Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CON NGƯỜI TRONG THƠ THIỀN TRUNG đại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.8 KB, 18 trang )

Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
Mở đầu
Nền văn học viết Việt Nam trải qua hơn một ngàn năm định hình và phát
triển đã để lại một thành tựu hết sức to lớn. Đây thật sự là một tài sản vô giá trong
đời sống tinh thần của dân tộc, là niềm tự hào cho truyền thống văn hóa đầy tính
nhân văn của người Việt Nam. Khi nghiên cứu văn học dân tộc, nhất là văn học
trung đại Việt Nam chúng ta không thể nào quên nền văn học Phật giáo và đặc biệt
là mảng thơ Thiền. Đó là một bộ phận trong mạch thơ dân tộc Việt, vừa trữ tình
vừa chuyển tải đạo lý, truyền đạt những tư tưởng nhân văn mang có giá trị vượt
thời gian và vượt qua giới hạn của một dân tộc, một quốc gia để góp vào những
giá trị chung của văn hóa thế giới.
Thơ Thiền Việt Nam thường được sáng tác bởi các thiền sư như Khương
Tăng Hội, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Ngô Chân Lưu, Mãn Giác, Khánh Hỷ,
Cẩm Thành, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang, Hương Hải…, các
bậc nguyên thủ quốc gia như Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,
Minh Tông và một số các nho sĩ thấm nhuần tư tưởng Phật học … Trường phái thơ
Thiền cực thịnh vào thời Lý - Trần, trầm lắng sau Trúc Lâm Tam Tổ (đầu thế kỷ
XIV), phục hưng vào cuối thế kỷ XVIII và tiếp tục hiện đại hóa.
Thơ thiền là một bộ phận chiếm số lượng không nhỏ và vị trí vô cùng quan
trọng trong toàn bộ những sáng tác thành văn thời trung đại. Tìm hiểu về con
người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam sẽ giúp chúng ta có cái nhiều sâu sắc
hơn về mảng thơ độc đáo này: Con người trong thơ Thiền có đặc điểm gì? Nó có
thống nhất với quan niệm về con người trong văn học trung đại nói chung hay
không? Và nó có gì khác so với con người trong truyện Nôm, ngâm khúc…?

1


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
1.
1.1.



Những tiền đề lí luận chung
Khái lược quan niệm nghệ thuật về con người
Con người luôn là đối tượng phản ánh trung tâm của văn học từ xưa đến
nay. Dù là tác phẩm trữ tình, tự sự, kịch, dù trực tiếp hay gián tiếp thì văn học đều
miêu tả con người. Văn học là nhân học, do đó ta không thể lí giải một hệ thống
thơ văn mà bỏ qua con người được thể hiện ở trong đó.
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả
năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn.
Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng
ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ nói chung
và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn
còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau.
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là
một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm
cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[5;15]
Tức, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con
người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con
người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho
các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình
tượng nghệ thuật trong các tác phẩm.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách
nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà
văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật
ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình
thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các
phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành
thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”

2


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên
đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là
cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn.
Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ
cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay
cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.
Chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung
phản ánh cũng như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự
vận động của con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm nghệ thuật
của các tác giả về con người trong văn học. Nói cách khác, nếu bỏ qua quan niệm
nghệ thuật về con người sẽ dẫn tới cách hiểu đơn giản về bản chất phản ánh của
nghệ thuật, hạ thấp yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ của nghệ thuật. Cho nên, tìm
hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là điều hết sức quan trọng.
Con người trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú. Nó khác biệt
với con người trong văn học dân gian hay văn học hiện đại. Trong mỗi thể loại
thuộc văn học trung đại lại có một cách quan niệm và biểu hiện con người riêng,
con người trong ngâm khúc không giống với con người trong truyện Nôm, con
người trong thơ Thiền sẽ khác với con người trong thơ Nôm luật Đường…
1.2. Vài nét về thiền và thơ thiền
1.2.1 Thiền
Thiền là một thuật ngữ quan trọng trong tư tưởng của Phật giáo, xuất phát từ
một từ Trung Hoa “Chan” (Thiền) hay “Channa” (Thiền na), nó được phiên âm
theo Ấn ngữ từ chữ Dhyana hoặc Jhana. Dhyana thường được dịch là “tịnh lự” và
đại khái có nghĩa là quá trình trầm tư, chiêm nghiệm về một vấn đề, hiện tượng,
quan điểm nhân sinh nào đó đến mức thuần ngộ một cách thấu triệt.
Trong một ý niệm về Thiền, Thiền sư Vô Ngôn Thông (Việt Nam) đã phát

biểu: “Thiền hay Thiền sư không phải là cái gì có thể định nghĩa được, như cây
thoan lư kia, nhìn thẳng vào đó thì thấy ngay, khỏi cần qua trung gian ngôn ngữ
3


