Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐẠI HỌC TÂY BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.56 KB, 32 trang )

Đề cương học phần: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC
Câu 1. Cách mạng tháng 10 nga và ý nghĩa lịch sử của nó?
I. Cách mạng tháng Mười Nga 1917
1. Tình hình nước Nga trước cách mạng
Về chính trị:
Đầu thế kỉ XX Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế, đứng đầu là Nga
hoàng. Nga hoàng đã đẩy nhân dân Nga vào cuộc chiến tranh đế quốc, gây nên hậu
quả kinh tế xã hội nghiêm trọng.
Về kinh tế: lạc hậu, kiệt quệ vì chiến tranh, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, công
nghiệp, nông nghiệp đình đốn.
Về xã hội:
Đời sống của nông dân, công nhân, các dân tộc trong đế quốc Nga vô cùng cực
khổ.
Phong trào phản đối chiến tranh đòi lật đổ Nga hoàng diễn ra khắp nơi.
2. Từ Cách mạng tháng Hai đến Cách mạng tháng Mười
a. Cách mạng dân chủ tư sản tháng 2/1917
Ngày 23/2/1917 cách mạng bùng nổ bằng cuộc biểu tình của 9 vạn nữ công
nhân ở Pê-tơ-rô-gơ-rát.
Phong trào nhanh chóng chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ
trang.
Lãnh đạo là Đảng Bôn-sê-vích
Lực lượng tham gia là công nhân, binh lính, nông dân.
Kết quả:
Chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng bị lật đổ.
Xô viết đại biểu công nhân và binh lính được thành lập (tháng 3/1917 toàn nước
Nga có 555 Xô viết)
Cùng thời gian giai cấp tư sản cũng thành lập Chính phủ lâm thời.
Nga trở thành nước Cộng Hoà
Tính chất: Cách mạng tháng 2/1917 ở Nga là cuộc cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới.
Sau Cách mạng tháng Hai, Nga tồn tại 2 chính quyền song song:


Chính phủ lâm thời (tư sản).
Xô viết đại biểu (vô sản).
b. Cách mạng tháng Mười Nga 1917
* Hoàn cảnh
Sau Cách mạng tháng Hai, Nga tồn tại 2 chính quyền song song:
Chính phủ lâm thời (tư sản)
Xô viết đại biểu (vô sản)
Nên cục diện không thể kéo dài.


-

Trước tình hình đó Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã xác định cách mạng Nga là
chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa (lật đổ
chính quyền tư sản lâm thời).
Đầu tháng 10/1917 không khí cách mạng bao trùm cả nước. Lê-nin đã về nước
trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Diễn biến khởi nghĩa
Tháng 4: Lê-nin đã thông qua Đảng Bôn-sê-vích bản Luận cương tháng 4 chỉ
ra mục tiêu đường lối tiếp theo của cách mạng Nga là chuyển từ cách mạng dân
chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đêm 24/10/1917 bắt đầu khởi nghĩa.
Đêm 25/10 tấn công cung điện Mùa Đông, bắt giữ các bộ trưởng của Chính
phủ tư sản.
Khởi nghĩa Pêtơrôgrát giành thắng lợi.
Ngày 3/11/1918 chính quyền Xô viết giành thắng lợi trên khắp nước Nga rộng
lớn.
* Tính chất: Cách mạng tháng Mười mang tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa
II. Các cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền Xô viết

1. Xây dựng chính quyền Xô viết
Đêm 25/10/1917 chính quyền Xô viết được thành lập do Lê-nin đứng đầu.
Chính sách của chính quyền:

Đập tan bộ máy Nhà nước cũ, xây dựng bộ máy Nhà nước mới.

Chính quyền Xô viết thông qua:”Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất”.
Trong đó sắc lệnh hòa bình lên án cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa . Sắc lệnh
ruộng đất nhằm giải quyết ruộng đất cho nông dân.

Xoá bỏ đẳng cấp, và đặc quyền của giáo hội.

Thực hiện nam nữ bình quyền , các dân tộc có quyền bình đẳng và quyền tự
quyết .

Thành lập Hồng quân để bảo vệ chính quyền cách mạng.

Quốc hữu hóa các nhà máy xí nghiệp của giai cấp tư sản, thành lập Hội đồng
kinh tế quốc dân tối cao để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Quốc hữu hóa các
Chính quyền Xô viết đã đem lại lợi ích và bảo vệ lợi ích cho nhân dân lao động,
thể hiện tính ưu việt tiến bộ của một chính quyền mới, chính quyền của dân, do dân,
vì dân, khác hẳn và đối lập với những chính quyền cũ của giai cấp phong kiến, tư sản
ở nước Nga cũng như các nước khác ở châu Âu.
2. Bảo vệ chính quyền Xô viết
Cuối năm 1918 quân đội 14 nước đế quốc cấu kết với các lực lượng phản cách
mạng trong nước mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt nước Nga Xô viết.
Để chống thù trong giặc ngoài đầu 1919 chính quyền Xô viết đã thực hiện
chính sách “Cộng sản thời chiến”.
Nội dung của chính sách:



Thời gian

Thành tựu của Liên Xô

Thành tựu của Đông
Âu

Từ năm

– Hoàn thành kế hoạch 5 năm

1945 đến

khôi phục kinh tế, hàn gắn về

– Đến những năm
1948 – 1949, các

năm 1950

thương chiến tranh, trong 4 năm
3 tháng.
+ Công nghiệp : đến năm 1946,
khôi phục sản xuất công nghiệp
đạt mức trước chiến tranh. Năm
1950, tổng sản lượng công
nghiệp tăng 73% so với mức
trước chiến tranh.
+ Nông nghiệp : một số ngành

cũng vượt mức sản lượng trước

nước Đông Âu hoàn
thành cách
mạng dân chủ nhân
dân bước vào
thời kì xây dựng xã
hội chủ nghĩa.
– Đập tan mọi âm
mưu phá hoại của
các thế lực phản động
trong và ngoài
nước.

