã làm cho nhiều người
say mê, chắc chắn nó đã vượt rất xa so với lối miêu tả mang tính cách chắp nối
trong tư duy sáng tác thủa giao thời, nay còn đọc thấy trong văn xuôi Tản Đà hoặc
các tiểu thuyết như Cuộc tang thương (Đặng Trần Phất), Kim Anh lệ sử (Trọng
Khiêm)…
Việc hướng cái nhìn vào thực tại cố nhiên chỉ được coi là hoàn chỉnh khi mà
các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,
Nam Cao… cho in ra những tác phẩm như Tắt đèn, Bước đường cùng, Vỡ đê, Bỉ

vỏ, Đôi lứa xứng đôi… Không phải ngẫu nhiên, các tác phẩm này được xếp vào
một cái ô chung là chủ nghĩa hiện thực. Bức tranh thực tại lúc này đòi hỏi phải bao
quát hơn, cách hiểu về thực tại cũng đã sâu sắc hơn: trong chủ nghĩa hiện thực ở
5 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


đây thường bao gồm cả chủ nghĩa nhân đạo, tố cáo những thế lực áp bức con
người, và nói chung là muốn cho con người sống ngày một tốt đẹp.
Như các nhà nghiên cứu thường nhận xét, nhìn chung văn học Việt Nam từ
khoảng 1920 trở đi có tốc độ biến chuyển rất mau lẹ. Sở dĩ vậy vì chỉ trong có đâu
vài chục năm, nền văn học ấy đã diễn lại những bước đi của các nền văn học Âu
châu trong một thời gian dài từ thế kỷ XIX về trước, tức là đi qua cả mấy giai
đoạn: Chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa lãng mạn, rồi bộc lộ một cách đầy đủ hơn ở
chủ nghĩa hiện thực.
Trên con đường khám phá ngày một sâu sắc hơn đời sống, nhằm mang lại
cho khái niệm thực tại những ý nghĩa mới, từ đầu thế kỷ XX, bên phía trời tây thấy
hình thành nên khá nhiều xu hướng nghệ thuật mới, như chủ nghĩa tự nhiên, chủ
nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực… và ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến Việt
Nam dù là chỉ ở mức độ bé nhỏ, hoặc tạo nên những biến dạng rất khác nhau (thơ
Hàn Mặc Tử, thơ Xuân Thu nhã tập; những tiểu thuyết như Cát lầy của Thanh
Tâm…).
Thế nhưng, một đột biến của lịch sử đã xảy tới, đó là Cách mạng tháng 8 và
hai cuộc kháng chiến kéo dài ba chục năm. Luôn luôn xã hội có những yêu cầu cấp
bách đặt ra với văn học. Những kinh nghiệm mà văn học đã tích lũy được từ đầu
thế kỷ, trong đó có những thành tựu cụ thể của việc xây dựng nền văn chương theo
hướng hiện đại, đòi hỏi phải được khai thác một cách triệt để. Cái nhìn hướng vào
thực tại là một lợi thế, giúp cho ngòi bút của các nhà văn đáp ứng những nhu cầu
mới mẻ đó.
Chưa bao giờ, những thiên truyện, những bài thơ, có dịp miêu tả kỹ lưỡng
đời sống Việt Nam như lúc này. Trước khi có điện ảnh truyền hình, văn chương đã

6 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


đóng vai trò một thứ thiết bị ghi chép đời sống, một thứ bách khoa thư để người ta
tra xét, mỗi khi muốn biết những phương diện khác nhau của đời sống sản xuất và
chiến đấu đang diễn ra hàng ngày. Đọc Tô Hoài (Vợ chồng A Phủ, Mường
Giơn…) để biết sự thức tỉnh của đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong kháng chiến
chống Pháp. Đọc Nguyễn Tuân (Sông Đà) để nhớ lại không khí bạt núi mở đường
ở miền Tây đầu những năm 60. Những buổi họp hợp tác trong văn Nguyễn Khải,
Nguyễn Kiên. Tâm lý anh lính học trò trong văn Nguyễn Minh Châu. Tiếng cười
của các cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật. Tiếp đó, tới những
năm 80 và 90, qua sáng tác của những Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Quang
Thân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Bùi Chí Vinh, Lý Lan, Phan
Thị Vàng Anh… Thực tại lại hiện ra với những chiều cạnh mà trước kia chưa hề
có. Bởi lẽ thực tại là vô cùng, cho nên chỉ đuổi theo nó thì không hề kịp, tới lúc
nào đó, người ta phải nghĩ tới những cách tiếp cận mới hòng nắm bắt được cái bản
chất thực sự của đời sống. Nhưng đó là chuyện của những nền văn học khác, hình
thành trong những hoàn cảnh khác. Còn với văn học Việt Nam thế kỷ XX, thì cách
tiếp cận hiện nay vẫn đang được tiếp tục triển khai và khi nhớ lại thứ văn thơ ước
lệ đầy rẫy những từ chương điển cố ngày xưa… người ta có thể mỉm cười, vì biết
rằng như vậy là mình đã tiến được những bước dài.
Từ sau tháng Tám 1945, văn chương đã khác đi bao nhiêu, duy có xu hướng
bắt rễ vào đời thực thì không những được tôn trọng mà còn được đẩy lên hoàn
chỉnh hơn và áp dụng thật rộng rãi. Khi còn ký bút danh Bùi Đức Ái, nhà văn Anh
Đức có một cuốn tiểu thuyết mang tên Một truyện chép ở bệnh viện. Nhà thơ
Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Pháp có một bài thơ tình mang tên: Bài
thơ viết cạnh đồn Tây. Nhiều tác phẩm khác của các tác giả khác, cũng có thể
mang các tiêu đề tương tự, bởi nó có liên quan tực tiếp đến bước đường đời mà nhà
văn đã trải.
7 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn



1.3.