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
và khái niệm. Thiền là sự tỉnh thức, sự linh hoạt trong thế giới thực tại, chỉ có thể
thể nghiệm mà không thể đàm luận và giảng giải.”
Ở Trung Quốc từ xưa vẫn gọi chung các tông phái chuyên tâm tọa thiền là
Thiền tông. Nhưng từ đời Đường về sau, tông Đạt Ma hưng thịnh thì Thiền tông là
chỉ riêng cho tông Đạt Ma. Đây là tông phái Đại thừa tôn ngài Bồ Đề Đạt Ma làm
Sơ Tổ, chủ trương "kiến tính thành Phật". Thành Phật là kết quả của tự biết bản
tâm, tự thấy bản tính (tự thức bản tâm, tự kiến bản tính), bởi lẽ tự tâm chính là
Phật tính.
Phương pháp truyền thừa của Thiền tông là lấy tâm truyền tâm, truyền riêng
ngoài giáo (dĩ tâm truyền tâm, giáo ngoại biệt truyền). Thành Phật là do giác ngộ
tự tính, tự tính mê thì Phật tức chúng sinh, tự tính tỏ ngộ thì chúng sinh tức Phật
(tự tính mê, Phật tức chúng sinh; tự tính ngộ, chúng sinh tức Phật). Thành Phật do
ngộ một niệm trong sát na, chứ không do công phu tọa thiền lâu dài.
Mặt khác, Thiền tông cũng chủ trương “bất lập văn tự”, vì ngôn ngữ văn tự
không có giá trị tuyệt đối, không diễn tả được hết những khái niệm trừu tượng về
tâm linh, huống chi nó cũng là vật ngoài tự tâm. Không chấp trước ngôn ngữ văn
tự mà phải rời bỏ nó để đạt tới chân lý, để ngộ đạo.
1.2.2. Thơ Thiền
1. 2.2.1. Khái niệm thơ Thiền
Từ xưa đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về thơ Thiền. Có ý kiến
cho rằng thơ Thiền chỉ bó hẹp trong những bài kệ nhằm nêu lên một triết lí Thiền,
một quan điểm Thiền hay một bài học Thiền nào đó. Ý kiến khác lại cho rằng, thơ
Thiền bao gồm cả kệ và các bài thơ tức cảnh sinh tình của các nhà sư nhằm nêu
lên một triết lí quan niệm Thiền. Một luồng ý kiến lại định nghĩa thơ Thiền với

một ngoại diên rộng hơn, cho là thơ Thiền là thơ của các nhà sư và của cả những
người không tu hành nhưng am hiểu và yêu thích Phật giáo, thơ của họ thường
trực tiếp hoặc gián tiếp nêu lên một triết lí, bài học hoặc một trạng thái cảm xúc,
4


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
tâm lí Thiền. Nguyễn Phạm Hùng trong luận án PTS “Vận dụng quan điểm thể
loại vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lý – Trần” đã tổng kết quan
niệm về thơ Thiền như sau: “Thơ Thiền là các bài kệ, là thơ bao gồm cả kệ và thơ,
nêu lên một triết lý, một quan niệm Thiền hay một bài học Thiền nào đó, hoặc vừa
ảnh hưởng Thiền vừa mang rung động thi ca có tính trần thế. Thơ Thiền là thơ
cuả các nhà sư và của cả những người không tu hành nhưng am hiểu và yêu thích
triết lý Phật giáo, bày tỏ trực tiếp hay gián tiếp triết lý, cảm xúc hay tâm lý
Thiền”.
Thơ Thiền phản ảnh toàn bộ tư tưởng thiền học, có thể nói đó là kết quả của
sự hội ngộ, dung hợp giữa thiền và thơ. Phần lớn Thơ Thiền là những bài kệ, hoặc
là vấn đáp giữa sư phụ và môn đệ cốt để khai thông trí tuệ. Nhiều bài khô khan
nghiêm khắc như kinh tụng, nên Thơ Thiền còn được gọi là Kệ có nghĩa là ca
ngợi, tụng tán, dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ
tử. Nhiều khi những câu trả lời còn có dạng công án không trực tiếp liền nghĩa với
câu hỏi như trong bài Tham đồ hiển quyết (Chỉ rõ bí quyết đạo thiền cho môn đệ)
của Viên Chiếu về Phật và Tánh. Sư đáp ở hai câu đầu:
Ly hạ trùng dương cúc (Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu)
Chi đầu thục khí oanh (Xuân ấm về, oanh náo đầu cành)
Nhưng cũng có nhiều bài thơ bay bổng sống động như bài sau đây của
Thiền sư Ðạo Nguyên:
Bãi sông sóng lặng
Trong cây gió yên
Thuyền ai ngủ bến

Trăng tròn nửa đêm
Trăng sáng vằng vặc
Dẫu có nhiều quan niệm khác nhau về thơ Thiền, nhưng tất cả đều giống
nhau ở chỗ cho rằng mọi quan niệm nhận thức thơ Thiền đều xuất phát từ tiêu chí
nội dung phản ánh của thơ Thiền: “Từ việc biểu đạt một nội dung xác định, thơ
Thiền lựa chọn cho mình những đề tài, chủ đề phản ánh riêng. Nó không đề cập
5


