Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.77 KB, 41 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài........................................................................................4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................5
6. Dự kiến vấn đề nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn..............................................5
7. Kết cấu của tiểu luận..................................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................7
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ RỪNG.................................................................7
1.1. Rừng và vai trò của rừng với môi sinh....................................................................7
1.2. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng....................8
1.3. Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.....................9
1.4. Khái niệm xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng..................13
1.5. Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng 15
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ RỪNG...............................................17
2.1. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
...................................................................................................................................... 17
2.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. 18
2.2.1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Kiểm lâm.................................18
2.2.2 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp
.................................................................................................................................. 20
2.2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng............................................................................21
2.2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành cính của Công an nhân dân, Bộ đội biên
phòng, Quản lý thị trường.........................................................................................22
2.2.5. Giải quyết những trường hợp vượt thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính..23


1


2.3. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
...................................................................................................................................... 24
2.4. Thời hạn, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính...................................................25
2.5. Các hình thức xử phạt trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng...............................25
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ RỪNG.................................28
3.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng.............................................................................................................................. 28
3.1.1. Thực trạng rừng Việt Nam và sự tàn phá rừng hiện nay..................................28
3.1.2. Tình hình vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng......29
3.1.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng...........................................30
3.2. Giải pháp hoàn thiện về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng.............................................................................................................................. 35
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng..............................................................................................35
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ rừng...........................................................................................................36
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................42

2


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bên cạnh lợi ích về kinh tế, rừng có vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ đất,

giữ nước, điều hòa không khí và bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện trạng mất rừng và suy
thoái rừng đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng tai hại cho đời sống nhân dân cũng
như sự ổn định nhiều mặt của đất nước. Do vậy, bảo vệ rừng phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, đòi hỏi Nhà nước phải có chế độ quản lý bảo vệ
thích hợp nguồn tài nguyên này, đặc biệt là bảo vệ bằng pháp luật.
Để thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng, và pháp luật của Nhà nước về Bảo
vệ và phát triển rừng đạt kết quả tốt, cùng với việc nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên
rừng trong nhân dân, trong cán bộ nhà nước, tăng cường hoạt động phối hợp của các cơ
quan chức năng, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ và phát triển rừng tại Kỳ họp thứ 6,
Khóa XI ngày 3/12/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/4/2005. Sau hơn 13 năm thi
hành, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, một
số qui định không còn phù hợp với điều kiện thực tế. Để cụ thể hóa Luật bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004, ngày 30 tháng 10 năm 2007, Ngày 3/2/2017, tại Phiên họp Chính
phủ thường kỳ tháng 1/2017 (Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 7/2/2017 của Chính phủ),
Chính phủ đã thông qua và thống nhất trình Quốc hội dự án Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng (sửa đổi). Dự kiến, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (sửa đổi) có 12 chương, 97 điều.
So với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004, bổ sung 4 chương mới: Chế biến, thương
mại lâm sản; hợp tác quốc tế trong lâm nghiệp; đầu tư, tài chính trong lâm nghiệp; quản
lý Nhà nước về lâm nghiệp. Dự thảo Luật kế thừa 8 điều, sửa đổi 60 điều, bổ sung mới 29
điều và bỏ 19 điều. Nghị định số 41/2017/NĐ- CP sửa đổi, Bổ sung một số điều của các
nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; lĩnh vực thú y, giống
vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm
sản. Tiếp đó, Nghị định số 09/VBHĐ- BNNPTNT ngày 06 tháng 7 năm 2017 Quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quan lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm
sản.
Xuất phát từ nguy cơ khai thác rừng trái phép, phá hoại tài nguyên rừng bừa bãi gây
cạn kiệt tài nguyên, phá hoại môi trường nghiêm trọng. Có thể khẳng định rằng, pháp luật
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời nâng
3



cao ý thức của người dân cũng như cán bộ nhà nước trong việc tăng cường phối hợp hoạt
động bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực này còn chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh, hiệu quả quản lý chưa cao, tính nhất
quán chưa chặt chẽ gây ra sự khó khăn trong việc áp dụng cũng như thực hiện. Vì vậy,
việc nghiên cứu pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng là cần thiết đáp ứng yêu cầu nghiên cứu lý luận và áp dụng thực tế trong việc phòng
chống vi phạm pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng.
Từ những lý do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Thực trạng và giải pháp” để làm tiểu luận.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực xử phạt
vi phạm hành chính cũng như đề tài trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng như: “Pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính lý luận và thực tiễn”, của Bùi Tiến Đạt, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008; “Pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường”, của Trần Thị Lâm Thi, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013; “Tình hình thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng”, của Võ Mai Anh, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2017; “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật
bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay”, của Nguyễn Thanh Huyền, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Tuy nhiên, những công trình nêu trên chỉ
mang tính chất khái quát về pháp luật quản lý và bảo vệ rừng, dựa trên cơ sở lý luận mà
chưa đề cập sâu đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng; đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, trên cơ sở đó tìm ra những bất cập, vướng mắc ngay
trong các quy định và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các

quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, tiểu luận có nhiệm vụ:
4