Phạm Duy Tốn và sự mở đầu trào lưu văn học mới

1.3.1. Phạm Duy Tốn sinh tại phố Hàng Dầu, Hà Nội. Nguyên quán của ông ở làng

Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Phú
Xuyên, Hà Nội). Cha Phạm Duy Tốn là ông Phạm Duy Đạt và mẹ là bà Nguyễn
Thị Huệ.
Trong bài Nói chuyện với Phạm Duy về Phạm Duy Tốn (báo Văn số 169),
nhà văn, nhà báo Vũ Bằng dẫn lời Phạm Duy cho biết ông Phạm Duy Đạt là một
ông chánh tổng, còn bà Nguyễn Thị Huệ là “một người ả đào cũ kỹ nổi tiếng hát
hay một thời”. Sau khi lấy nhau, bà Huệ bỏ nghề hát về bán dầu. Cũng theo lời
Phạm Duy, nhờ nghề buôn bán của gia đình ông nội nên “chắc bố tôi cũng được
lớn lên trong một hoàn cảnh dễ chịu, không bị thôi thúc vì đồng tiền” (Phạm
Duy, Viết về bố, báo Văn số 169). Thuở nhỏ, Phạm Duy Tốn học chữ Nho. Sau ông
cùng với các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim học trường
Thông ngôn Hà Nội ở Yên Phụ và tốt nghiệp năm 1901.
Sau khi tốt nghiệp, Phạm Duy Tốn được bổ làm thông ngôn ngạch tòa
sứ Ninh Bình rồi sang Thị Cầu (tòa sứ Bắc Ninh). Lúc ấy, ông nổi tiếng là một
thông ngôn có bản sắc riêng. Tuy nhiên, ông nhanh chóng bỏ công việc đúng theo
sở học của mình mà không rõ lý do.
Sau khi bỏ việc thông ngôn, Phạm Duy Tốn đi dạy học ở trường Trí Tri, phố
Hàng Quạt, Hà Nội. Là một trong số những người Việt Nam đầu tiên cắt tóc ngắn
và mặc trang phục châu Âu, Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh là hai trong số
những người sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội năm 1907.
Sau khi thôi dạy học, ông làm đủ các nghề khác nhau. Đầu tiên là mở một
tiệm cao lâu ở phố Cầu Gỗ, Hà Nội. Theo Phạm Duy, nghề mở tiệm ăn lúc đó nằm

8 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


trong tay Hoa kiều, tiệm cao lâu của ông Phạm Duy Tốn là tiệm đầu tiên của người
Việt Nam. Tuy nhiên, tiệm không cạnh tranh được và phải đóng cửa. Ông lại vay
tiền để mở một tiệm vàng tên là Nam Bảo. Tiệm vàng thất bại, Phạm Duy Tốn lại
cùng một số bạn bè đi tìm mỏ ở Quảng Yên, nhưng theo lời Phạm Duy, “việc tìm
mỏ chắc không đem lại cho bố tôi những thích thú về tiền bạc hay tinh thần”.
Sau khi thất bại liên tục trên đường tìm sinh kế, Phạm Duy Tốn được một
người bạn Pháp giúp đỡ bằng cách giới thiệu vào làm việc cho chi nhánh của Ngân
hàng Đông Dương ở Mông Tự, Trung Quốc. Ông ở Trung Quốc không lâu, lại bỏ
việc trở về và quyết định theo đuổi nghề mà xưa nay ông vẫn cho là nghề phụ: viết
văn, làm báo. Ngày 25 tháng 2 năm 1924, Phạm Duy Tốn qua đời tại nhà riêng ở
Hà Nội.
1.3.2. Phạm Duy Tốn viết văn không nhiều. Toàn bộ văn nghiệp của ông chỉ để lại có bốn

truyện ngắn: Bực mình (Ðông Dương tạp chí số 55, Hà Nội, 1914), Sống chết
mặc bay (báo Nam Phong, Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 1918), Con người sở
khanh (báo Nam Phong, Hà Nội, tháng 2 năm 1919) và Nước đời lắm nỗi
(báo Nam Phong, Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 1919). Nhưng Phạm Duy Tốn vẫn
được đánh giá là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng với văn học Việt Nam
trong thời kỳ đầu hiện đại hóa.
Trước đó, văn học Việt Nam còn xa lạ với những hình thức và cách thể hiện
văn chương hiện đại. Phạm Duy Tốn đã trở thành một trong những người tiên
phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân
giai đoạn sau này. Thay vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền
thống, Schafer nhận xét ông đã “mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới
không chỉ bao gồm trí thức và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những
người kéo xe cần lao”.
9 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn



Các nhà phê bình thời bấy giờ thường so sánh Phạm Duy Tốn với Nguyễn
Bá Học, một nhà văn cùng thời cũng viết các truyện ngắn. Truyện của Nguyễn Bá
Học, dù cũng được coi là văn mới, nhưng vẫn được viết theo phong cách trang
trọng và cổ điển. Như Thanh Lãng đã chỉ ra, Nguyễn Bá Học muốn duy trì những
nền nếp đạo đức Nho giáo cổ truyền và cổ súy cho điều đó thông qua các tác phẩm
của mình, còn Phạm Duy Tốn muốn cải cách xã hội, nên các tác phẩm của ông
thường có khuynh hướng hòa nhập vào xã hội hiện thực rất rõ ràng, sâu sắc.