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
tới cuộc sống nói chung mà đề cập tới một phạm vi nhất định của cuộc sống có
ảnh hưởng Phật giáo. Nó không bộc lộ thái độ của tất cả mọi người nói chung
trước cuộc sống mà là thái độ của những con người ảnh hưởng tư tưởng Phật
giáo với cuộc sống hiện thực” (TS. Đoàn Thị Thu Vân)
1.2.2.2. Đặc điểm của thơ Thiền
Tác giả Đàm Chiêu Văn ở Trung Quốc nhận xét: “Giá trị chủ yếu của thơ
thiền là ở phương diện văn hóa, triết học”. Nhận định trên là đúng, tuy nhiên, sẽ
chưa đủ nếu chúng ta phủ nhận đi giá trị văn học của thơ thiền. Trần Đình Sử trong
một công trình nghiên cứu đã nêu lên những tính chất của thơ thiền: “Thơ thiền,
xét như một loại thơ, nó phải có ba tính chất: một là truyền đạt được cách cảm
nhận thế giới của thiền học, sự nhận thức về huyễn ảo và chân như, có thế nó mới
là thiền. Hai là bộc lộ được vẻ đẹp vủa thế giới và tâm hồn, như thế nó mới là thơ.
Những tác phẩm nặng về tính chất một thì ít chất thơ. Những tác phẩm nặng về
tính chất thứ hai làm thành nét độc đáo của thơ thiền. Thứ ba, thơ thiền là thơ của
tầng lớp tăng lữ cấp cao, tầng lớp trí thức đặc biệt, không giống với tình cảm Phật
giáo dân gian”.
Xuất phát từ chỗ, mục đích của một bộ phận quan trọng thơ Thiền là sự ngộ
đạo và truyền đạo nên nó mang một nội dung riêng biệt. Để thể hiện cái nội dung
dị biệt đó, Thơ Thiền được làm theo những bút pháp nghệ thuật riêng.
- Thơ Thiền là kinh nghiệm tu chứng của Thiền sư, là thời khắc sáng loà của

tâm thanh tịnh, an nhiên, đạt tới thực tại vô tướng, thể tính chân như của hiện hữu.
Ánh sáng của sự chứng ngộ ấy tạo nên cái đẹp thơ. Để thể hiện nó thơ Thiền chú
trọng lựa chọn các lớp từ ngữ, những điển cố, điển tích nhà Phật. Ngôn ngữ nhà
Phật trở thành một bộ phân quan trọng của thơ Thiền, đánh dấu một loại chất liệu
nghệ thuật có tính riêng biệt.
Thơ Thiền sử dụng một số diễn tả đã thành “điển” của Phật giáo, như điển
hoá Thiền thoại; diễn tả cái Có và cái Không nhị nguyên bằng những chữ như
6


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
“sát” (giết chết) và “hoạt” (cho sống), “đoạt” (cướp lấy) và “dữ” (ban cho), “xúc”
(khẳng định) và “bối” (phủ định), bằng từ vựng Phật giáo như “khổ”, “dục”, “vô
thường”, “vô ngã”, “tâm”, “an nhiên thanh tịnh” v.v...
Ta gặp hình ảnh diễn tả tư tưởng Phật quen thuộc như: Tất cả các pháp là
hữu vi, đều giống như “sao đêm” (tinh), như “mắt loạn” (ế), như “ngọn đèn”
(đăng), như “huyễn thuật” (ảo), như “sương mai” (lộ), như “bọt nước” (bào), như
“cơn mộng” (mộng), như “ánh chớp” (điện), như “đám mây nổi” (vân).
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi”
(Vạn Hạnh Thiền sư)
Những hình ảnh quen thuộc ấy có nghĩa riêng của giáo lý Phật. Tinh tú biểu
tượng cho cái thấy. Mắt bệnh là ví dụ cho tướng của đối tượng. Ngọn đèn là thức
uẩn. Huyễn thuật là cư xứ, chỉ khí thế gian, Sương mai là ví dụ cho thân thể. Bọt
nước là thọ dụng. Chiêm bao là thời gian quá khứ. Điện chớp là thời gian hiện tại.
Vầng mây là thời gian vị lai.
- Thơ Thiền được viết bằng kiểu ngôn ngữ vô ngôn, xuất phát từ cách sử
dụng ngôn ngữ của các Thiền sư. Đối với Thiền, ngôn ngữ được xem là lừa dối và

sai lạc để thấu hiểu chân lý. Kinh Kim Cang viết “Vô pháp khả thuyết thị danh
thuyết pháp” (thuyết pháp là: không có pháp nào có thể thuyết ấy là thuyết pháp).
Thực tại vô tướng, thể tính chân như không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, hay bằng ý
niệm. Vì thế đọc thơ Thiền, người đọc phải tìm ra cách nói của tác giả, nắm lấy
diệu lý Thiền, vượt qua ngôn ngữ. Các Thiền sư phải trải qua vô số thử thách ê chề
mới đạt tới được tuyệt kỹ này.