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng;
- Nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng;
- Đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các văn bản quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, thực trạng giải pháp của xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Cả nước.
+ Phạm vi nội dung khoa học: Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê xã hội học, các phương pháp xã hội học pháp luật.
6. Dự kiến vấn đề nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn
Đề tài là chuơng trình chuyên khảo về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng, đề tài đã đặt vấn đề tương đối hệ thống về pháp luật xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng; Phân tích tương đối cụ thể thực
trạng quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng; Nghiên cứu tìm hiểu một số kinh nghiệm bảo vệ và phát

triển rừng của một số quốc gia trong khu vực; Đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận gồm
ba chương như sau:
Chương 1. Lý luận chung về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
5


Chương 2. Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản
lý và bảo vệ rừng
Chương 3. Thực trạng và giải pháp về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản
lý và bảo vệ rừng

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ RỪNG
1.1. Rừng và vai trò của rừng với môi sinh
Rừng là một thành phần của sinh quyển. Rừng bảo vệ đất khỏi xói mòn, rừng thực
hiện vai trò vũ trụ trong sinh quyển. Ảnh hưởng của rừng với môi trường mang tính tổng
hợp như đất, nước, không khí,... và rừng là yếu tố cơ bản để duy trì cân bằng sinh thái
của môi trường.
Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan
hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường. Rừng có vai trò rất quan trọng đối với cuộc
sống của con người cũng như môi trường: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa, tạo ra oxy,
điều hòa nước, là nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm, bảo vệ

và ngăn chặn gió bão, chống xói mòn đất, đảm bảo cho sự sống, bảo vệ sức khỏe của con
người.
Rừng giữ không khí trong lành: Do chức năng quang hợp của cây xanh, rừng là
một nhà máy sinh học tự nhiên thường xuyên thu nhận CO2 và cung cấp O2. Đặc biệt
ngày nay khi hiện tượng nóng dần lên của trái đất do hiệu ứng nhà kính, vai trò của rừng
trong việc giảm lượng khí CO2 là rất quan trọng.1
Rừng điều tiết nước, phòng chống lũ lụt, xói mòn: Rừng có vai trò điều hòa nguồn
nước giảm dòng chảy bề mặt chuyển nó vào lượng nước ngấm xuống đất và vào tầng
nước ngầm. Khắc phục được xói mòn đất, hạn chế lắng đọng lòng sông, lòng hồ, điều
hòa được dòng chảy của các con sông, con suối (tăng lượng nước sông, nước suối vào
mùa khô, giảm lượng nước sông suối vào mùa mưa).
Rừng bảo vệ độ phì nhiêu và bồi dưỡng tiềm năng của đất: ở vùng có đủ rừng thì
dòng chảy bị chế ngự, ngăn chặn được nạn bào mòn, nhất là trên đồi núi dốc tác dụng ấy
có hiệu quả lớn, nên lớp đất mặt không bị mỏng, mọi đặc tính lý hóa và vi sinh vật học
của đất không bị phá hủy, độ phì nhiêu được duy trì. Rừng lại liên tục tạo chất hữu cơ.
Điều này thể hiện ở quy luật phổ biến: rừng tốt tạo ra đất tốt, và đất tốt nuôi lại rừng tốt.
Nghiên cứu vai trò của rừng đối với môi trường không chỉ có ý nghĩa lý luận mà
còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc bảo vệ, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, gây
1 Tham khảo tại trang web: />
7


trồng các loại rừng phòng hộ, hạn chế ảnh hưởng của thiên nhiên, làm tăng thêm ý nghĩa
cảnh quan, văn hóa xã hội của rừng.
1.2. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ r ừng
Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là có vi phạm hành chính, vi phạm hành
chính được pháp luật quy định. Việc nghiên cứu khái niệm vi phạm hành chính có ý
nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn bởi vì định nghĩa đúng về vi phạm
hành chính là cơ sở xác định các vi phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý
nhà nước. Xác định được hành vi vi phạm hành chính tính chính xác của việc xử phạt vi