10 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


CHƯƠNG 2
SỰ THỂ HIỆN CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN PHẠM
DUY TỐN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Hiện thực về đời sống kinh tế của xã hội đương thời
2.1.1. Sau khi hoàn thành công cuộc bình định ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX thực
dân Pháp đã đặt bộ máy cai trị của chúng lên toàn cõi đất nước ta. Bắc kì, Trung kì
là xứ bảo hộ, Nam kì là đất thuộc địa. Tuy có sự khác biệt trong chế độ quản lí của
chính quyền thực dân ở từng miền, nhưng đâu đâu trên đất nước này cũng nằm
dưới sự thống trị của Pháp. Mọi người dân Việt Nam đều có chung số phận: nô lệ.
Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nền kinh tế ngày càng
suy thoái, kiệt quệ. Đó là tình trạng lạc hậu trong kĩ thuật sản xuất nông nghiệp, đất
đai tập trung vào tay địa chủ. Người nông dân xa lạ với mọi phương tiện hiện đại,
sản xuất theo tập quán, lệ thuộc vào thời tiết... Hạn hán, lũ lụt xảy ra triền miên.
Người lao động không chỉ sống nghèo khổ mà cuộc đời còn chìm đắm trong sự dốt
nát. Trước những tình cảnh đó, họ phải lao động cật lực để thoát khỏi cái đói, cái
nghèo.
Đó là hình ảnh ông lão trong Câu chuyện thương tâm (trích Bực mình) của

Phạm Duy Tốn với thân hình gầy gò, yếu đuối, khẳng kheo, cố công cùng sức kéo
miết cái xe tay, mà không sao đi nhích được. Xe chất hai bồ nghe chừng đã nặng,
lại thêm một mụ vắt vẻo ngự ở trong xe. Cụ đã già mà nắng mưa vẫn lặn lội mưu
sinh, âu cũng vì hoàn cảnh đã đẩy con người đến bước đường cùng. Ông lão nhìn
vị thanh niên mà hai con mắt ông, trông mờ mờ, hình như ruột nhãn, nước chảy
chứa chan, mà chung quanh vành thì đỏ ửng, ông ngập ngừng:
- Thưa cậu, tôi ở tỉnh Sơn. Tôi có mỗi một thằng con trai. Năm ngoái trời
làm lụt lội, đê điều vỡ lở, chẳng may con tôi chết đuối. Nó để lại một lũ con thơ.
Bây giờ nhà nghèo khổ, trẻ nhỏ ốm đau, sài ghẻ; vợ nói phải ở nhà trông nom để
tôi xuống Hà Nội kéo xe thuê mướn, kiếm mỗi ngày lấy răm ba xu, một hào, mà
11 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


nuôi nấng đàn cháu mồ côi, cậu ạ. Tôi ngoài sáu mươi rồi, cho nên cũng yếu. Phải
đường đá đau chân, mà xe lại nặng, kéo không sao nổi...
Hoàn cảnh của cụ cũng chỉ là một hoàn cảnh điển hình trong muôn vạn hoàn
cảnh đói khổ khác, nhưng trong đó lại chất chứa một nỗi niềm ẩn sâu, một trái tim
yêu thương vô bờ của ông cụ dành cho con cháu. Cái đói, cái nghèo có thể làm con
người ta tha hóa, nhưng cái đói cũng khiến con người ta chấp nhận hoàn cảnh và
vượt lên trên hoàn cảnh.
2.1.2. Bên cạnh sự suy thoái về kinh tế, Phạm Duy Tốn cũng có cái nhìn sâu sắc
vấn đề đồng tiền trong xã hội giao thời. Trong truyện Con người sở khanh, Phạm
Duy Tốn đã lên án gay gắt sức mạnh của đồng tiền. Nó có thể khiến một bộ phận
con người trong xã hội bây giờ bị tha hóa đến khủng khiếp. Thầy thông ất vì tham
tiền của nhà bá hộ Đinh mà lên sẵn một kế hoạch để lừa tiền của nhà bá hộ. Lợi
dụng, sự ngây thơ, cả tin của cô Giáp mà thầy ất được cả người lẫn của…
Trong Nước non lắm nỗi, cũng vì tiền, cha của Lương Duy Đạo như “người
điên cuồng”, thẳng tay đánh vợ cho đến chết trước ánh nhìn đầy sợ hãi của con trai.
Trong những hoàn cảnh ấy, ta mới thấy đồng tiền còn giá trị hơn cả mạng sống của
con người. Nó như có một thế lực vạn năng, lôi kéo con người theo lối sống mới,

sa đọa, hư hỏng. Con người trong xã hội đương thời có thể tìm đủ mọi cách để có
nó, cho dù phải làm những việc phi nhân tính, suy đồi đạo đức.
2.2. Hiện thực về giai cấp thống trị đương thời
2.2.1. Sau khi hoàn tất công cuộc bình định ở Việt Nam, đặt bộ máy cai trị lên toàn
cõi đất nước ta, thực dân Pháp vẫn tỏ ra khôn khéo, tiếp tục duy trì cơ cấu phong
kiến trong vai trò bù nhìn. Hơn thế, những gì thuộc về phong kiến mà có lợi cho
Pháp đều được tồn tại và phát triển trong sự trợ lực của người Pháp. Do đó, giai
cấp phong kiến thống trị đương nhiên vững vàng trong ngôi vị vốn có của mình.
Đa số những người thuộc giai cấp phong kiến đương thời đã trở thành lực lượng
đối lập với nhân dân. Đó là những quan huyện, quan phủ, ông phán, thầy thông,
12 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