7


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
- Thơ Thiền chú ý việc lựa chọn những kiểu câu riêng, rất yêu thích các loại
câu phủ định. Các biện pháp tu từ trong thơ Thiền cũng mang dấu hiệu riêng. Các
biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, ước lệ… được hình
thành trong quá trình trực giác, gắn bó thường xuyên với sự giải thích tư tưởng nhà
Phật. Thơ thiền thể hiện những giây phút đốn ngộ, giác ngộ chân lí, nên nó chuộng
các thể thơ ngắn, hàm súc. Các câu thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ rất phù hợp cho hình
thức nghệ thuật ám thị “ngón tay chỉ trăng” thường thấy trong thơ Thiền.
Lớp nghĩa tư tưởng diễn tả sự chứng ngộ của tác giả về Chân Như, và lớp
nghĩa nghệ thuật do hệ thống hình tượng thơ gợi ra. Lớp nghĩa này được hiểu theo
cách hiểu của cộng đồng, bằng tri thức, văn hoá thẩm mỹ của cộng đồng. Hai lớp
nghĩa này có khi đồng nhất, có khi là riêng biệt, tuỳ theo cách sử dụng kiểu ngôn
ngữ của Thiền sư. Nếu ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ dạy đệ tử, lời dạy trực tiếp cho
người chưa chứng ngộ, đó là kiểu ngôn ngữ đời thường, hai lớp nghĩa này thường
đồng nhất. Nếu Thiền sư biểu lộ sự chứng ngộ, thì đó là kiểu ngôn ngữ vô ngôn, là
tiếng kêu vô nghĩa. Lúc ấy, nghĩa tư tưởng và nghĩa nghệ thụật là tách biệt, có khi
không có quan hệ gì với nhau. Vì thế những cách đọc bằng phương pháp truyền
thống, phân tích nhân vật trữ tình, phương pháp Tiểu Sử, Phân Tâm Học, Phản ánh
Luận, Cấu Trúc Luận… đôi khi bất lực trong việc giải mã thơ Thiền.
- Thơ thiền có tính trực giác. Do đặc điểm giải ngộ chân lí thiền, nhưng vì

khó có thể diễn đạt một cách trực tiếp để người khác hiểu nên nhà thơ - thiền sư
phải thông qua những hình ảnh bộc phát, bất ngờ lóe lên mà mình nắm bắt được
trong cuộc sống thực tế thiên hình vạn trạng để nêu lên quan niệm của mình. Tuy
nhiên, do triết lí thiền thì hữu hạn trong khi cái dùng để tượng trưng thì vô hạn nên
sự lí giải triết lí thiền không bền vững, nhất quán mà luôn nhiều màu nhiều vẻ. Đó
là chưa kể với các nhà sư khác nhau, sự ngộ giải khác nhau, vốn hiểu biết khác
nhau và cách thể hiện khác nhau thì việc diễn đạt là vô cùng phong phú. Do đó,
không có một chiếc chìa khóa chung để giải mã thơ thiền mà cần phải có sự trải
nghiệm, nhưng cũng cần hiểu rằng cùng một triết lí thì cách lí giải thường ít nhiều
có một sự tương đồng nào đó. Nói như vậy để thấy rõ tầm quan trọng của trực giác
8


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
trong việc lãnh hội yếu chỉ thiền học và trong việc tiếp nhận thơ thiền. Như vậy,
mục đích của thơ thiền là ghi lại sự giác ngộ thiền lí, nhưng không phải bao giờ nó
cũng phát ngôn trực tiếp cho tư tưởng thiền mà thường mượn hình ảnh của thế giới
vật chất để thể hiện. Vì thế nhiều bài thơ thiền rất sinh động, giàu hình ảnh, âm
thanh, đường nét, màu sắc.
Thơ thiền là một nhánh độc đáo của truyền thống thi ca. Xét về phương diện
thơ, nó không thể bằng sáng tác của các nhà thơ bậc nhất. Nhưng xét về phương
diện văn hóa, triết học, thơ Thiền là tiếng thơ độc đáo, giàu tính triết mĩ và chất
nhân văn về con người, cuộc đời… Chính bởi vậy, con người trong thơ Thiền - bên
cạnh một số đặc điểm chung của mẫu hình con người văn học trung đại - còn
mang nhiều nét riêng biệt, đặc trưng cho sự hội ngộ, dung hợp giữa Thiền và thơ
của dòng thơ này.
2. Con người trong thơ thiền trung đại Việt Nam
Vấn đề con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Trong Quan niệm về con người trong thơ thiền
Lý – Trần, TS. Đoàn Thị Thu Vân đã xác định bốn quan niệm biểu hiện là: 1- Con

người tự do, 2- Con người vô ngã, 3- Con người vô ý, 4- Con người vô ngôn. Tác
giả kết luận bốn quan niệm này đều hướng đến Con người vũ trụ. Nguyễn Phạm
Hùng trong chuyên luận Thơ thiền Việt Nam – những vấn đề nghệ thuật và tư
tưởng lại chia hình ảnh con người trong thơ thiền ra làm hai loại lớn: Con người
Phật giáo và con người cá nhân. Trong con người Phật giáo có bốn tiểu loại: 1 –
Con người tự do, 2- Con người vô ngã, 3- Con người vô ngôn, 4- Con người vũ
trụ. Tác giả Lê Thị Ngọc Hạnh trong luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa nhân văn và tư
tưởng giải thoát trong thơ thiền thời Lý-Trần (2003) đã nêu ra các cặp đối sánh
như sau: 1- Con người nhân văn – con người và Phật tính thường hữu trong tâm,
2- Con người tự do cá nhân – con người vô ngã, 3- Con người trần tục – con người
đời - đạo không hai. Các cách phân loại như vậy đều dựa trên nguyên tắc tiêu chí
riêng và giới hạn sự phân loại ấy trong phạm vi tham chiếu nhất định, chẳng hạn
như tiêu chí về triết học thiền tông (vô ngã, vô ý, vô ngôn, tự do…), tiêu chí về
chức năng tôn giáo (con người Phật giáo và con người cá nhân), tiêu chí về đối
9