chiến tranh.
+ Khoa học – kĩ
thuật: Năm 1949,
Liên Xô chế tạo thành công bom
nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền
nguyên tử của Mĩ.
Từ năm

+ Năm 1950 đến 1973, Liên Xô

1950 đến

tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất

nửa đầu


kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và

những năm

đã đạt được những thành tựu cơ

70

bản như sau:
+ Công nghiệp: Giữa những năm
1970, là cường quốc công nghiệp
thứ hai thế giới, đi đầu trOng
công nghiệp vũ trụ, công nghiệp
điện hạt nhân…)
+ Nông nghiệp: sản lượng tăng

+ Hoàn thành nhiều kế
hoạch 5 năm.
+ Đầu những năm 70,
ở các nước
Đông Âu, bộ mặt đất
nước ngày
càng thay đổi, đời
sống vật chất tinh
thần của nhân dân
ngày càng thay
đổi, mọi âm mưu phá
hoại bị dập tắt.
+ Cải tạo chủ nghĩa xã



trung bình hàng năm 16%.

hội , thiết lập

+ Khoa học kỹ thuật: Năm 1957

các quan hệ sản xuất
chủ nghĩa xã

phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên
của trái đất. Năm 1961, phóng
tàu vũ trụ đưa nhà du hành
Gagarin bay vòng quanh Trái đất,

hội và xây dựng nhà
nước chuyên
chính vô sản.

+ Điển hình:
mở đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của
– Anbani trước chiến
loài người.
tranh nghèo
+ Xã hội: chính trị ổn định, trình độ học
vấn của người dân được nâng cao (3/4 số nàn lạc hậu nhất châu
Âu nhưng đến
dân có trình độ trung học và đại học).
+ Về mặt quân sự: Đến đầu những năm 1970 đã điện khí hoá
1970, Liên Xô đạt thế cân bằng chiến

cả nước, sản
lược về sức mạnh quân sự nói chung và xuất công nghiệp phát
vũ khí hạt nhân nói riêng so với Mĩ
triển.
và phương Tây…
– Bungari, sản xuất
công nghiệp
(1975) tăng 55 lần so
với năm 1939,
nông thôn đã điện khí
hoá.
– CHDC Đức năm
1972, sản xuất
công nghiệp bằng cả
nước Đức (1939).
– Tiệp Khắc: năm 70,
được xếp vào
hàng các nước công
nghiệp thế giới.
->Trong thời kì
này công nghiệp,
văn hoá giáo dục ở các
nước Đông
Âu đạt mức cao ở
châu Âu lúc bấy
giờ.


Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp: quốc hữu hóa đại công nghiệp và công
nghiệp vừa và nhỏ nhằm tích lũy hàng tiêu dùng tiếp tế cho quân đội.



Trưng thu lương thực thừa của nông dân. Nhà nước độc quyền lúa mì.
Năm 1920 chế độ này được áp dụng với cả khoai tây, rau đậu và nhiều nông
phẩm khác.

Thi hành chế độ cưỡng bức lao động.
Chính sách đã động viên tối đa nguồn của cải nhân lực của đất nước, tạo nên
sức mạnh tổng hợp, đến cuối năm 1920 Nga đẩy lùi sự can thiệp của các nước đế
quốc, bảo vệ chính quyền non trẻ.
III. Ý nghĩa lịch sử Cách mạng tháng Mười Nga :
Với nước Nga
Đập tan ách áp bức, bóc lột của phong kiến, tư sản, giải phóng công nhân và
nhân dân lao động.
Đưa công nhân và nông dân lên nắm chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Với thế giới
Làm thay đổi cục diện thế giới.
Cổ vũ và để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng thế giới.
Câu 2. Những thành tựu của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô?
1. Những thành tựu chủ yếu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu từ 1945 đến nửa đầu những năm 70:
2. Nhận xét :
– Thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội ở mọi lĩnh vực: kinh tế, nâng cao
đời sống, củng cố quốc phòng.
– Những thành tựu đó là vĩ đại, sức mạnh thực sự của Liên Xô và các nước Đông
Âu, nhờ đó mà có thể giữ được thế cân bằng trong “trật tự thế giới hai cực Ianta” suốt
40 năm qua.
– Thành tựu là vĩ đại, nhưng sự sụp đỗ của chủ nghĩa xã hội Đông Âu và sự tan vỡ
của nhà nước Liên Xô là sự đỗ vỡ của một mô hình chủ nghĩa xã hội không phù hợp,

chứ không phải là sự đổ vỡ của một lý tưởng, một phương thức sản xuất.
*Bổ sung kiến thức: Trong hoàn cảnh Liên bang Cộng hoà XHCN Xô Viết đã tan vỡ
như hiện nay, anh/chị có suy nghĩ gì về những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô trong giai đoạn từ năm 1945 đến nữa đầu những năm 70 (thế kỷ XX) ?
 Mặc dù Liên Xô không còn tồn tại nữa, nhưng những thành tựu nói trên vẫn có
ý nghĩa rất lớn đối với lịch sử phát triển của Liên Xô nói riêng và nhân loại nói
chung.


 Làm đảo lộn “Chiến lược toàn cầu” của Mĩ và các nước đồng minh của Mĩ.
Thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội xây dựng và phát triển kinh tế, quốc
phòng vững mạnh, nâng cao đời sống của của nhân dân.
 Chính những thành tựu đó là điều kiện để Liên Xô trở thành nước đứng đầu
hệ thống chủ nghĩa xã hội và là thành trì vững chắc của cách mạng thế giới, củng
cố hoà bình, tăng thêm sức mạnh của lực lượng cách mạng thế giới. Những thành
tựu mà Liên Xô đạt được là vô cùng to lớn và không thể phủ định được.
Câu 3. Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô 1917 – 1991?
1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
a. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên
trên thế giới
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh
đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân
dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên trên
thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ
phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội mới
không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã hội từ học
thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ
sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây

dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. - Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên
thế giới Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt.
Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô là
nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó
khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao
vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng
Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến,
tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc
quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921,
sau khi nội chiến kết thúc, Đại hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện
Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử
dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận
rất quan trọng của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà


nước là một trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xôviết nhanh chóng
khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của
nền sản xuất nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng,
thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế
thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất
xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức
khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà nước
vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách,
công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại
trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo bằng
phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất
nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một trong những
phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và
làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời,

đường lối đúng đắn này đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách
kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm
30 của thế kỷ XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ.
Trong bối cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây dựng
tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà
nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Trong thực
tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn
(chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10 năm nội chiến, chống chiến tranh can
thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên
Xô. Do đó, không thể phủ nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên
này của chủ nghĩa xã hội.