thầy kí, hương chức, hội tề... ở thành thị lẫn nông thôn, cậy quyền ỷ thế ức hiếp
dân lành vô tội, chuyên làm những chuyện xấu xa, bỉ ổi.
Trước bối cảnh đó, Phạm Duy Tốn đã tạo nên một hoàn cảnh điển hình
trong Sống chết mặc bay để làm nổi bật hình tượng nhân vật quan lại vô trách
nhiệm, bàng quan trước nỗi khổ của dân nghèo.
Khúc đê làng X, thuộc phủ X có hai, ba đoạn nước đã rỉ ra ngoài. Trong khi
nước sông Nhị Hà cứ dâng lên cao, nên có nguy cơ vỡ đê. Bên ngoài trống dội lên
từng hồi, hàng trăm người vật lộn với thiên nhiên từ chiều đến gần một giờ đêm để
bảo vệ con đê. Trời thì cứ mưa tầm tã không ngớt, nước sông cứ cuồn cuộn dâng
cao, sức người như đã kiệt, thế mà trong đình, đèn thắp sáng trưng, quan ngồi
chễm chệ uy nghi. Quân lính đứng hầu cạnh nào gãi, nào quạt, nào điếu đóm…
Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường để trong khay khảm khói nghi ngút.
Quanh sập, có đủ mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, chánh tổng sở tại. Tất cả
đang tụ họp để vui chơi tổ tôm. Cảnh tượng này hoàn toàn đối lập với cảnh ngoài
đê trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê.
Rõ ràng qua hai cảnh được dựng lên ta thấy rằng đây là một viên quan vô
trách nhiệm trước sự sống chết của hàng trăm con người. Hắn chỉ biết hưởng thụ

sống sung sướng cho bản thân.
Ngoài đê, dân chúng đang từng giờ từng phút đối mặt với nguy hiểm của
nước lũ mạnh và vô cùng hung dữ. Người đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào kè, bì
bõm dưới bùn lầy, mươi gió lướt thướt, ướt như chuột lột. Vậy mà Quan phụ mẫu
uy nghi, chễm chệ trong đình. Bát sách, thất văn… lúc mau, lúc khoan thật nhịp
nhàng. Ngoài kia đàn sâu lũ kiến đang vùi mình dưới mưa cũng không bằng trong
đình đang nước bài cao thấp. Quan như bị ma lực hút hồn vào một trăm hai mươi
lá bài đen đỏ, mà quên đi tính mạng dân lành, thật đáng thương tâm. Quanh năm
quan đâu có biết đến đời sống của dân chúng và công việc mình phụ trách, dưới cái
ghế của quan có bao kẻ xu nịnh ôm chân vâng dạ.
13 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


Thậm chí chúng còn tranh nhau phô bài để quan lớn rõ rằng: Mình vào được
nhưng không dám cố ăn kìm. Rằng: mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt.
Thì ra chúng đã chìm nổi cho quan ù thông (thắng liên tiếp 2 ván). Như vậy thì
quan làm sao nhớ đến nhiệm vụ của mình được. Hơn nữa trong dinh thì cao, đèn
thắp sáng quan làm sao mà dám xuống chỗ sùng sũng bùn lầy đêm tối kia. Cái bọn
mà ta gọi là điếu đóm, lau nhau ấy đã rất khéo léo.
Rồi lại ván bài tiếp, quan vừa xơi xong bát yến, vuốt râu rung đùi. Hắn chỉ
chăm chăm nhìn vào đĩa đựng bài chờ bốc trúng quân bài để hắn hạ. Bỗng có
người khẽ bảo dễ có khi đê vỡ, quan gắt “mặc kệ”. Bên ngoài tiếng người gào thét
ầm ĩ, tiếng gà trâu kêu vang tứ phía, một người nhà quê ướt sùng hộc tốc chạy đến
bẩm “đê vỡ mất rồi”. Quan đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng:
-

Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có
biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy?
Không còn phép tắc gì nữa à?
Quan thẳng thừng thoái thác trách nhiệm… rồi lại tiếp tục ván bài đang dở,

mặc kệ cho đê vỡ, dân chúng chạy loạn, những sinh linh bé nhỏ kia sẽ bị những
cơn lũ cuốn đi. Nào là phụ mẫu chi dân, nào là lo cho dân, thương dân. Bộ mặt của
bọn quan lại phong kiến hiện rõ hơn bao giờ hết. Quan có biết đâu sau ván bài ù là
lúc nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, cửa nhà, dân chúng kẻ sống thì không
có chỗ ở, kẻ chết thì mất xác… Than ôi! Dân còn biết trông cậy vào ai? Còn ở đây,
vị quan phụ mẫu thương dân đã bỏ mặc đê vỡ và chối bỏ trách nhiệm.
Sống chết mặc bay đã thể hiện sâu sắc bộ mặt tên quan phụ mẫu vô trách
nhiệm với công việc cửa mình, mặc cho dân chúng đối mặt với cái chết còn hắn thì
chỉ lo không ù được ván bài, cứ sống chết mặc bay. Bằng nghệ thuật tương phản,
14 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