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
sanh trào lưu văn học với đặc điểm nội dung thể loại (chủ nghĩa nhân văn và tư
tưởng giải thoát…).
Trong thơ Thiền, ngoài một số bài thơ trực tiếp đề cập đến triết lí Thiền mà
qua đó người đọc dễ dàng phát hiện ra quan niệm về con người của các nhà thơ,
hình tượng con người thường được khám phá đầy bất ngờ và thú vị qua nhiều bức
tranh khác nhau về cuộc sống, qua một tiếng chuông, một mặt hồ yên lặng, mát
mẻ, hay một khoảng đất thơm mát cỏ hoa…Theo ý kiến của chúng tôi, con người
trong thơ Thiền trung đại được biểu hiện như sau:
2.1 Con người tự do, phá chấp
Đó là những con người tự giải phóng cá tính của bản thân ra khỏi các giáo
điều cứng nhắc, ràng buộc mà thiền học gọi là “chấp”. Đây thực chất là sự phá bỏ
những trói buộc của con đường mòn tư duy, giải phóng con người đến một khoảng

không bao la của tự do trí tuệ. Các nhà thơ Thiền kịch liệt đả kích vào cái nhìn nhị
nguyên phân biệt tốt – xấu, mê – ngộ, phàm – thánh…, cho đây là vọng kiến, là
vòng dây con người tự buộc lấy mình để cứ mãi vất vả phấn đấu trở thành cái này
mà không phải cái kia và cứ mãi đau khổ vì hiện thực không như ý. Chính ở tinh
thần nhân văn cao đẹp này mà thơ thiền Lý- Trần đã tạo nên những con người phi
thường về nhân cách và ý nghĩ: vừa làm vua, vừa làm tướng đuổi giặc lại vừa làm
thiền sư, ẩn sĩ, nhà thơ; làm đến vương hầu mà coi công danh như phù vân, lìa bỏ
ngai vàng như trút bỏ chiếc giày rách…
Đặc biệt, trong tinh thần “phá chấp” triệt để ấy, con người cảnh giác cả với
giáo lí, kinh điển của Phật, của Tổ, tự tìm lấy cách sống, hành động phù hợp với
mình. Huệ Năng đã không ngần ngại giễu những ai vọng ngoại sang Tây Trúc:
“Nếu ai cũng sang đấy cả thì chỗ đâu mà ở?”. Hay Trần Tung, trong bài Ngẫu tác
đã viết:
“Giữa nhà không khói chỉ ngồi yên
Nhàn lắm Côn Lôn sợi khói lên
Lúc mệt mỏi thời tâm tự tắt
Cần chi niệm Phật với cầu thiền”
10


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
Con người trong thơ Thiền đói thì ăn, buồn ngủ thì nằm ngủ, tùy duyên tùy
ngộ, thuận ứng nhẹ nhàng:
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Có báu trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”
(Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân Tông)
Con người tự do trong thơ thiền khao khát được tiêu dao tự tại, giải thoát
khỏi mọi hữu hạn trần tục để đạt đến được cái tuyệt đối của thế giới. Văn học

thiền, do thế, hay nói nhiều đến sự hòa đồng với tự nhiên, trần thế. Tựa như cái
cảnh “Thú quê nào chán suốt ngày vui”, “Ngư ông say ngủ không ai gọi” trong
thơ Không Lộ thiền sư; hay tâm thế “hồn nhiên người với hoa vô biệt” trong Hoa
cúc của Huyền Quang.
Thiền sư Dương Không Lộ đã cho thấy tư thái ung dung tự tại, không bị
cuốn vào vòng xoáy của cuộc đời:
Trời xanh nước biếc muôn trùng
Một thôn sương khói một vùng dâu đay
Ông chài ngủ tít ai lay
Quá trưa tỉnh dậy tuyết bay đầy thuyền
Tác giả đã thể hiện phong thái thong dong, sống hết mình trong hiện tại,
không chút lo lắng, ưu phiền trước những nghịch cảnh chông gai, tránh xa những
bận bịu lo toan trong cuộc sống. Họ sống vô vi nên có được sự an nhàn tự tại.
Cần thấy rằng tự do ở đây là tự do hướng nội, nghĩa là con người tự do vứt
bỏ tất cả để tạo lập một thế giới riêng thanh cao cho riêng mình. Nó thuận theo lí
tưởng tha thiết của Thiền tông là “nở đóa sen vàng trong lò lửa”. Theo đó, đời đối
với họ chỉ là cái lò lửa thiêu đốt con người, là địa ngục trần gian của con người.
Nếu giác ngộ thì sẽ là đóa hoa tươi trong cái lò ấy, và là đóa hoa vàng ròng, lửa