phạm hành chính càng cao, đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của nhà nước, tổ chức và
cá nhân, phát huy hiệu quả và mục đích của việc xử phạt hành chính là lập lại trật tự nhà
nước bị xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa vi phạm
trong tương lai và tránh được sự tùy tiện trong xử phạt hành chính.2
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “ vi phạm hành chính” được định nghĩa một
cách chính thức tại Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH 2013 ngày 20 tháng 6
năm 2012, khoản 1 Điều 2 của Luật này quy định: Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi
do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính.
Như vậy, vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là hành vi có
lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý rừng, phát
triển rừng, bảo vệ rừng và bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật mà
chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Định nghĩa nêu trên đã nêu lên các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính
là hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi và bị xử 8 phạt, đồng thời cũng có đề cập
đến chủ thể của cấu thành pháp lý vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng là một dạng của vi
phạm hành chính, cũng có những điểm chung giống như các vi phạm hành chính trong
các lĩnh vực khác, cũng có dấu hiệu cấu thành vi phạm hành chính. Các dấu hiệu đó là:
khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính trong
quản lý và bảo vệ rừng.

2 Tham khảo tại Phạm Dũng - Hoàng Sao (2016), Một số vấn đề về phạt hành chính, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr.16

8


Tuy nhiên, khác với những vi phạm trong lĩnh vực khác, vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có một số đặc điểm riêng:

- Đối tượng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại là rừng, lâm sản và môi trường
rừng, loại tài nguyên đặc biệt, loại tài sản mang tính pháp lý đặc biệt thuộc sở hữu của
toàn dân và ảnh hưởng đến toàn bộ môi trường sinh thái trên phạm vi rộng lớn và lâu dài.
- Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng trong nhiều
trường hợp rất khó phát hiện, việc phát hiện thường là khi đã hoàn thành hoặc có hậu
quả của vi phạm.
- Các vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng không chỉ liên quan đến pháp
luật quản lý và bảo vệ rừng mà còn liên quan đến nhiều ngành luật khác, do mối quan hệ
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng mang tính tổng hợp, diện rộng với sự tham gia
rộng rãi của các cơ quan nhà nước, làm phức tạp việc phân định trách nhiệm của đối
tượng vi phạm pháp luật.
1.3. Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng là một dạng của vi
phạm hành chính nên cũng phải có đủ 4 yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính là: mặt
khách quan, khách thể, chủ thể và mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính. Nhưng
khác với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác, các yếu tố cấu thành của hành
vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng còn có những đặc điểm
riêng như:
* Mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm
hành chính, nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm
các quy tắc quản lý nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng và đã bị pháp luật ngăn cấm,
theo đó pháp luật quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện
pháp hành chính. Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng gồm các dấu hiệu: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả thiệt hại mà
hành vi gây ra cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là hành vi có tính chất trái
pháp luật, vi phạm các qui định của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng dưới
hình thức không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những qui định của pháp luật quản
lý và bảo vệ rừng, xâm phạm đến những khách thể được pháp luật bảo vệ. Để nhận biết

9


một hành vi là trái pháp luật cần căn cứ vào những phong tục tập quán của từng địa
phương để xem xét hành vi nhất định.
Đối với một số loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cụ
thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ là nội
dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có sự phối hợp giữa các yếu tố khác. Thông
thường, những yếu tố đó có thể là:
+ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: Săn bắt động vật trong mùa sinh sản,
đốt lửa, sử dụng lửa ở các khu rừng dễ cháy, thảm thực vật khô nỏ vào mùa hanh khô,
tháo nước dự trữ phòng cháy trong mùa khô hanh.
+ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: chăn thả gia súc trong phân khu bảo
vệ nghiêm ngặt của khu rừng đặc dụng, chăn thả gia súc trong rừng trồng dặm cây con,
rừng trồng mới dưới ba năm, rừng khoanh nuôi tái sinh đã có quy định cấm chăn thả gia
súc.
+ Công cụ phương tiện vi phạm. Ví dụ: Phương tiện vi phạm hành chính gồm đồ
vật, công cụ, phương tiện vận chuyển được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành
chính, các loại xe cơ giới đường bộ, xe mô tô, xe đạp, xe thô sơ, súc vật, tàu thủy, ca-nô,
thuyền, các phương tiện khác được sử dụng để vận chuyển lâm sản trái pháp luật, sử
dụng phương pháp, công cụ săn bắt bị cấm, đưa súc vật kéo, mang dụng cụ thủ công vào
rừng để khai thác, chế biến lâm sản, khoáng sản trái phép, đưa trái phép vào rừng các
phương tiện, công cụ cơ giới.
+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Nhìn chung, hậu quả của vi phạm hành
chính không nhất thiết là thiệt hại cụ thể: với cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài
(sau đây còn gọi là người vi phạm) có hành vi vô ý hoặc cố ý vi phạm các quy định của
Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản chưa gây thiệt hại hoặc đã gây
thiệt hại đến rừng, lâm sản, môi trường rừng nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, hành vi của tổ chức, cá nhân bị coi là
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng khi và chỉ khi hành vi đó gây

ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. Trong trường hợp này, việc xác định mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại cụ thể là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc cá
nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do chính hành vi của mình gây
ra.
* Mặt chủ quan
10


Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý và bảo vệ rừng là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi phải có đầy đủ khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình thiếu thận trọng không nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội hoặc có nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố
tình thực hiện. Khi có đủ căn cứ cho rằng chủ thể thực hiện hành vi không có khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã
không có vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng xảy ra. Trong một số
trường hợp cụ thể pháp luật còn đòi hỏi xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc
của một số loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
Vấn đề lỗi của tổ chức, có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lý của cá nhân
trong khi thực hiện hành vi nên không đặt ra vấn đề lỗi của tổ chức vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng, chỉ cần xác định tổ chức đó có vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng biện
pháp xử phạt vi phạm 12 hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là đủ. Quan
điểm khác lại cho rằng cần xác định lỗi của tổ chức thì mới có đầy đủ cơ sở để xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Trong trường hợp này, lỗi của tổ
chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện công
việc được giao. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng hiện hành quy định tổ chức phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi do chính mình

gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng. Đồng thời, phải có trách nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ
chức mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi
thường thiệt hại theo qui định của pháp luật.
* Chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
Chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là các tổ chức,
cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của luật hành chính.
Theo quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
11


vệ rừng phải là người không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi theo quy định của pháp
luật, cụ thể là:
Người đủ 14 đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính trong trường hợp
thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng hay không cần xác định yếu tố lỗi trong
mặt chủ quan của họ. Thông thường người thực hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận
thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm nhưng vẫn thực
hiện.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng trong mọi trường hợp.
Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan hành chính nhà
nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân
dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo qui định của pháp luật.
* Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng như mọi vi phạm
pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu

khách thể để nhận biết vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là hành
vi vi phạm này đã xâm phạm đến trật tự quản lý trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
được pháp luật quản lý và bảo vệ rừng quy định và bảo vệ.
* So sánh vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng
Nhìn chung, vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
đều là hành vi vi phạm, xâm hại trật tự xã hội do nhà nước đặt ra. Vi phạm hành chính
hay phạm tội là những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và phải bị xử lý theo chế tài
tương ứng. Vi phạm hành chính bị xử lý bằng chế tài hành chính, còn tội phạm bị xử lý
bằng chế tài hình sự.
Vi phạm hành chính và tội phạm đều là hành vi vi phạm, xâm hại đến lợi ích của
nhà nước, tập thể, công dân, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, là biểu hiện tiêu cực
cần phải loại trừ. Ngoài ra, ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm rất gần nhau.
Trong nhiều trường hợp giữa vi phạm hành chính và tội phạm chỉ là ranh giới mong
manh mà vượt qua nó thì vi phạm hành chính sẽ trở thành tội phạm trong điều kiện nhất
12


định. Cùng một hành vi vi phạm nhưng nếu vi phạm với số lượng không lớn hoặc không
gây hậu quả nghiêm trọng, không có khả năng gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng... thì không phải là tội phạm.
Vi phạm hành chính và tội phạm có những điểm khác biệt như sau:
- Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm và các
hình thức xử phạt hành chính cũng ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt áp dụng với tội
phạm. Giữa tội phạm và vi phạm hành chính có sự khác biệt đó là mức độ nguy hiểm cho
xã hội. Đây cũng chính là đặc điểm cơ bản để phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm.
Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm được thông qua những dấu hiệu nhất
định như: mức độ hậu quả, tái phạm nhiều lần, có tính chất chuyên nghiệp, vi phạm số
lượng lớn... Có một số hành vi luôn luôn gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng có những
hành vi khi có những dấu hiệu về mức độ hậu quả nghiêm trọng, tái phạm, chuyên