Phạm Duy Tốn vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm, vô nhân đạo của
bọn quan lại, chúng coi thường tính mạng nhân dân. Chúng chỉ lo ăn chơi cờ bạc
bóc lột dân đen đến tận xương tuỷ.
2.2.2. Phơi bày cái xấu, tố cáo cái ác, hay phê phán cái vô đạo đức ở giai cấp thống
trị, đó là việc làm đã đạt nhiều thành công ở lớp nhà nho đi trước như Nguyễn Du,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Tú Xương... Đến giai đoạn này, sử dụng
hình thức văn xuôi tự sự, các nhà văn hiện đại có nhiều thuận lợi hơn trong việc thể
hiện vấn đề trên. Phạm Duy Tốn đã chứng minh được chính sự suy thoái của giai
cấp thống trị đã gây ảnh hưởng xấu cho cuộc sống của nhân dân.
Trong Nước đời lắm nỗi, một ông thông phán ở tòa Sứ tỉnh quyền thế lẫy
lừng, ai cũng nể sợ, thế nhưng lại bội bạc, mất hết cả nhân tính, một tay thì bóp cổ
vợ ấn xuống giường, tay còn lại thì đấm tát điên cuồng chỉ vì không có tiền để ăn
chơi, hưởng lạc. Tàn nhẫn thay, người vợ hiền lành, lầm lũi ấy lại đang mang thai
hai, ba tháng! Hành động phi nhân tính của hắn không chỉ cướp đi một mạng
người, mà còn là nỗi ám ảnh cho cả một đời con trẻ.
Rồi lại một ông quan “phụ mẫu” ngồi trong đình đánh tổ tôm, mặc dân sống
không có đất ở, chết không có nơi chôn, khốn khổ vô cùng trong trận vỡ đê lịch sử
(Sống chết mặc bay). Lại thầy thông ất làm việc ở Sở tỉnh, cũng một con người có

học thức, “hình dung chải chuốt, áo quần bảnh bao”, ấy mà lại lập một cái kế “tàn
nhẫn” hại đời một cô gái trẻ, rồi “vui hưởng cái của bất nhân, bất nghĩa” (Con
người sở khanh).
Phạm Duy Tốn đã lên án gay gắt cái xấu ở giai cấp thống trị đương thời từ
sự bất bình và cả bất mãn. Trong cái nhìn của ông, thực trạng về giai cấp thống trị
đương thời là vô phương cứu vãn. Xã hội đó không dành chỗ đứng cho những
người chánh trực, công minh mà là những con người bị tha hóa về nhân cách, đạo
đức, lối sống.
2.3. Vấn đề đạo đức và lối sống trong xã hội đương thời
15 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


2.3.1. Bão táp chiến tranh đã cuốn phăng đi nhiều giá trị truyền thống, đưa cả nước
đến với lối sống mới, lối sống tự do theo tư sản. Lối sống mới tấn công quyết liệt
vào nền nếp cũ. Nó hình thành lắm cái mới lạ có tính chất tiêu cực, đẩy phong hóa,
đạo đức xã hội đến bờ vực của sự suy thoái. Con người bắt đầu sống cho cá nhân,
chạy theo tiền tài, danh vọng… Những gì thuộc về luân lí, đạo đức, phong tục...
đều bị bỏ lại phía sau. Đây là thời kì mà Tản Đà đã từng nói:
Luân thường đổ nát, phong hóa suy
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly
Vì thế, vấn đề phong hóa, đạo đức, lối sống trở thành vấn đề bức xúc của xã
hội, được nhiều người quan tâm. Hơn thế nữa, mọi người còn tỏ ra rất lo lắng. Các
bậc trí thức, các nhà cách mạng đương thời đều ra sức tìm kiếm một giải pháp cho
vấn đề trên.
Nhà văn vốn là người rất nhạy cảm trước cuộc sống. Mọi hiện tượng đổi
thay của cuộc sống đều có tác động đến họ. Họ không làm ngơ trước thế sự, mà
còn tích cực vận động, tuyên truyền vì sự bảo tồn phong hóa, đạo đức truyền thống
của dân tộc. Thực trạng phong hóa, đạo đức, lối sống xã hội đang là nỗi trăn trở
day dứt của các tác giả trong đó có Phạm Duy Tốn. Nó đã cuốn hút ông đi vào tìm
hiểu sự việc, phát hiện ra sự thật của nhiều vấn đề.

Con người rơi vào thú vui sa đọa, hưởng lạc mà không cần biết xung quanh
mình còn có những mảnh đời bất hạnh. Đó là hình ảnh viên quan lớn vì mải mê
đánh tổ tôm mà để dân đen rơi vào cảnh lầm than, cùng cực (Sống chết mặc bay).
Là hình ảnh quan thông phán đánh đập vợ để lấy tiền vui những thú vui hưởng lạc.
Hay anh Lương Duy Đạo chìm ngập trong thuốc phiện gần hai mươi năm vì một
triết lý sống vô cùng đơn giản: Anh tính đời người sống được mấy gang tay! Tội gì
vất vả cho khổ cái thân! Tôi đây chẳng thiết làm gì cả! (Nước đời lắm nỗi). Con
người anh như vậy cũng do hoàn cảnh, do sự suy đồi của người cha khiến anh sa
16 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


sút! Anh trở nên “tồi tàn”, bẩn thỉu và suốt ngày ngẫm về sự đời! Lối sống sa đọa
đã khiến anh bị tha hóa từ ngoại hình lẫn tính cách, tư tưởng.
Với cái nhìn khá tinh tế, tuy còn chủ quan nhưng Phạm Duy Tốn đã khái
quát được những nét tiêu biểu của xã hội “đương buổi giao thời”, đang bị cuốn
vào “cơn lốc” của quá trình tư sản hóa. Như con dao hai lưỡi, tư sản hóa vừa tạo
nên một vài nhân tố tích cực cho nền kinh tế của đất nước, vừa ảnh hưởng tiêu cực
đến đạo đức xã hội. Nó “cứa” vào đúng những gì được người Việt Nam nâng niu,
gìn giữ bấy lâu nay: thuần phong mĩ tục.
2.3.2. Bên cạnh lối sống ăn chơi, hưởng lạc, truyện ngắn của Phạm Duy Tốn còn
tập trung phản ánh tình trạng suy thoái đạo đức. Qua cách thể hiện của các tác giả,
nguyên nhân của vấn đề xuất phát từ sự tấn công của lối sống mới, đồng thời cũng
do chính sự hư hỏng và sa sút về đạo đức của người đời, những con người thích
dựa vào uy quyền, phép tắc của phong kiến để mưu cầu quyền lợi ích kỉ cho chính
mình. Xã hội đó không ít những kẻ như cha của Lương Duy Đạo (Nước đời lắm
nỗi), như thầy thông ất (Con người sở khanh) – những con người bất chấp tình
nghĩa vợ chồng, đạo lí ở đời.
Phạm Duy Tốn thể hiện rõ nỗi bất bình xã hội, mạnh dạn phê phán cái xấu
và không ngần ngại đả phá những gì đang làm hư hỏng đạo đức truyền thống.
Trong Câu chuyện thương tâm, trước tình cảnh cơ cực của ông cụ, người người