11


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
không làm hủy hoại được. Đó là khi họ đã trở thành con người siêu nghiệm, đứng
ngoài sinh, diệt, đau khổ.
2.2. Con người vô ngã
Vô ngã là một trong những phạm trù căn bản của Phật giáo, liên quan đến
nhận thức bản thể và cách thế hành trì. Vô ngã được Phật giải thích qua sự phủ
định cái Ngã. Giáo thuyết vô ngã của đức Phật khi gắn kết vào văn học đã nhanh
chóng trở thành một yếu tố có tính triết mỹ rất sâu sắc. Dưới góc độ Phật giáo, con

người vô ngã bởi căn bản thế giới là duyên sinh. Dưới góc độ Lão giáo, vô ngã lại
gắn với nguyên lý “tề vật”, “tương vong”, “tương hóa” của con người. Trong khi
đó, Nho giáo cũng hướng về vô ngã từ điểm nhìn “nhân, lễ, nghĩa” và những
nguyên tắc ứng xử cộng đồng theo lối sống phương Đông. Khi ba hệ giáo thuyết
này hòa quyện, tiếp biến lẫn nhau thì nội dung của cái vô ngã càng trở nên đa diện
và lấp lánh hơn.
Tính chất vô ngã của con người trong thơ thiền tập trung vào các điểm cơ
bản sau:
- Không hứng thú thể hiện quan hệ xã hội và đời thường: chú tâm vào thiên
nhiên và trật tự của chính tự nhiên.
- Hướng tới đồng nhất tâm mình và tâm vạn vật: tập trung nhiều ở bài thơ
đề cao ý cảnh, tâm cảnh…
- Nhân vật trữ tình chìm khuất trong cảnh, lặng lẽ trong tình: đặc tính này
có thể thấy ở hầu hết tất cả những bài thơ thiền kể cả thiền ý hay thiền lý.
Con người vô ngã đề cao “sự quên”. Quan trọng nhất là quên bản thân mình,
như nhà thơ Huyền Quang đã nói: “Vong thân vong thế dĩ đô vong”. Tiếp đó là
quên ngày, quên tháng, chỉ nhìn thiên nhiên biến đổi trước mắt mà biết thời tiết.
Để làm được điều này, con người hóa thân vào vũ trụ, vào thiên nhiên, cả người,
cả vật thành cái “một” của vũ trụ “nhất nhật tùng chi võng nguyệt minh”.
Trước bao la của đất trời, trước cái mênh mông vô hạn, con người Thiền
quên hết mọi ưu phiền và quên cả những lời tâm sự, để hòa nhập vào vũ trụ, vào
cõi không thật sự - vào cõi Chân Như:
12


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
“Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa, mây núi cuốn,
Râm nắng, ngõ hoa lồng

Muôn việc nước theo nước,
Trăm năm lòng bảo lòng
Tựa hiên nâng sáo ngọc,
Ngực áo, đầy trăng trong”
(Lên núi Bảo Đài – Trần Nhân Tông)
Con người lặng yên hứng trăng đầy cả ngực đã mang đến cho thơ ca một
luồng sinh khí và mở rộng cảm xúc đến vô hạn. Chỉ có những giây phút ấy, con
người mới thăng hoa, mới giải thoát khỏi những ràng buộc hữu hạn của đời người
ngay chính nơi trần thế.
Nói đến vô ngã, lâu nay nhiều khi người ta vẫn ngộ nhận về nội hàm khái
niệm này. Tinh thần “vô ngã” không mang ý nghĩa phi nhân bản với cách hiểu xóa
bỏ con người cá nhân mà chính là yêu cầu giải phóng tuyệt đối với con người.
Theo đó, con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc của tự nhiên, xã hội và
của cả chính bản thân mình, đạt đến sự tự do tuyệt đối. Đây cũng chính là một khía
cạnh tinh thần “phá chấp” ở cấp độ cao- phá bỏ cái “chấp” khó phá bỏ nhất là
“chấp ngã”- khư khư bám vào cái tôi nghe, cái tôi nghĩ, cái tôi cảm…Con người
vô ngã vượt lên mọi sự tranh chấp tốt- xấu, phải- trái, lành- dữ…để đạt đến cái
tâm bình đẳng và cái nhìn độ lượng đối với vạn vật.
2.3. Con người vô úy
“Vô úy” nghĩa là không sợ hãi. Con người vô úy trong thơ thiền là con
người siêu nghiệm, đứng ngoài sinh diệt, đau khổ. Trước sự tàn phai, biến ảo của
cuộc đời, con người vẫn kiên nghị “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi/ Kia kìa ngọn
cỏ gió sương đông”. Hành động tiêu biểu của con người vô úy là họ coi biến đổi
như không, không sợ hãi, không kinh ngạc, đặc biệt điềm nhiên, bình thản trước
13


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
cái chết của chúng sinh và của cả chính mình. Đó là những con người “dĩ bất biến
ứng vạn biến”. Tựa như bài kệ của Mãn Giác thiền sư:

“Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn, hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”.
Phẩm chất vô úy của con người thiền có cơ sở từ trí huệ nhận biết thực tại và
tinh thần đại dũng vượt qua cái giả tạm của thực tại đó, nhằm tiến tới sự tỉnh thức.
Nhờ thấm nhuần tư tưởng triết lý Phật giáo mà đa số các tác giả thơ Thiền đều có
chung quan niệm về con người, về sự hiện hữu – sinh diệt của đời người. Sự biến
đổi vô thường là bản chất của cuộc sống con người với đầy đủ các giai đoạn sống,
từ tuổi bập bẹ thuở ấu thơ, trưởng thành rồi già yếu và chết đi để tiếp tục một cuộc
đời mới, một kiếp sống mới. Chẳng thế mà có người cho rằng, thân con người ta
sống ở đời và chết đi trong đời cũng như chiếc áo, cũ tất phải thay, không có gì
phải hoang mang, sợ hãi.
Tinh thần vô úy (không sợ) là một năng lực tâm linh không phải ai cũng đạt
tới, nhưng lại nhất thiết đòi hỏi ở những người bước chân vào thiền môn. Vô úy là
để thực hành nhẫn nhục quảng đại, để kiên tâm tinh tấn vượt qua thử thách, và để
sống an lạc giữa cuộc đời nhiều đau khổ.
Điều này đã được các Thiền sư nhắc đến như một lời cảnh giác đối với
những người đang sống trong dòng đời biến diệt. Thiền sư Vạn Hạnh, đã dạy đệ tử
mà chẳng khác nào một lời tâm sự:
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”
14


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam

Thân người được Thiền sư ví với những hình ảnh mong manh, dễ đổi thay
như ánh chớp trong chiều tà hoang phế, như giọt sương long lanh trên đầu ngọn cỏ
buổi sớm mai. Thân ngũ uẩn giả hợp, như sương mai, như ánh chớp, có đấy rồi
không đấy, rất vô thường. Thêm nữa, Thiền sư nhắc đến cái vòng tuần hoàn của
thế gian, xuân vinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. Tuy bề ngoài có lúc tươi, lúc
héo, lúc xuống, lúc lên như sóng nước vô hạn tràn đầy vũ trụ. Người tỉnh thức là
người biết mình đang sống giữa cuộc đời biến chuyển, biết rằng mình ngày một
già đi theo năm tháng thời gian. Không chấp trước vào đâu nên thông suốt, vô
niệm, quân bình, thông hiểu cuộc đời này tuy có thăng trầm nhưng nhờ có nó mà
vẻ đẹp cuộc sống có giá trị cao hơn cả. Biết được như vậy là nhờ hiểu đạo Phật,
con người trong thơ Thiền không hề sợ hãi khi phải đối mặt với sanh – tử, hợp –
tan. Con người hiện hữu hôm nay và biết rằng ta sống cho hôm nay, không màng
đến quá khứ, tương lai mà ảo vọng đảo điên.
Một cái nhìn thầm lặng nhưng hùng tráng, đơn sơ mà trác tuyệt của các vị
Thiền sư, các tác giả thâm ngộ triết lý đạo Phật. Không những đã thoát mình ra
khỏi tù túng của thế giới hiện tượng mà còn nhập được với cái toàn chân, toàn
thiện, toàn mỹ của muôn thuở. Họ không lý luận để nhìn thấy lẽ vô thường của
cuộc đời mà đã nhìn thấy như thật, rõ ràng nhưng một cộng một là hai. Từ đó, họ
sống một cuộc sống tự tại.
Thân như tường vách đã lung lay
Lật đật người đời những xót thay
(Viên Chiếu )
Có gì phải sợ hãi, đau khổ khi “Thân là nguồn sinh diệt”? Có đó, rồi mất đó.
Vốn từ không tịch, ảo thân sinh
Như ở trong gương hiện bóng hình
Hình bóng vẫn rằng “không” hết thảy
Ảo thân, tướng thật, chứng rành rành”.
(Kiều Bản Tịnh)
2.4. Con người vô ngôn
15



Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni trước khi tịch diệt, đã nói rằng: “Cả cuộc đời
hoằng dương hoá độ chúng sanh, ta không hề nói một lời nào”. Trên pháp hội
Linh Sơn, ngài Ca Diếp cũng lãnh hội được yếu chỉ Thiền Tông bằng hình ảnh
“niêm hoa vi tiếu”. Đây là tinh thần vô ngôn của Phật giáo. Vì thân người là hữu
hạn nên không thể hiện được chân lý vô cùng, lặng yên không nói mà bày tỏ được
tất cả, “dĩ tâm truyền tâm” là phương châm được đề cao tuyệt đối, ngôn ngữ chỉ là
phương tiện, như “ngón tay chỉ mặt trăng” mà thôi. Cái trực cảm, giao cảm không
cần thông qua ngôn ngữ, lý trí. Họ đề cao sự tự tu, tự chứng bằng sự trải nghiệm
của tự thân chứ không nương tựa và kẻ khác.
Rất nhiều phút giây yên lặng không nói được bắt gặp trong thơ thiền Lý
Trần. Lên chơi núi Bảo Đài, Trần Nhân Tông vừa ngoạn thưởng cảnh thiên
nhiên thơ mộng “núi mây phủ vừa xa vừa gần, con đường hoa nửa sáng nửa tối”,
vừa thâm trầm chiêm nghiệm việc đời “vạn sự như nước trôi theo nước, trăm năm
lòng nhủ với lòng”. Nhưng cuối cùng không phải là một lời đúc kết mang tính triết
lý nào mà chỉ là một sự lặng yên “đứng tựa lan can cầm ngang ống sáo” để “đón
nhận ánh trăng sáng đầy cả ngực…”. Bằng vô ngôn ấy, nhà thơ đã nói được rất
nhiều với tha nhân.
Con người vô niệm, vô ngôn hay vô ngã đều giải phóng tuyệt đối con người
với mọi ràng buộc với ngoại cảnh và với chính bản thân mình. Con người vô ngôn
trong thơ thiền mặc cho giây phút đại ngộ đến một cách tự nhiên, vô ý:
“Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy hữu tùng phong họa thử âm”
(Tạm dịch: Khúc nhạc trong lòng ta đã hình thành mà không ai biết.Chỉ có
gió trên cây thông là họa được âm thanh ấy)
(Tự thuật - Trần Thánh Tông)
Chính mĩ học “vô ngôn” này và sự xuất hiện con người vô ngôn trong thơ
mà thơ thiền thường yên tĩnh và hay thể hiện một tình yêu sự yên tĩnh, sự sáng