nghiệp... thì sẽ bị chuyển hóa thành tội phạm.
- Tội phạm chỉ được qui định tại Bộ luật Hình sự - do Quốc hội ban hành, còn đối
với hành vi vi phạm hành chính thì được qui định tại rất nhiều loại văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau do tính chất đa dạng, đa lĩnh vực.
- Việc xử lý người phạm tội được giao cho cơ quan duy nhất là Tòa án, còn việc xử
lý đối tượng vi phạm hành chính được giao cho nhiều cơ quan và người có thẩm quyền,
trong đó chủ yếu là cơ quan nhà nước.
- Thủ tục xử lý vi phạm hành chính và tội phạm là hoàn toàn khác nhau. Tòa án xét
xử vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng hình sự, có sự tham gia của người bào chữa. Còn
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính phần nhiều mang tính quyền lực đơn phương từ phía
cơ quan nhà nước, dù pháp luật có quy định quyền khiếu nại, tố cáo của đối tượng bị xử
lý vi phạm hành chính. Mức độ của chế tài vi phạm hành chính và chế tài hình sự là khác
nhau; chế tài hành chính chủ yếu tác động vào yếu tố vật chất, tinh thần của người vi
phạm, chế tài hình sự có mức độ nặng hơn chủ yếu là tước đoạt quyền tự do của người
phạm tội.
1.4. Khái niệm xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
Xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế nhà nước, mang tính
chất quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành chính, thể hiện ở việc áp dụng
các chế tài hành chính mang tính chất trừng phạt do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh

13


nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật. Một hành vi bị coi là vi phạm hành
chính khi nó được quy định trong pháp luật về xử phạt hành chính.
Xử phạt hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý nhà nước do vậy phải
có chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Những chủ thể này nhân danh nhà nước, đại diện
cho ý chí của nhà nước trong việc xác định một cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm
hành chính hay không và hậu quả pháp lý của những hành vi vi phạm đó là như thế nào.
Tất cả những hành vi của các chủ thể đó đều phải dựa trên những quy định cụ thể của

pháp luật. Hoạt động xử phạt hành chính phải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn nhưng
kết quả của hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý đặc biệt,
làm phát sinh trách nhiệm hành chính cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, tức là họ
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về tinh thần hoặc tài sản.
Những quyết định đó có tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với những đối tượng bị xử
phạt. Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước nào được nhà nước trao thẩm quyền xử
phạt hành chính và được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính và được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính thì mới có thẩm quyền ra quyết định xử phạt và việc xử phạt chỉ được thực
hiện khi có vi phạm hành chính.3
Trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, những hành vi vi phạm hành chính về quản
lý và bảo vệ rừng cũng là một loại vi phạm hành chính nói chung do vậy việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng vẫn phải tuân theo các quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung về trình tự, thủ tục.
Có thể định nghĩa xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng như sau: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là hoạt
động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết
định các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác
(trong trường hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) với các cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính).
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có
những đặc điểm sau đây:

3 Tham khảo tại />
14


- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng chỉ được áp
dụng với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý

rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản chưa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại đến rừng,
lâm sản, môi trường rừng. Vi phạm hành chính là cơ sở để tiến hành các hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng được tiến hành
theo những nguyên tắc, thủ tục, trình tự được quy định trong các văn bản của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và pháp luật hành chính về quản lý và bảo vệ
rừng nói riêng về xử phạt hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi nhận các hình thức, biện
pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Việc quyết định áp
dụng biện pháp xử phạt đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của nhà nước đối với các
tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính còn hướng tới
mục đích giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức tôn trọng các quy tắc
của đời sống cộng đồng, phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra.
1.5. Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và b ảo
vệ rừng
* Mục đích răn đe giáo dục
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng như của
phạt hành chính trong các lĩnh vực khác không chỉ có mục đích trừng trị mà quan trọng
hơn là để giáo dục các chủ thể vi phạm và mọi cá nhân, tổ chức ngăn ngừa những hành vi
tương tự, khôi phục những thiệt hại xảy ra. Tính giáo dục của xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng thể hiện ở chỗ làm cho bản thân các chủ thể
vi phạm hành chính nhận thức được hành vi vi phạm hành chính của mình để ý thức hơn
trong việc chấp hành pháp luật đồng thời cũng tác động đến các chủ thể khác làm cho họ
hiểu biết được các quy định để tránh không thực hiện các vi phạm.
* Mục đích trừng trị
Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là chủ
thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và tinh thần. Điều đó đã nói
lên mục đích của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là
trừng trị chủ thể vi phạm. Các biện pháp chế tài trong xử phạt vi phạm hành chính trong