không khỏi xót thương, thế mà những con người có quyền, có tiền lại buông những
lời mỉa mai, gắt gỏng khi cụ cố sức mãi mà không kéo được cái xe tay nặng trĩu.
Trời mưa mà lại rét. Đường đá “củ đậu, củ khoai” trồi lên lởm chởm. Trong tình
huống đó, ông cụ thấy mình bất lực trước hoàn cảnh, “chùi trán mồ hôi tầm tã” mà
nghĩ về đàn cháu mồ côi. Kể về tình cảnh của cụ và chỉ vài chi tiết chấm phá về vị
khách “vắt vẻo ngự trong xe”, người ta thấy đạo đức của con người bị xuống cấp

17 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


nghiêm trọng. Họ thờ ơ, vô cảm với đời. Họ sống ích kỷ thậm chí là mất hết nhân
tính.
Phạm Duy Tốn đã nhìn thẳng vào hiện thực và mạnh dạn phơi bày tất cả sự
băng hoại đạo đức đang diễn ra trong xã hội đương thời. Sự sa sút đạo đức ở các
gia đình phong kiến và số phận bất hạnh thường rơi vào những người thuộc tầng
lớp trên như Lương Duy Đạo (Nước đời lắm nỗi), cô Giáp (Con người sở khanh).
Phạm Duy Tốn đã thể hiện những vấn đề xảy ra từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Những câu chuyện được ông đề cập có liên quan đến mọi hạng người, thuộc đủ
mọi thành phần: trí thức lẫn bình dân; giàu và nghèo; tốt lẫn xấu.
Mặc dù, các nhà văn trong giai đoạn này muốn tìm một lối đi mới cho hiện
thực. Thế nhưng, dường như chính họ cũng đã mất niềm tin vào tương lai. Vì vậy,
kết thúc tác phẩm của Phạm Duy Tốn thường không có hậu (Sống chết mặc bay,
Con người sở khanh), hay kết thúc mở (Nước đời lắm nỗi, Câu chuyện thương
tâm).
Sống chết mặc bay kết thúc với hình ảnh: trong khi quan lớn ù ván bài to
như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà
cửa trôi băng lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh
đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết!. Trước hiện
thực cuộc sống như thế, bằng lời văn cụ thể, sinh động, bằng sự khéo léo trong việc
vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, phạm Duy

Tốn qua truyện Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ
thú" và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân
do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
Khi đạo đức phong kiến đang bị đẩy đến chỗ suy thoái, đạo đức tư sản đang
hình thành và phổ biến, thì con người trở nên lúng túng rất nhiều trong lối sống,
thậm chí bị rơi vào bi quan chán nản hay tuyệt vọng. Dường như, con người trong

18 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


tác phẩm của Phạm Duy Tốn luôn băn khoăn đi tìm một lối thoát cho thực tại
nhưng cuối cùng cũng rơi vào vòng lẩn quẩn.
Kết thúc Câu chuyện thương tâm, tác giả cũng chỉ biết thương xót cho số
phận của ông lão mà chính tác giả cũng không thể giải quyết được vấn đề. Như
một lời oán trách, Phạm Duy Tốn cho đó là do “Trời” sắp đặt và định đoạt số phận
con người. Vì thế, tác giả ứa hai hàng nước mắt mà tự vấn lương tâm rằng: Trời ơi!
Sao mà lại có cái cực khổ dường này, hử ông trời xanh cao ngất?.
“Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe”, cho dù con người trong tác phẩm hay
chính tác giả muốn thay đổi hiện thực thì điều đó sẽ không thể thực hiện được. Vậy
thay vì đấu tranh với nó, con người lại học cách chấp nhận nó, suy ngẫm về nó mà
không lối thoát.
2.3.3. Trước hiện thực cuộc sống đầy những biến động với lối sống tư sản mới, sự
giao thoa giữa hai nền văn hóa Đông – Tây đã gây ra những chuyển biến rất sâu
sắc, toàn diện và mạnh mẽ của đời sống văn hóa nước ta những năm đầu thế kỉ XX
trên mọi lĩnh vực, trong có có văn học.
Sự thay đổi mạnh mẽ của đời sống văn hóa xã hội dẫn đến những đổi thay
trong cách cảm, cách nghĩ, trong đời sống tình cảm và tâm lý của con người. Điều
này là một trong những yếu tố tác động lớn đến những đổi thay trong văn học.
Phạm Duy Tốn cũng như các nhà văn cùng thời đi tìm cách lí giải hiện thực, lên
tiếng đấu tranh cho hạnh phúc và sự phát triển cá nhân, thông cảm sâu sắc với

những kiếp người phải sống cuộc đời tối tăm, vô nghĩa lý trong cái tù túng, bức bối
của xã hội thực dân.
Với cốt truyện đơn giản, Phạm Công Trứ đã dựng lên những tình huống
truyện hết sức độc đáo, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của nhà văn đối với cuộc
đời. Trong Câu chuyện thương tâm, tác giả đã dựng lên hình ảnh ông lão đã ngoài
sáu mươi, gầy gò, yếu đuối đang gắng sức kéo cái xe tay nặng trĩu hai bồ và một vị
khách trên con đường đất đá lởm chởm. Hình ảnh ấy khiến cho ta người phải động
19 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