Câu 4. Ý nghĩa lịch sử của mô hình CNXH ở Liên Xô?
a. Với nước Nga:
- Cách mạng tháng 10 mở ra một kỉ nguyên mới và làm thay đổi hoàn toàn tình hình
đất nước và số phận hàng triệu con người ở Nga.
+ Lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các
dân tộc được giải phóng. Thoát khỏi mọi gông xiềng nô lệ, đứng lên làm chủ đất
nước và vận mệnh của mình.
+ Lịch sử nước Nga bước sang một trang mới – một chế độ xã hội mới được thiết lập


– chế độ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người;
xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, bình đẳng và công bằng cho mọi người lao
động.
b. Với Thế giới:
- Cách mạng tháng 10 có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục diện Thế
giới:
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô

Viết đầu tiên trên Thế giới đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống
hoàn chỉnh bao trùm Thế giới.
+ Thế giới đã phân chia thành 2 hệ thống xã hội đối lập:
.) Hệ thống xã hội Tư bản chủ nghĩa.
.) Hệ thống xã hội Xã hội chủ nghĩa.
- Cách mạng tháng 10 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho Cách mạng Thế
giới về sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, về khối liên minh công nông và
nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi.
- Cách mạng tháng 10 đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào Cách mạng của giai cấp công
nhân Quốc tế, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản.
+ Ngay sau khi Cách mạng tháng 10 thắng lợi, một cao trào Cách mạng vô sản đã
bùng nổ ở Châu Âu (1918 – 1923) làm chấn động dữ dội nền thống trị của giai cấp tư
sản nhiều nước.
+ Quốc tế Cộng sản được thành lập năm 1919 và hoạt động đến năm 1943 có vai trò
rất quan trọng trong sự phát triển và thắng lợi của phong trào nông dân nhiều nước.
- Cách mạng tháng 10 mở ra một thời kì mới trong phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và khu vực
Mĩ La-tinh. Một xu hướng mới đã xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc
nhiều nước, xu hướng đi theo con đường Cách mạng vô sản dưới ngọn cờ tư tưởng
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin với những nhận thức mới.


+ Phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của phong trào Cách
mạng vô sản Thế giới.
+ Tính tất yếu của sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào Cách mạng của giai cấp vô
sản và phong trào giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung và chủ
nghĩa đế quốc.
=> Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước phát triển mạnh mẽ, Đảng
Cộng sản ở nhiều nước ra đời và giành được những thắng lợi quan trọng.

“Như ánh mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng 10 chiếu rọi khắp năm châu, thức
tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử loài
người, chưa có cuộc Cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” (Hồ Chí
Minh).
c. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga với cách mạng Việt Nam?
+ Năm 1920, sau khi đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước
cho dân tộc Việt Nam. Đó là con đường đi theo Cách mạng tháng 10 Nga, con đường
Cách mạng vô sản.
+ Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên” thành lập năm 1925 được sự huấn luyện và giảng dạy trực tiếp của
Nguyễn Ái Quốc đã nâng cao ý thức chính trị cho thanh niên Việt Nam. Những bài
giảng của Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lê-nin và kinh nghiệm xây dựng Đảng vô sản kiểu mới ở Nga. Qua đó,
Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam vào năm 1930.
+ Ảnh hưởng của Cách mạng tháng 10 đến Việt Nam thông qua con đường sách báo,
lí luận và qua các thanh niên tiến bộ giữa lớp huấn luyện tại Quảng Châu của Nguyễn
Ái Quốc.
+ Từ kinh nghiệm thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 10, đó là sự lãnh đạo duy nhất
của Đảng Cộng sản Liên Xô; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào tháng 2/1930 đã
lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
- Cách mạng tháng 8/1945.


- Kháng chiến chống Pháp năm 1945 đến năm 1954.
- Kháng chiến chống Mĩ cứu nước năm 1954 đến năm 1975.
- Và công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay.
+ Trong Cách mạng, Đảng ta cũng học tập kinh nghiệm từ Cách mạng tháng 10:
- Đoàn kết công – nông – binh thành một khối thống nhất để tạo nên sức mạnh vĩ đại.

- Xây dựng và củng cố chuyên chính vô sản.
- Xây dựng lực lượng Cách mạng vững chắc kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa Quốc tế vô sản.
Câu 5. Sự hình thành hệ thống CNXH trên thế giới?
a) Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm
các nước Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hunggari, Rumani,
Tiệp Khắc, Anbani, Mông cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba. Năm 1960,
tại Mátxcơva, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước trên thế giới đã
ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài
người".
b) Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù ai đó cố tình xuyên tạc lịch sử cũng
không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã có
một thời phát triển rực rỡ và đạt được những thành tựu to lớn sau đây:
Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội,
thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới.
Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ được thiết lập.
Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của nó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, chế độ dân
chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ những quyền
dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của
nhân dân.
Chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế cho nhân dân
lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa, mà hơn thế nữa nó còn thúc đẩy trào lưu đấu
tranh cho quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa và trên toàn thế giới.