15


lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa trong xã hội,
giáo dục tinh thần tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
* Mục đích khôi phục lại trật tự
Trật tự pháp luật được hiểu là những quy định có tính nguyên tắc của nhà nước
nhằm khôi phục lại trật tự xã hội bị xâm hại trở lại trạng thái ban đầu, buộc người vi
phạm phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

16


CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ RỪNG
2.1. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng
Mọi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản phải được phát hiện kịp thời và đình chỉ ngay. Việc xử phạt vi phạm hành
chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, đúng pháp luật; người vi phạm hoặc
người giám hộ của người vi phạm phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi vi
phạm gây ra theo quy định của pháp luật.
Khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải
xem xét nhân thân người vi phạm; căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm; các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ theo quy định tại Điều 9, 10 của Luật xử lý vi phạm hành chính số
15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012 để áp dụng các hình thức phạt chính, hình thức
phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả.
Người vi phạm hành chính không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì mức phạt
tiền là mức trung bình của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi quy định tại
nghị định. Trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt tiền có thể giảm nhưng không

thấp hơn mức thấp nhất của khung tiền phạt quy định áp dụng đối với hành vi vi phạm
đó. Nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể cao hơn nhưng không vượt quá
mức cao nhất của khung tiền phạt quy định áp dụng đối với hành vi vi phạm đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành
vi vi phạm, nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì tổng hợp thành mức phạt chung.
Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính nối tiếp nhau
đối với cùng một đối tượng bị xâm hại mà việc thực hiện hành vi vi phạm sau là sự kế tục
và hậu quả của hành vi vi phạm trước, thì bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
có mức phạt tiền cao nhất trong các hành vi vi phạm đó quy định tại nghị định này
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi
phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm đó. Nghiêm cấm việc chia nhỏ mức thiệt hại
chung cho từng người vi phạm để xử phạt.
Nhiều thành viên trong một hộ gia đình cùng thực hiện một vi phạm hành chính
thì áp dụng xử phạt như một tổ chức vi phạm.
17


Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị xử phạt cảnh cáo về
các hành vi do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị xử phạt hành chính về mọi
hành vi vi phạm hành chính do mình gây ra. Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt
không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên, trường hợp người vi
phạm hành chính không có tiền nộp phạt, thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay.
Những hành vi vi phạm sau đây không xử phạt vi phạm hành chính mà phải truy
cứu trách nhiệm hình sự:
- Hành vi vi phạm gây hậu quả vượt quá mức tối đa xử phạt vi phạm hành chính;
hành vi vận chuyển, buôn bán gỗ trái pháp luật vượt quá mức tối đa xử phạt vi phạm
hành chính.
- Hành vi phá rừng trái pháp luật gây thiệt hại nhiều loại rừng (rừng sản xuất, rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng) tuy diện tích bị thiệt hại đối với mỗi loại rừng không vượt quá
mức tối đa xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này, nhưng tổng hợp diện

tích bị thiệt hại của các loại rừng vượt quá mức tối đa quy định xử phạt vi phạm hành
chính đối với loại rừng bị thiệt hại có khung tối đa xử phạt vi phạm hành chính thấp nhất
- Hành vi khai thác, vận chuyển, buôn bán trái pháp luật đối với cả gỗ quý, hiếm
nhóm IIA, gỗ thông thường, tuy khối lượng của mỗi loại gỗ không vượt quá mức tối đa
quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với mỗi loại gỗ, nhưng tổng khối lượng các loại
gỗ bị vi phạm vượt quá mức tối đa quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với gỗ thông
thường.
- Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại tái phạm đối với các hành vi vi
phạm trước đó.
- Hành vi vi phạm hành chính tuy đã gây thiệt hại vượt quá mức tối đa xử phạt vi
phạm hành chính, nhưng Bộ luật hình sự không quy định hành vi đó là tội phạm, thì áp
dụng xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt cao nhất đối với hành vi vi phạm đó.
- Trường hợp vi phạm đối với thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
nhóm IA, IB được đình chỉ hoạt động tố tụng hình sự, chuyển sang xử phạt vi phạm hành
chính thì áp dụng xử phạt vi phạm hành chính như đối với thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm nhóm IIA, IIB.
2.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng
2.2.1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Kiểm lâm
18


* Kiểm lâm viên đang thi hành công vụ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 500.000 đồng.
* Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 10.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 10.000.000 đồng.
* Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm cấp huyện, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm rừng phòng hộ,

Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm rừng đặc dụng (sau đây gọi chung là Hạt trưởng Hạt Kiểm
lâm); Đội trưởng Đội Kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng, có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 25.000.000 đồng;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 của Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1 và Khoản 2 Điều 4 Nghị
định này.
* Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, Đội trưởng Đội Kiểm lâm đặc nhiệm Cục
Kiểm lâm có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 50.000.000 đồng;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn (kể cả hoạt động khai thác khoáng sản trên đất lâm nghiệp) quy
định tại Nghị định này;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4
Nghị định này.
* Cục trưởng Cục Kiểm lâm có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
19


- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn (kể cả hoạt động khai thác khoáng sản trên đất lâm nghiệp) quy
định tại Nghị định này;

- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4
Nghị định này.4
2.2.2 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp
* Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 5.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 5.000.000 đồng;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c và đ
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính.
* Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 50.000.000 đồng;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn (kể cả hoạt động khai thác khoáng sản trên đất lâm nghiệp) quy
định tại Nghị định này;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4
Nghị định này.
* Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn (kể cả hoạt động khai thác khoáng sản trên đất lâm nghiệp) quy
định tại Nghị định này;
4 Điều 26 Nghị định số 09/VBHN-BNNPTNT quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản năm 2017


20


- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4
Nghị định này.
* Cơ quan Kiểm lâm các cấp ở địa phương có trách nhiệm tham mưu cho Ủy ban
nhân dân cùng cấp trong việc xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền quy định tại
Điều này.5
2.2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng
* Thanh tra viên, người được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành đang thi hành công vụ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền không quá 500.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá
500.000 đồng;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, c và đ Khoản
1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính.
* Chánh Thanh tra Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá
50.000.000 đồng;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn quy định tại Nghị định này;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4
Nghị định này.

* Chánh Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục trưởng Tổng
cục Lâm nghiệp có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản;
5 Điều 27 Nghị định số 09/VBHN-BNNPTNT quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản năm 2017

21


- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn quy định tại Nghị định này;
- Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, b, c, đ và i
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4
Nghị định này.
* Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có
quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 250.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá
250.000.000 đồng;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn quy định tại Nghị định này.
* Trưởng đoàn thanh tra Tổng cục Lâm nghiệp và cấp sở được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 50.000.000 đồng;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá

50.000.000 đồng;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn quy định tại Nghị định này.6
2.2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành cính của Công an nhân dân, Bộ đội biên
phòng, Quản lý thị trường
Người có thẩm quyền xử phạt thuộc lực lượng Công an nhân dân quy định tại
Điều 39 Luật xử lý vi phạm hành chính có thẩm quyền kiểm tra, lập biên bản vi phạm
hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối
với hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này thuộc lĩnh vực ngành mình
quản lý theo quy định tại Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Người có thẩm quyền xử phạt thuộc lực lượng Bộ đội biên phòng quy định tại Điều
40 Luật xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý
6 Điều 28 Nghị định số 09/VBHN-BNNPTNT quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản năm 2017

22


của mình có quyền kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành
chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính
quy định tại các Điều 12, 16, 17, 20, 21, 22 và hành vi mua, bán lâm sản trái pháp luật
quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
Người có thẩm quyền xử phạt thuộc lực lượng Quản lý thị trường quy định tại Điều
45 Luật xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý
của mình có quyền kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành
chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi mua, bán lâm sản trái
pháp luật quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
Người có thẩm quyền xử phạt thuộc lực lượng Cảnh sát biển quy định tại Điều 41
Luật xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của
mình có quyền kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và

áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính quy định
tại Điều 22 và hành vi mua, bán, cất giữ quy định tại Điều 23 Nghị định này. 7
2.2.5. Giải quyết những trường hợp vượt thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
- Trong trường hợp mức phạt tiền đối với vụ vi phạm hoặc tang vật, phương tiện của
vụ vi phạm có giá trị vượt thẩm quyền xử phạt của cấp mình, thì người đã thụ lý hồ sơ vụ
vi phạm phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền để xử phạt theo
đúng thời hạn quy định. Việc chuyển hồ sơ vụ vi phạm quy định như sau:
+ Trường hợp vụ vi phạm vượt thẩm quyền xử phạt của nhân viên kiểm lâm thì
chuyển đến thủ trưởng trực tiếp.
+ Trường hợp vụ vi phạm vượt thẩm quyền xử phạt của Trạm trưởng Trạm Kiểm
lâm, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã thì chuyển đến Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm.
+ Trường hợp vụ vi phạm vượt thẩm quyền xử phạt của Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm
thì chuyển đến Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm hoặc Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp
huyện nơi xảy ra vi phạm xử lý.
+ Trường hợp vụ vi phạm vượt thẩm quyền của Đội trưởng Đội Kiểm lâm cơ động
và phòng cháy, chữa cháy rừng, thì chuyển Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm xử phạt.
+ Trường hợp vụ vi phạm vượt thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp huyện, Chi cục trưởng Kiểm lâm thì chuyển đến Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xử phạt.
7 Điều 29 Nghị định số 09/VBHN-BNNPTNT quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản năm 2017