lòng trước cảnh cơ cực, vất vả của ông lão tuổi tác đã cao. Ở độ tuổi này, lẽ ra phải
được sống an nhàn thì ông cụ râu tóc bạc phải kéo xe chở khách giữa trời giông
bão. Tất cả cũng vì “miếng cơm manh áo”, vì nạn lũ lụt đã cướp mất đứa con trai
duy nhất của ông và để lại bầy con thơ nghèo đói, bệnh tật. Cảnh nghèo đói là vậy!
Dù hoàn cảnh có đưa đẩy đến đâu, con người trong thời buổi bấy giờ vẫn phải cố
bám riết lấy nó mà sống.
Trong nạn vỡ đê, trước cảnh con dân chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ,
đem thân hèn yếu mà đối chọi với sức mưa to gió lớn để bảo vệ tính mạng, gia tài,
thì quan ngồi uy nghi trong đình vững chãi mà đánh tổ tôm (Sống chết mặc bay).
Trước tình cảnh trớ trêu đó, Phạm Công Trứ đã mạnh dạn chỉ rõ bộ mặt của bọn
quan lại phong kiến đương thời, thói vô trách nhiệm, khiến cho dân chúng rơi vào
cảnh lầm than. Trong khi quan ù ván bài to như thế thì dân chúng ngoài kia chết
không biết bao nhiêu mà kể, mọi thứ bị nước lũ cuốn phăng. Một tình huống
thương tâm quá đỗi! Có lẽ, đây là những điều “mắt thấy tai nghe” trong trận lũ lịch
sử ở Bắc kì vào các tháng 7 và 8 năm 1915 mà ông đã từng nhắc đến trong bài báo
Hoạn nạn tương cứu , đã làm 60.000 người thiệt mạng vì chết đuối hoặc bệnh
dịch sau đó. Bài báo mô tả hậu quả của trận lũ và gây xúc động mạnh trong dân
chúng ở Nam kì dẫn đến việc thành lập một hội từ thiện gây quỹ gửi cho người dân
gặp nạn ở miền bắc.
Trong những tình huống khác, ông phê phán lối sống sa đọa, suy đồi của bộ

phận tri thức trong xã hội. Bởi hưởng ứng lối sống mới mà trong Nước đời lắm
nỗi và Con người sở khanh, con người đã mất hết nhân tính, coi thường những giá
trị đạo đức luân lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì nhẹ dạ, cả tin nên cô Giáp
và gia đình phú hộ Đinh mới bị thầy thông ất lừa. Phạm Công Trứ đã gián tiếp phê
phán sự nhu nhược của một số bộ phận địa chủ, vì ham danh lợi, quyền thế nên
mới rơi vào bi kịch (Con người sở khanh). Hay vì tận mắt chứng kiến những mục

20 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


ruỗng trong đời sống gia đình, Lương Duy Đạo cũng bi kịch, bất cần đời, sa đọa
đến “tồi tàn” trong chính thú vui của mình.
Hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có những câu chuyện đáng để suy
nghĩ, chiêm nghiệm. Các nhà văn hiện đại nói chung và Phạm Duy Tốn nói riêng,
với nghề cầm bút của mình, luôn mong muốn lí giải nó một cách đầy đủ, thiết thực
nhất những vấn đề trong đời sống, để từ đó tìm ra hướng đi mới, cách giải quyết
mới cho những số phận con người đang hoang mang, bế tắc trước hiện thực đầy
khắc nghiệt.

CHƯƠNG 3
SỰ THỂ HIỆN CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN PHẠM
DUY TỐN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Phạm Duy Tốn và sự phát triển của thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã phát triển trên một “cái nền
truyện ngắn dân tộc”, hút nhiều tinh hoa của thế kỉ phát triển. Phạm Duy Tốn là
một trong những người tiên phong, đặt “nền móng” đầu tiên với thể loại này.

21 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn



Nguyễn Bà Học và Phạm Duy Tốn là hai người viết truyện ngắn đầu tiên
trong văn học Việt Nam. Thanh Lãng đánh giá cao Phạm Duy Tốn: “Muốn ước
lượng vai trò cao của Phạm Duy Tốn, chúng ta cần biết rằng, trước Phạm Duy Tốn,
ngoài những truyện dịch của ngoại quốc, văn học Việt Nam chưa có thể tài truyện
ngắn hay truyện dài sáng tác bằng văn xuôi. Đặt những truyện của Nguyễn Bá Học
bên những truyện cổ điển, chúng ta còn nhận ra nhiều tính cách liên lạc giữa hai
thể tài, chứ lấy một truyện của Phạm Duy Tốn đem đặt cạnh một truyện cổ điển, ta
thấy có một sự ly dị, một sự gián cách đột ngột, bất ngờ cả về tư tưởng lẫn nghệ
thuật”.
Quả thật, đối với sự phát triển của truyện ngắn hiện đại thế kỉ XX, Phạm
Duy Tốn đã có công khai phá, đặt “nền móng” cho thể loại truyện “nhỏ”. Tuy
nhiên, Phạm Duy Tốn cũng không tránh khỏi được khuyêt điểm mà nhà văn đương
thời rơi vào. Truyện ngắn trước năm 1930 chưa hoàn toàn khắc phục được chủ
nghĩa qui phạm với lối biến nhân vật thành con rối trong tay số mệnh, với lối kết
thúc có hậu một cách giả tạo theo kiểu duy tâm chủ quan. Ngôn ngữ trong tác
phẩm đôi khi mang màu sắc ước lệ, khuôn sáo hoặc biền ngẫu. Tuy nhiên, cũng
không thể phủ nhận rằng, truyện ngắn với những đặc trưng thể loại của nó, đã góp
phần thể hiện thành công trong cảm hứng thế sự trong truyện Phạm Duy Tốn nói
riêng và vấn đề thể loại văn học nói chung.
3.2. Nghệ thuật tương phản (đối lập)
Tương phản là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng khá phổ biến trong
sáng tác văn chương. Nó được thể hiện bằng việc tạo ra những hành động, những
cảnh tượng, những tính chất trái ngược nhau. Từ đó mà làm nổi bật lên một ý
tưởng hoặc toàn bộ nội dung tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Trong những truyện
ngắn hay của nền văn học Việt Nam những năm đầu tiên thế kỷ, những truyện ngắn
của Phạm Duy Tốn là những sự vận dụng sáng tạo và sắc sảo thủ pháp nghệ thuật
nêu trên.
22 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn



Sống chết mặc bay là một bức tranh, tương phản giữa một bên là cảnh tượng
nhân dân đang phải vật lộn vất vả, căng thẳng trước nguy cơ vỡ đê. Bên kia là cánh
quan phủ cùng nha lại, chánh tổng đang lao vào một cuộc đánh tổ tôm. Câu chuyện
bắt đầu vào lúc quá nửa đêm, khi ấy trời vẫn mưa tầm tã, nước sông dâng lên cao,
khúc đê xem chừng núng thế không khéo thì vỡ mất. Ở trên đê, dân phu kể hàng
trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn. Cảnh hộ đê nhốn nháo và
căng thẳng: Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau
sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Vậy mà mưa cứ đổ, nước vẫn
cứ cuồn cuộn bốc lên. Sức người dường như đã tỏ ra bất lực trước thiên nhiên.
Trong lúc “lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân
hèn yếu mà đối với sức mưa to gió lớn” thì các ngài quan phụ mẫu hộ đê thưa rằng
“đang ở trong đình kia…”, đình ấy cũng ở trên đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu
nước to thế nữa, cũng không việc gì. Phải chăng các ngài đang ngồi bàn kế sách.
Không đâu, được thế thì mang cho dân quá. "Trên sập… có một người quan phụ
mẫu, uy nghi chễm chện ngồi". Thế nhưng không phải ngài đang chỉ đạo mà là
ngài đang… đóng cái bàn tổ tôm. Ở cái chiếu bạc ấy, thêm nữa còn có đủ mặt các
ông tai to mặt lớn: thầy đề, đội nhất, thông nhì, lại thêm quan chánh tổng sở tại
cũng ngồi hầu bài nữa. Chiếu bạc vững yên và nghiêm trang lắm. Ngoài đánh tổ
tôm, các ngài còn hút sách ăn uống, hầu hạ và còn bao nhiêu thứ nữa. Trong khi đó
ngoài kia mưa gió cứ ầm ầm, dân phu thì rối rít.
Phạm Duy Tốn hành văn rất tự nhiên. Thủ pháp nghệ thuật tương phản tiếp
tục được phát huy và được tác giả đẩy lên đến cao trào khi con đê đã ào ào tan vỡ.
Có người khẽ nói “Bẩm có khi đê vỡ!”. Thế nhưng"ngài cau mặt gắt rằng: “mặc
kệ!”. Quan đang cao hứng vì thế mà bọn quan chức hầu bài cũng cứ nín nhịn ngồi
yên. Lát sau lại có người xồng xộc chạy vào “Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!”.
Thế nhưng, tiếp theo vẫn là những lời quát mắng kèm theo một khuôn mặt cáu bẳn
23 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


tức giận đỏ đến tía tai. Những dòng văn của tác giả thật tài tình. Càng về cuối

truyện, mạch văn càng ngắn, càng nhanh. Dân cứ thét cứ kêu, cứ lênh đênh trên
mặt nước. Còn vị quan phụ mẫu thì đúng lúc con đê kia vỡ lại là lúc được mùa.
Quan ù và ù to chưa từng thấy.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã
hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa,
lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân
dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ
sói trong tác phẩm.
3.3. Phép tăng cấp độc đáo
Bên cạnh nghệ thuật tương phản, Phạm Duy Tốn còn sử dụng phép tăng cấp
khá độc đáo, góp phần đưa những tình huống truyện đến cao trào, làm tăng sự phản
ánh thực trạng xã hội, thể hiện tình cảm, quan niệm của nhà văn trước những mảng
hiện thực tối tăm trong đời sống.
Với Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã vào đề bằng một hình ảnh hết
sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước
sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay
bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt
như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu
nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự
vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò,
tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người.
Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức
kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị
24 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu
không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài.
Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi
khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh

vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng
được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn. Than ôi! Xã hội phong kiến
bất công biết bao.
Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng
với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy
giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên
một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh
nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả
dưới ngòi bút của tác giả. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng
vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại
của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức
của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời
ông bỏ tù chúng mày! Thật đáng chê trách cho vị phụ mẫu chi dân!
Bằng lời văn tả thực nhưng cũng vô cùng sinh động, bằng sự khéo léo trong
việc đan xen kết hợp hai thủ pháp tăng cấp và tương phản, truyện ngắn đã lên án
gay gắt thái độ vô trách nhiệm của bọn quan tham. Đồng thời, sống chết mặc bay
cũng bày tỏ niềm cảm thương da diết trước nỗi đau của con người. Nhờ sự thành
công ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật, Sống chết mặc bay xứng đáng là truyện
có chất lượng đầu tiên của nền văn học hiện đại Việt Nam.

25 | Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Phạm Duy Tốn


×