- Trong hơn bảy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ

sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày
càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nước Nga trước Cách mạng
Tháng Mười so với nước phát triển khác bị lạc hậu từ 50 đến 100 năm. Khi bắt tay
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ bằng 1/22
của Mỹ cùng thời. Nhưng, chỉ sau một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một
trong hai siêu cường của thế giới. Năm 1985, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng
66% của Mỹ, sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ. Với công cuộc phát triển
kinh tế, văn hóa, Liên Xô đã trở thành một nước có trình độ học vấn cao, thu được
những thành tựu đáng kể trong việc chăm sóc sức khỏe, phát triển y tế và bảo đảm
phúc lợi xã hội cho nhân dân lao động. Trước Cách mạng Tháng Mười, 3/4 nhân dân
Nga mù chữ, chỉ sau 20 năm, nạn mù chữ đã bị xóa bỏ. Vào cuối năm 1980, Liên Xô
là một trong những nước có trình độ học vấn cao nhất thế giới (164 triệu nguời có
trình độ trung học và đại học, số lượng các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực cũng
đứng vào hàng đầu thế giới). Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây đã
đạt được những bước tiến lớn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ,
có tiềm lực quân sự và công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Trong các lĩnh vực văn
hóa, nghệ thuật, khoa học và công nghệ cũng có những thành tựu rất to lớn.

- Với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống
chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đố hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá
độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập không chỉ mở ra một xu thế phát triển tất yếu
cho các dân tộc là con đường xã hội chủ nghĩa, mà bằng sự giúp đỡ tích cực, có hiệu
quả về nhiều mặt, các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phân phát triển mạnh mẽ phong
trào giải phóng dân tộc. Năm 1919, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa chiếm 72%
diện tích và 70% dân số thế giới, tới nay chỉ còn 0,7% diện tích và 5,3% dân số thế
giới. Tính đến nay, hàng trăm nước đã giành đuợc độc lập, trên một trăm nước tham
gia vào Phong trào Không liên kết.
- Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ

chiến tranh; hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới.
- Ngay tại các nước phương Tây, nhân dân lao động được sức hấp dẫn thực tế của chủ
nghĩa xã hội đã đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, các phúc lợi xã hội...Với
sức ép của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước phương Tây đã phải nhượng bộ và
chấp nhận thực tế rất nhiều yêu sách đó.

Tóm lại, từ tháng 11-1917 cho đến sự kiện tháng 8-1991, chủ nghĩa xã hội đã tồn tại
hơn 70 năm ở Liên Xô, hơn 40 năm ở các nước Đông Âu (kể từ năm 1945). Chủ


nghĩa xã hội hiện thực đã trải qua một thời kỳ phát triển rực rỡ, có những thành tựu to
lớn và đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong tiến trình phát triển lịch sử của loài
người.
Sự phát triển như vũ bão của ba dòng thác cách mạng trong suốt mấy thập kỷ đã gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực, với hệ thống xã hội
chủ nghĩa.
Câu 6. Nguyên nhân sụp đổ của các CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu?
Nguyên nhân sụp đổ của XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
- Trong một thời kì dài, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đem lại nhiều thành tựu
to lớn nhưng càng ngày càng bộc lộ nhiều sai lầm thiếu xót dẫn đến sự sụp đổ chế độ
XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Có nhiều lí do dẫn đến sự sụp đổ của XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu:
+ Thiếu tôn trọng đầy đủ các quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, chủ
quan duy ý chí, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thay cho cơ chế thị
trường.
Điều đó làm cho nền kinh tế đất nước thiếu tính năng động, sản xuất trì trệ, đời sống
nhân dân không được cải thiện. Về mặt xã hội thì thiếu dân chủ và công bằng, vi
phạm pháp chế XHCN. Tình trạng đó kéo dài đã khơi sâu lòng bất mãn trong quần
chúng.
+ Không bắt kịp sự phát triển của cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, đưa tới

khủng hoảng về kinh tế - chính trị. Chậm sửa chữa, thay đổi trước những biến động
lớn của tình hình thế giới, và khi đã sửa chữa, thay đổi thì lại rời bỏ những nguyên lí
đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
+ Khi tiến hành cải tổ lại phạm sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng càng
thêm nặng nề. Những sai lầm và sự tha hóa về phẩm chất chính trị và đạo đức cách
mạng của một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong một số nước xã hội chủ
nghĩa.
+ Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước ( cuộc tấn công
hòa bình mà họ thường gọi là cuộc cách mạng nhung ) có tác động không nhỏ làm
cho tình hình càng thêm rối loạn.
- Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong
những năm 1989 - 1991 đã gây nên những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là một tổn
thất lớn trong phong trào cộng sản - công nhân quốc tế. Hệ thống xã hội chủ nghĩa


thế giới không còn tồn tại. Trật tự thế giới hai cực đã kết thúc. Nhưng đây chỉ là sự
sụp đổ tạm thời của một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa khoa học, chưa nhân văn và
một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội - như V.I. Lênin đã nói: Nếu người ta
nhận xét thực chất của vấn đề, thì có bao giờ người ta thấy rằng trong lịch sử có một
phương thức sản xuất mới nào lại đứng vững ngay được, mà lại không liên tiếp trải
qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm và tái phạm không ?
Câu 7. Những thành tựu về lý luận trong công cuộc đổi mới trên con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam?
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa (hay bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản) ở Việt Nam là một trong
những nội dung chủ yếu hợp thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ những năm 20
của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường phát triển
của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến triển lên cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn này được Đảng ta khẳng định trong “Chính
cương vắn tắt” năm 1930 do Người soạn thảo. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ nhất của Đảng ta (năm 1930) khẳng định tính chất cách mạng Đông Dương là
cách mạng tư sản dân quyền, sau đó chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì ở
nước ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? Đây chính là vấn đề đặc điểm
nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ, về xác định những điều kiện, biện pháp, cách
làm và bước đi, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là hết sức quan trọng, đòi hỏi nhiều
nỗ lực sáng tạo. Theo Người, đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm bao trùm này quy định loại hình phát triển
của nước ta lên chủ nghĩa xã hội là loại hình “phát triển rút ngắn” theo phương thức
quá độ gián tiếp. Ở đây, có hai điểm đáng lưu ý:
Một là, đối với Việt Nam, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi đó là
một chế độ áp bức, bóc lột và nô dịch con người. Song, không qua tư bản chủ nghĩa
không có nghĩa là vứt bỏ, là phủ định sạch trơn mọi thành tựu của văn hóa và văn
minh, mọi tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà loài người đã đạt được trong tư bản chủ
nghĩa. Việt Nam ở điểm xuất phát thấp, từ xã hội thuộc địa, nửa phong kiến đi lên
càng phải chú trọng khai thác, vận dụng những tri thức, những thành tựu đó trong
thực tiễn xây dựng chế độ mới.
Hai là, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội chỉ với nghĩa là bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ của Việt Nam, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa


xã hội đòi hỏi phải tiến dần, từ từ, từng bước một, cố gắng đi nhanh cho kịp với thế
giới, nhưng phải đúng quy luật, không thể chủ quan, duy ý chí, không thể đốt cháy
giai đoạn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình dung tính chất phức tạp và lâu dài của sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vì việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
không chỉ là về vật chất mà còn là cải tạo tư tưởng, gạt bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu,
những thói hư, tật xấu kìm hãm sự phát triển. Người cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã
hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài. Một chế độ này
biến đổi thành chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và lâu dài giữa
cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới.
Từ đó, Người xác định toàn diện các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa (bao gồm cả đạo đức, tư tưởng, tinh thần, lối sống),
đào tạo cán bộ, phát triển khoa học - kỹ thuật, phát triển giáo dục, xây dựng con
người mới. Mấu chốt của vấn đề kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất. Mấu chốt
của vấn đề chính trị là giữ vững chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng, thực hành và
phát huy dân chủ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Mấu chốt của vấn đề xã hội là bảo đảm công bằng
xã hội, hướng vào sự phát triển con người và xã hội. Mấu chốt của vấn đề văn hóa là
xây dựng con người mới, đạo đức, và lối sống mới.
Trong báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” của đồng chí Trường Chinh trình bày
tại Đại hội II của Đảng (năm 1951) có đề cập tới triển vọng của cách mạng Việt Nam
và nêu rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Nội dung của bản báo cáo này được đúc kết trong bản Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam. Ở đây, Đảng ta khẳng định, cách mạng Việt Nam đi theo con
đường tất yếu của nó là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết không thể có một con đường
nào khác. Đặc điểm cơ bản của quá trình phát triển của nó là từ xã hội có tính chất
thuộc địa nửa phong kiến qua dân chủ nhân dân, đến xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong
báo cáo đó, đồng chí Trường Chinh nêu lên ba giai đoạn của quá trình cách mạng
Việt Nam: (1) Giai đoạn tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà
nước dân chủ nhân dân; (2) Giai đoạn xóa bỏ những di tích phong tiến và nửa phong
kiến, triệt để thực hiện “người cày có ruộng”, hoàn thành chế độ dân chủ nhân dân;
(3) Giai đoạn làm xong nhiệm vụ dân chủ nhân dân, xây dựng đầy đủ điều kiện để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ông cho rằng, ở hai giai đoạn đầu, hình thức chính quyền
nhà nước là dân chủ chuyên chính, thực chất là công nông chuyên chính. Đến giai

đoạn thứ ba, dân chủ chuyên chính sẽ biến thành vô sản chuyên chính. Hình thức nhà
nước cộng hòa dân chủ nhân dân vẫn có thể tồn tại khi nội dung của nó đổi thành
chuyên chính vô sản. Nhưng nội dung phát triển và hoàn thiện tới một mức nào đó thì
chế độ dân chủ nhân dân sẽ trở thành chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (năm 1954), Đảng ta đã lựa chọn con đường xã
hội chủ nghĩa. Tại các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 (năm 1955), 14 (năm
1958) và 16 (năm 1959) khóa II đã cho thấy rõ điều đó. Như vậy, từ năm 1954, miền
Bắc nước ta đã từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã


hội chủ nghĩa và cũng có nghĩa là bắt đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Đường lối chung của Đảng ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội lúc đó ở miền Bắc là: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội; sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch
sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa
tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời
ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
Khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước (năm 1975), Đảng ta vẫn nhất quán
lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV (năm 1976) của
Đảng đã thông qua đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới ở nước ta là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan
hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng - văn hóa, trong đó
cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đại hội IV đã dự báo chúng ta phấn
đấu hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản

xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng thời gian 20 năm. Đại hội coi nội dung của
đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối phát triển kinh tế xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp
nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa con
đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa.
Đại hội V (năm 1982), Đảng ta khẳng định tiếp tục khẳng định đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV
của Đảng xác định. Nhưng Đại hội V đã đề ra những mục tiêu và chính sách lớn để
thực hiện đường lối của Đại hội IV và cụ thể hóa đường lối mà Đại hội IV đã đưa ra,
đặc biệt là đã xác định chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá
trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đại hội V dự đoán rằng, quá trình công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải trải qua hai chặng đường dài là chặng
đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo. Như vậy, Đại hội V đã nhận thấy thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam phải trải qua
quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Hiện nay, Đảng ta vẫn dùng khái niệm “thời kỳ quá độ”, nhưng nội dung của khái
niệm đó đã có nhiều thay đổi. Trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII (năm
1991), Đảng ta xác định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản,
từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước
trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực
dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế
độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta... Đại hội IX (năm 2001)
của Đảng khẳng định: Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản


xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến
đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) nêu mục tiêu tổng quát
khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp,

tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc.
Cơ sở thực tiễn nghiên cứu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nhiều năm liên tục chúng ta áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô - viết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Đó là học hỏi kinh
nghiệm của Liên Xô với sự khái quát thành 9 quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội
chủ nghĩa họp ở Mát-xcơ-va năm 1957 đã thông qua. Có thể thấy, 9 quy luật đó được
phản ánh trong văn kiện các Đại hội III, IV, V của Đảng ta. Mặc dù cũng đạt được
những thành tựu nhất định trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng chúng ta đã áp
dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết vào Việt Nam mà nội dung của nó
là không thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, coi kế hoạch là đặc trưng
quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa; không thừa nhận nền kinh tế nhiều
thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa bỏ
sở hữu tư nhân, xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công
nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện
trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước; thi hành chế độ phân phối theo lao động
trên danh nghĩa, nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, ít quan tâm tới lợi ích cá nhân;
thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, không
phát huy được tính năng động và tích cực của người lao động. Gắn liền với việc áp
dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết vào Việt Nam là những sai lầm về
lãnh đạo và quản lý. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan,
duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ
quan.
Đến nay, nội dung của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta đã nêu ra tại các Đại hội III, IV và V của Đảng có nhiều điểm không
còn thích hợp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại nội dung của thời kỳ quá độ
và tìm nội dung mới thích hợp.

Qua đây, ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, trong quá trình vận dụng học thuyết Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ
nghĩa vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam,
Đảng ta đã luôn vận dụng sáng tạo, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm quy luật công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.


Hai là, Đảng ta rất chú ý đến đặc điểm xuất phát của đất nước để từ đó định ra đường
lối, chính sách. Điều đó được thể hiện rõ ở các Đại hội II, III, IV và V.
Ba là, Đảng ta nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở nước ta là thời kỳ quá độ lâu dài và do đó, đã nói tới các chặng đường mà
nước ta phải trải qua.
Một số vấn đề rút ra từ tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Qua sự phân tích trên, có thể rút ra kết luận là, chúng ta không chỉ phải đổi mới tư
duy về chủ nghĩa xã hội mà còn phải đổi mới tư duy về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta, nghĩa là phải xây dựng một lý
thuyết mới về thời kỳ quá độ.
1. Các nhà kinh điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ để tiến lên chủ nghĩa cộng
sản có rất nhiều con đường khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội
và đặc điểm của các dân tộc. Từ đó các ông khẳng định, đi lên chủ nghĩa cộng sản, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một con đường phát triển tất yếu, khách
quan của nhiều dân tộc có xuất phát điểm tiền tư bản chủ nghĩa với những điều kiện
nhất định.
2. Trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng nhiều quan niệm về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp; nhiều vấn đề của thời đại cần được
quan tâm; sự thay đổi một cách tổng thể tương quan lực lượng, sức mạnh, vai trò
trong quan hệ quốc tế... đòi hỏi ta cần có sự thay đổi một cách căn bản tư duy lý luận
về quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cánh mới.

3. Sau nhiều năm áp dụng mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước
Đông Âu, mặc dù có sự sáng tạo và đã đạt được nhiều thành tựu nhưng trong bối
cảnh hiện nay, quan điểm của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã có
nhiều điểm đổi mới.
Thứ nhất, Đảng ta không dùng cụm từ “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”
mà là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Thứ hai, Đảng ta đề cao đặc điểm xuất phát. Chính xuất phát điểm đặc thù quy định
kiểu quá độ của nước ta, quy định nội dung, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp, lực
lượng, động lực, độ dài và bước đi.
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng bối cảnh thế giới mới: Hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện
thực đã sụp đổ; chủ nghĩa tư bản có sự điều chỉnh và có sự hoàn thiện mới; phong
trào cộng sản và công nhân thế giới đang trong thời kỳ thoái trào; toàn cầu hóa sâu
sắc; những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; sự xuất hiện và
vai trò của kinh tế tri thức…


Thứ tư, đặc biệt quan trọng là vấn đề “con người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Con
người là chủ thể, là mục đích, động lực của thời kỳ quá độ, vì vậy, cần đặc biệt quan
tâm đến vấn đề con người, xây dựng con người mới phù hợp với quá trình phát triển
trong thời kỳ quá độ. Điều cơ bản đối với xã hội Việt Nam với xuất phát điểm lên chủ
nghĩa xã hội từ xã hội thuộc địa, nửa phong kiến thì để con người gánh vác được
nhiệm vụ của thời kỳ quá độ cần phải đặc biệt quan tâm hai khía cạnh dân chủ và kỷ
cương. Đó là phát huy dân chủ một cách thực sự và đề cao vai trò của pháp luật (xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa) để tạo lập kỷ cương xã hội trong thời
kỳ quá độ. Những hệ lụy, nguy cơ, thách thức nảy sinh trong đời sống xã hội ta thời
gian qua về cơ bản đều bắt nguồn từ sự “thái hóa, biến chất của một bộ phận không
nhỏ” cán bộ, đảng viên trong quá trình thực thi công vụ./.
Câu 8. Những thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội trong công cuộc đổi mới
trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở

Việt Nam?
I- NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái mới và cái cũ
xen kẽ nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có nơi còn chiếm ưu thế
hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần được khẳng định và đưa tới
thành công.
Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy sự ổn định chính trị
- xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới, phát triển và
chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định mới vững chắc hơn.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục được
nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm 1995) và
từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn thiếu lương thực
trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt
Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm
mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc thực
hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể. Tính riêng trong 5 năm
(1993-1998), thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác định đổi
mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ định hướng
đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và đời sống được
giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, tự nó trở
thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.



Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa với
mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy đại
đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo được Nhà nước hết sức chăm
lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là
quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo
dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại học với hai
học vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các ngành học thuộc khoa học
tự nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn
đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế
lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm 10 nước
châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10-2004, Hội
nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu Đại
Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng xuất khẩu,
thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu ngân sách
nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập
khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim

ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm
khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305
USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 12-1987, Việt Nam
đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian ấy đến nay, đất nước ta đã
thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài với hàng nghìn dự án, trong số đó
đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói rằng, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ngoài ra, Việt
Nam còn tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã
tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi mới tư duy mà
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới


về sau. Khi công cuộc đổi mới được triển khai và đi vào chiều sâu thì đổi mới tư duy
càng được đẩy mạnh. Bất cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng đều làm ngưng
trệ sự đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đổi mới về kinh
tế, chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt ra những yêu cầu mới
cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm cho chủ
nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là phủ định quá khứ mà khẳng định
những gì hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, bổ sung những nhận
thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới.
Thực hiện được những điều trên đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái đúng
và cái sai, giữa tiến bộ và lạc hậu, lỗi thời, giữa cái mới thúc đẩy sự phát triển và cái
cũ cản trở sự phát triển. Tiêu chuẩn để phân biệt những mặt trái ngược đó chính là

thực tiễn - kết quả về kinh tế, xã hội giành được trong thời kỳ đổi mới.
Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai thành phần
kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (nhà
nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu tư nước
ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng
với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển
sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản
xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là con người: Người lao
động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của người
lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện phát triển lợi ích của tập thể và
của toàn xã hội.
Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển
sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không sử dụng
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối
tượng của kế hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mô,
thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt
động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng đồng thời
dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị trường.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trường đẩy
sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam đã giải quyết vấn đề
này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện tương đối hiệu quả.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và

một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 62004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà tài trợ quốc tế đã đánh giá cao những thành


tựu của Việt Nam trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam là nước có tốc độ
giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương thức
quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã
hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần quan trọng vào
việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy
sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam
giành được nhiều thành quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị thực chất là đổi mới tổ chức,
cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị đó. Cụ thể là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận
của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng...
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái”1.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của
nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật,
kế hoạch và các chính sách cụ thể. Lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, nhờ vậy đã có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và chống tệ
nạn quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền và lợi ích
của nhân dân.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư
ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. “Các đoàn thể
nhân dân, tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động đoàn
viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa giáo dục nâng
cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội”2.
Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là đáng kể. Đổi
mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã thiết lập được các cơ
chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Tất cả những điều vừa
trình bày trên đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt
Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam.


Câu 9. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc?
1) Nguyên nhân Trung Quốc phải tiến hành cải cách, mở cửa năm 1978 :
* Khách quan
– Năm 1973, cuộc khủng hOảng dầu mỏ bùng nổ, tiếp theo là những cuộc
khủng hoảng về chính trị, kinh tế, tài chính… Những cuộc khủng hoảng này đặt nhân
loại đứng trước những vấn đề bức thiết phải giải quyết như tình trạng vơi cạn dần
nguồn tài nguyên, bùng nổ dân số…
– Yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học – kỹ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày
càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá.

– Trong bối cảnh trên, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với tất cả các nước là phải
nhanh chóng cải cách về kinh tế, chính trị – xã hội để thích ứng.
* Chủ quan
– Đối nội: từ năm 1959 đến năm 1978 Trung Quốc trải qua 20 năm không ổn định
về kinh tế, chính trị, xã hội. Với việc thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng” nền
kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn, sản xuất giảm sút nghiêm trọng, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn…Trong nội bộ Đảng và Nhà nước Trung Quốc
diễn ra những bất đồng gay gắt về đường lối, tranh chấp về quyền lực, đỉnh cao là
cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản” (1966 – 1976)…
– Đối ngoại: ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Việt Nam…xảy ra
những cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc với các nước Ấn Độ, Liên Xô…
Tháng 2 – 1972, Tổng thống Mĩ R.Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ
mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước.
-> Bối cảnh lịch sử trên đòi hỏi Trung Quốc tiến hành cải cách để phù hợp với xu
thế chung của thế giới và đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng không ổn định…
2) Đường lối đổi mới.
– Tháng 12 – 1978, hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, đã vạch ra đường lối đổi mới, mở đầu cho công
cuộc cải cách kinh tế, xã hội ở Trung Quốc.
– Đến đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIII (cuối năm 1987) đường lối
này được nâng lên thành đường lối chung cuả Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung
Quốc.


– Trong giai đoạn đầu sẽ xây dựng “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”.
Lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, kiên trì nguyên tắc:
 Con đường xã hội chủ nghĩa.
 Chuyên chính dân chủ nhân dân.
 Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Mao
Trạch Đông.

– Thực hiện cải cách mở cửa phấn đấu xây dựng Trung Quốc thành nước xã hội
chủ nghĩa hiện đại hoá, giàu mạnh, dân chủ và văn minh.
3) Thành tựu.
* Kinh tế : Năm 1998, kinh tế Trung Quốc tiến bộ nhanh chóng, đạt tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới (GDP tăng 8% – năm), đời sống nhân dân cải thiện rõ
rệt.
* Chính trị – xã hội : đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Thu hồi
được Hồng Kông (7 – 1997) và Ma CaO (12 – 1999)
* Nền khoa học – kỹ thuật, văn hóa, giáo dục Trung Quốc đạt thành tựu khá cao
(năm 1964, thử thành công bom nguyên tử; năm 2003: phóng thành công tàu “Thần
Châu 5” vào không gian)
* Về đối ngoại : bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô, Mông Cổ,
Việt Nam…, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới, góp sức
giải quyết các vụ tranh chấp quốc tế.
* Từ sau khi thực hiện cải cách Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu về kinh
tế, tình hình chính trị, xã hội ổn định. Vai trò của Trung Quốc nâng cao trên
trường quốc tế.
**Bổ sung kiến thức :
*Vấn đề 1. Trong các đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa từ cuối năm 1978
của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, theo anh/chị, đường lối nào là đóng vai trò
quyết định dẫn đến thắng lợi của công cuộc cải cách ? Tại sao ?
Trong các đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội từ cuối năm 1978 ở Đảng và
Nhà nước Trung Quốc thì đường lối đóng vai trò quyết định dẫn đến thắng lợi của
công cuộc cải cách là : Lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, kiên trì nguyên tắc:


– Con đường xã hội chủ nghĩa
– Chuyên chính dân chủ nhân dân.
– Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ nghĩa Mác – Lênin – Tư tưởng
Mao Trạch Đông.