23


+ Trường hợp hành vi vi phạm vượt thẩm quyền xử phạt của Hạt trưởng Hạt Kiểm
lâm Vườn quốc gia trực thuộc Cục Kiểm lâm, thì chuyển đến cấp có thẩm quyền (Chi cục
Kiểm lâm hoặc Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh
nơi hành vi vi phạm xảy ra hoặc chuyển đến Cục Kiểm lâm) để xử phạt.
- Việc chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt được thực hiện qua

hệ thống cơ quan Kiểm lâm. Lâm sản, phương tiện vi phạm đang tạm giữ, cơ quan ra
quyết định tạm giữ phải bảo quản tại nơi tạm giữ, chờ quyết định xử phạt của cơ quan có
thẩm quyền. Sau khi có quyết định xử phạt, cơ quan Kiểm lâm có trách nhiệm thực hiện
theo quyết định xử phạt đó.
2.3. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
Về trình tự, thủ tục để tiến hành xử phạt một hành vi vi phạm hành chính được
thực hiện theo nội dung được trong các điều khoản thuộc Mục 1, Chương III, Luật xử lý
vi phạm hành chính 2012 . Trong đó, bước đầu tiên đó là buộc chấm dứt hành vi vi phạm
(Điều 55) và sau đó có thể tiến hành việc xử phạt vi phạm hành chính mà không lập biên
bản (Điều 56). Đối với các hành vi vi phạm hành chính buộc phải lập biên bản thì sau khi
buộc chấm dứt hành vi vi phạm thì người có thẩm quyền xử phạt sẽ tiến hành lập biên
bản vi phạm hành chính (Điều 58), đồng thời thực hiện công việc xác minh tình tiết của
vụ việc (Điều 59) và xác minh giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định
khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt (Điều 60). Tiếp đó, người có thẩm quyền xử phạt sẽ
tiếp nhận việc giải trình của tổ chức, cá nhân vi phạm (Điều 61) và chuyển hồ sơ vụ vi
phạm có dấu hiệu tội phạm cho cơ quan cảnh sát điều tra (Điều 62), trong trường hợp
không có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ
quan có thẩm quyền để xử phạt vi phạm hành chính (Điều 63) để ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính theo quy định tại (Điều 67).
Trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện
quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện việc
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính theo quy định tại Điều 83, Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012.
2.4. Thời hạn, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày
ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp
24



quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện
thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết
để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời
hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.8
Người vi phạm đã bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục
tố tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ hoạt động tố tụng chuyển hồ sơ để
xử phạt vi phạm hành chính, thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 3 tháng kể từ
ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ vụ án hình sự và hồ sơ
vụ vi phạm.
2.5. Các hình thức xử phạt trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
* Thứ nhất: Cảnh cáo
Theo Điều 22 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì: cảnh cáo được áp dụng đối
với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng; có tình tiết giảm nhẹ và
theo quy định thì áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm
hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo
được quyết định bằng văn bản.
Như vậy, người chưa đủ 16 tuổi thực hiện vi phạm hành chính này có thể bị xử phạt
cảnh cáo với điều kiện: họ thực hiện vi phạm đó lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ. Điều
này phù hợp với ý nghĩa của quy định là giáo dục nhiều hơn trừng phạt. Tuy nhiên, cảnh
cáo thể hiện thái độ răn đe nghiêm khắc của nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính. Hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo
dục đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính; đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt
cảnh cáo không được coi là có án tích và không bị ghi vào lí lịch tư pháp. Do dó, vẫn
mang tính cưỡng chế nhà nước, gây cho người bị xử phạt những tổn hại nhất định về mặt
tinh thần.
Về đối tượng áp dụng là tổ chức: người đại diện khi thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của tổ chức thường có nhận thức tốt, thậm chí rất am hiểu về pháp luật trong hoạt
động của mình, nên áp dụng hình thức cảnh cáo có mức độ tác động thấp đối với tổ chức

là không tương xứng.
8 Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012

25


×