suốt, sự vững vàng. Từ trong yên tĩnh, con người cảm nhận vẻ đẹp cuộc đời qua
trực giác vô tư. Đúng như nhà mĩ học Trung Quốc Tôn Bạch Hoa đã nhận xét:
16


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
“Thiền là cái cực tĩnh trong cái cực động, cũng là cái cực động trong cái tĩnh
động tĩnh không chia hai, tìm thẳng tới cội nguồn sự sống”.
Con người trong thơ Thiền luôn có xu hướng muốn đạt đến một con người
vũ trụ và mang được tất cả sức mạnh, cái tự do và cái tuyệt đối của vũ trụ. Ấy là
con người được giải thoát khỏi những ràng buộc hữu hạn của thế giới trần thế ngay
chính nơi trần thế. Chủ trương tự do, phá chấp hay tinh thần vô ngã, vô úy, vô
ngôn đều là những phương tiện nhằm đạt đến muc đích này.
Kết luận
Là một bộ phận quan trọng của văn học Trung đại, thơ thiền đã xây dựng
được một thế giới nghệ thuật mới lạ và đầy sức thu hút. Mới lạ ở chỗ các tác giả đã
đưa vào văn chương những nội dung triết học - tôn giáo sâu sắc, trong đó, con
người có những cảm thụ, nhận thức về thiên nhiên, không gian và thời gian cuộc
sống theo cách nhìn của riêng mình mà không phải ai cũng có thể lí giải được. Còn
thu hút ở chỗ những triết lí đó được chuyển tải bằng một hệ thống hình ảnh phong
phú và giàu ý nghĩa. Khám phá ra ý nghĩa ẩn đằng sau những hình ảnh đó, người
đọc sẽ cảm thấy lí thú và vô cùng khoan khoái.
Con người trong thơ thiền mang những nét riêng biệt, không dễ nhầm lẫn
với con người trong các dòng thơ khác. Xưa nay, con người trong thơ thiền vẫn là
một bí ẩn. Cách phân chia như trên chỉ mang tính tương đối. Xét về sâu xa, 4 đặc
điểm về con người trong thơ thiền đã nói trên, bao gồm: con người tự do, con
người vô ngã, con người vô úy và con người vô ngôn không tách biệt nhau. Sự phá
chấp hay tinh thần vô ngã, vô úy, vô ngôn… đều nhằm đạt đến mục đích mang lại
sự tự do tuyệt đối cho con người, đưa con người đạt đến tầm con người- vũ trụ: tức
là con người hòa điệu với vũ trụ, mang tất cả sức mạnh, cái tự do và cái tuyệt đối

của vũ trụ. Ý nghĩa nhân văn cao đẹp của hình tượng con người trong thơ thiền là
chính ở đó.
Tuy nhiên, khám phá thơ thiền nói chung và tìm hiểu con người trong thơ
thiền nói riêng quả không là một điều đơn giản. Nếu cảm thụ thơ rất cần yếu tố
trực giác để nhận ra ý nghĩa ẩn chứa bên trong thơ, thì khi cảm nhận thơ thiền, yêu
17


Con người trong thơ Thiền trung đại Việt Nam
cầu này càng tăng thêm bội phần. Có như vậy, người đọc mới trực ngộ được triết lí
thiền ẩn chứa bên trong mà với tư duy logic thông thường, chúng ta sẽ không thể
khám phá được.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bảo, Thơ văn Lý Trần, NXB Giáo Dục, 1977.
2. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam thế kỉ X –
nửa đầu thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục, 2000.
3. Nguyễn Công Lý, Bản sắc dân tộc trong Văn Học Thiền Tông thời Lý –

Trần, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1997.
4. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại Học Sư
Phạm Hà Nội, 2005.
5. Trần Đình Sử, Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, Nxb ĐH sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, 1993.
6. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, 2005.
7. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo
dục, 2003.
8. Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, 2008
9. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội,

2001.
10.Lê Thu Yến (chủ biên), Văn học Việt Nam văn học trung đại những công trình
nghiên cứu, NXB Giáo dục, 2008.

18



×