Bởi vì:
– Trước năm 1978, do đường lối “ba ngọn cờ hồng” đã làm cho kinh tế Trung
Quốc khủng hoảng (nạn đói diễn ra trầm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó
khăn, sản xuất ngưng trệ, tụt hậu so với thế giới)
– Kinh tế là nhân tố hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực xã hội, chính trị,
quân sự…Vì vậy trong đường lối cải cách mở cửa của Trung Quốc, việc phát triển
kinh tế được lấy làm yếu tố trung tâm.
* Vấn đề 2. Theo anh/chị, công cuộc cải cách kinh tế – xã hội hiện nay tại Trung
Quốc còn có những hạn chế gì ?
– Một là, tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học – kĩ thuật so với các cường quốc tư bản
phương Tây trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
hiện nay. Vì sự phát triển khoa học – kĩ thuật của thế giới vừa tạo ra thời cơ cho
những nước tiếp cận được, đồng thời cũng vừa tạo ra nguy cơ đối với những nước
không tiếp cận được.
– Hai là, chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ này dẫn tới mất vai trò lãnh đạo của
Đảng, mất định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Ba là nạn tham nhũng, mẫu thuẫn xã hội và các tệ nạn xã hội khi phát triển kinh tế
thị trường phải đối mặt với suy thoái đạo đức, phân cực giàu nghèo quá lớn, mất công
bằng và ổn định xã hội.
– Bốn là diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng
của Trung Quốc…
Câu 10. Bối cảnh Mỹ Latinh trong thập niên gần đây và nội dung cơ bản của mô
hình CNXH ở thế kỷ XXI ?
Những ngày cuối tháng 2/2013 người dân Venezuela tưng bừng chuẩn bị lễ nhậm
chức cho tổng thống Hugo Chavez. Việc tổng thống Hugo Chavez tái đắc cử với sự
ủng hộ cao của nhiều người dân Venezuela đã chứng minh cho sức thuyết phục về
“mô hình chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI” mà ông Chavez và nhân dân nước này
đang theo đuổi. Còn nhớ năm 1998, ông Hugo Chavez chính thức lên cầm quyền mở



đầu cho một thời kỳ nắm quyền của chính phủ chánh tả đầu tiên ở Mỹ la tinh. Tiếp
sau đó, sự kiện này đã mở đầu cho một “làn sóng cánh tả” với việc nhiều chính phủ
cánh tả cầm quyền ở nhiều nước như Nicaragoa, Braxin, Acshentina, Chile,
Urugoay…Có thể nói phong trào cánh tả cũng như “mô hình chủ nghĩa xã hội ở thế
kỷ XXI” của khu vực Mỹ - latinh đã mang lại những đóng góp lớn cho chủ nghĩa xã
hội cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Trước hết mô hình này là một sự cổ vũ, động viên to lớn đối với các nước xã hội chủ
nghĩa và các trào lưu tiến bộ trên thế giới. Nó đã góp phần khẳng định xu hướng thời
đại đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sau những năm đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX, sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã thu hẹp không
gian địa chính trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực, đẩy phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trên mọi phương diện. Suốt một thời
gian dài, các phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội trên thế giới hầu như bị lâm vào khủng hoảng cả về mô hình và cả về phong
trào. Nhưng hơn một thập niên gần đây, chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào
cộng sản quốc tế đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khủng hoảng, trụ
vững và từng bước được phục hồi, củng cố. Trong bối cảnh đó sự khởi sắc của phong
trào cánh tả ở Mỹ la tinh như một “cú hích” đối với phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, là minh chứng hùng hồn cho khát vọng của loài người về một chủ
nghĩa xã hội cao đẹp, văn minh.
“Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” do tổng thống Hugo Chavez khởi xướng thực hiện
ở Venezuela và sau đó là nhiều nước đã đi theo, tuy chưa hoàn chỉnh về cơ sở lý luận,
còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình hiện thực hóa, nhưng một số đặc trưng của
mô hình này và thành quả của nó đã thể hiện khá nhiều tính chất xã hội chủ nghĩa.
Không ai có thể phủ nhận rằng xu thế này đang mở ra một triển vọng mới cho cuộc
đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, công bằng và chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày
nay, Những gì mà Venezuela và các nước Mỹ la tinh đang làm đã thể hiện sức sống
mới của phong trào cánh tả ở khu vực và sự bất diệt của chủ nghĩa xã hội-một xã hội
tươi đẹp mà nhân loại đang hướng tới.
Câu 11. Những đóng góp đối với CNXH và những vấn đề đặt ra từ mô hình “

CNXH thế kỷ XXI”
Cao trào đấu tranh hướng tới “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” của nhân dân lục địa châu
Mỹ Latinh hiện nay là nhằm giải quyết vấn đề dân tộc, dân quyền, dân sinh, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Phong trào cánh tả đang lên tại lục địa châu Mỹ Latinh, chính là sự
hợp lưu của các dòng chảy được khơi nguồn từ Đảng Lao động Brazil, Đảng Xã hội
Chile, Mặt trận giải phóng dân tộc Sandino, Đảng Phong trào nền cộng hòa thứ năm
của Venezuela, Đảng Phong trào tiến lên chủ nghĩa xã hội của ông Evo Morales ở
Bolivia… Nguồn lực và sức mạnh của những dòng chảy ấy, đã được khơi dậy từ
trong tình cảm cách mạng và ý chí quật khởi của các tầng lớp nhân dân.
Được sự ủng hộ mạnh mẽ của quảng đại quần chúng thông qua lá phiếu bầu cử tổng
thống, những nhân vật nổi tiếng của phong trào cánh tả đã đàng hoàng bước lên vũ
đài chính trị. Với sự đóng góp đắc lực kể cả nhân lực, vật lực và tài lực của quần
chúng, các chính phủ của phong trào cánh tả đã tiến hành được những cải cách về thể


×