Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn ứng dụng trò chơi trong giảng dạy một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học ngữ văn ở bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Dạy học là một hoạt động đặc biệt. Nó là tổng hợp của nghệ thuật sử dụng các
phương pháp sư phạm, cách thức truyền thụ kiến thức cũng như kĩ năng giao tiếp,
kĩ năng xử lí tình huống sư phạm... Bởi vậy, người dạy luôn phải tìm tòi, đổi mới
không ngừng để có thể đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người
học.
1.2 Dạy học Ngữ văn cũng không phải ngoại lệ. Đó là một hoạt động đòi hỏi giáo
viên phải trang bị nhiều kiến thức chuyên ngành, văn hóa, kĩ năng truyền đạt, cảm
thụ. Tuy nhiên, nếu người dạy không tìm tòi các cách thức truyền thụ kiến thức, các
phương pháp học tích cực, chủ động thì hoạt động dạy và học sẽ trở nên nhàm
chán, không tạo được hứng thú, say mê cho người học.
1.3 Môn Ngữ văn ở cấp THPT giúp người học phát triển các năng lực, phẩm chất
tổng quát và đặc thù: năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực
hợp tác, năng lực tự học. Ngoài ra môn Ngữ văn còn có sứ mạng giáo dục tình cảm
và nhân cách cho người học. Người dạy và người học đều xoay quanh bốn lĩnh vực
giao tiếp cơ bản ở môn học này đó là: nghe, nói, đọc, viết. Bởi vậy, người dạy
không những phải nắm chắc các kĩ năng, mục đích giảng dạy của môn học mà còn
phải luôn cập nhật thông tin, làm mới bài giảng, cách truyền thụ bằng những
phương pháp dạy học hiện đại.
1.4 Thực tế dạy và học Ngữ văn ở bậc THPT cho thấy tồn tại nhiều bất cập. Nhiều
người chưa tìm được cách dạy, chưa áp dụng những phương pháp tiên tiến, chưa
cập nhật. Nhiều phương pháp dạy học hiện đại mặc dù đã được giới thiệu, triển
khai ở các sở GD, các trường THPT, trong các văn bản chỉ đạo chuyên môn hàng
năm nhưng việc ứng dụng, đưa vào thực tế giảng dạy còn nhiều vướng mắc, khó
khăn.
1.5 Phương pháp ứng dụng trò chơi trong dạy học đã được khẳng định là một
trong những phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm không chỉ với môn ngữ văn
1



mà còn ở nhiều môn học khác. Tuy nhiên, ở nhiều trường học, không ít giáo viên
vẫn chưa nhìn thấy hết được những điều thú vị, hiệu quả từ phương pháp này. Một
số giáo viên đã áp dụng nhưng chưa đồng bộ, khoa học, bài bản. Bởi vậy, chúng tôi
chọn đề tài: Ứng dụng trò chơi trong giảng dạy- một cách thức tạo hứng thú cho
giờ dạy học Ngữ văn ở bậc THPT nhằm góp thêm một phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, hiệu quả cho đồng nghiệp. Đồng thời mong muốn góp một cái nhìn
vào việc đổi mới cách dạy và học văn hiện nay, khi mà nhiều tiết dạy và học văn ở
bậc THPT vẫn trong tình trạng: giáo viên độc chiếm lớp học, độc quyền chân lí,
nhiều tiết học vẫn là thuyết giảng, thầy đọc trò chép, dạy máy móc, học rập khuôn
khiến cho cả giáo viên và học sinh nhiều cảm thấy học văn nhàm chán, đơn điệu,
không mấy hứng thú.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nhận ra những ưu thế của phương pháp dạy học ứng dụng trò chơi trong việc tạo
ra môi trường, không khí dạy học dân chủ, tích cực, hiện đại.
- Chỉ ra cách thức giảng dạy môn ngữ văn bằng cách ứng dụng các trò chơi trí tuệ
phù hợp trong các tiết đọc hiểu văn bản, ôn tập hệ thống hóa kiến thức, việc ứng
dung trò chơi trong giờ dạy học Ngữ văn. Đó cũng là cách học tích cực chủ động,
hiện đại chiếm nhiều ưu thế vượt trội hơn những phương pháp học truyền thống
khác.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Các trò chơi trong dạy học.
- Áp dụng trò chơi trong các bài học chủ yếu thuộc chương trình ngữ văn 10 THPT,
11 THPT.
- Học sinh các lớp 10 C6,11A5, 11A9 trường THPT Nông Cống 1.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
2



- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: dự giờ đồng nghiệp, nhận xét rút kinh
nghiệm từ những bài giảng này.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Thống kê, xử lí số liệu.

NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
3


1.1 Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục khẳng định đổi mới CT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm
chất của người học. Cách tiếp cận này đặt ra mục tiêu căn bản là giúp cho HS có
thể làm được gì sau khi học, chứ không tập trung vào việc xác định HS cần học
những gì để có được kiến thức toàn diện về các lĩnh vực chuyên môn. Đồng thời
Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu tổng quát: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về
chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt
Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi
cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời; đổi mới mạnh
mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập,
đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu
học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người
học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy
cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi
mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ

chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên
cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy
và học. Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm
chất của người học. Theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm chất người học,
bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ; thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người, dạy
chữ và dạy nghề. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp
luật và ý thức công dân
4


Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là
tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân,
phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.” Để
thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần “Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối
sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[3].
Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục đào tạo được thay đổi căn bản, thì bắt buộc
chương trình khung, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo cũng phải
thay đổi phù hợp. Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát
triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, gặt hái được
nhiều thành công trong giảng dạy.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Đặc trưng môn học
2.1.1 Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn, thuộc nhóm KHXH. Là
môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của
con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm

công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác
trong nhà trường phổ thông.
2.1.2 Môn Ngữ văn giúp HS phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc
thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung.
Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự
học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng
ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực
đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết
sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong tương lai, giúp
5


các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát triển
các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và
nhân cách cho người học.
2.1.3 Môn Ngữ văn ở trường phổ thông không được dạy học như một bộ môn khoa
học nhằm trang bị cho HS hệ thống các khái niệm khoa học. Tất cả các năng lực và
phẩm chất trên đây đều được phát triển thông qua các hoạt động dạy học, xoay
quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến thức lí thuyết
về tiếng Việt, lịch sử văn học, lí luận văn học và tập làm văn chủ yếu được dùng
như là phương tiện tiến hành các hoạt động dạy học đó.
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1 Thực tiễn dạy học Ngữ văn ở các trường THPT trong thời gian gần đây cho
thấy cách dạy học Ngữ văn vẫn theo kiểu cũ, theo lối mòn thầy đọc trò chép. Nhiều
giáo viên chưa biết chọn lọc kiến thức trọng tâm nên thường nhồi nhét rất nhiều
kiến thức, không dành cho học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình. Học sinh ít
được bàn luận, đưa ra ý kiến riêng. Rất nhiều GV vẫn còn dạy theo kiểu áp đặt yêu
cầu học sinh phải theo, phải ghi nhớ, và phải nhắc lại, viết lại. Không ít người dạy
theo kiểu nghiên cứu, đưa ra quá nhiều kiến thức hàn lâm, khó hiểu, khiến học sinh
ngại học, bị áp lực và nặng nề. Bởi vậy mà học sinh đã học một cách thụ động,

thiếu sáng tạo. không ít học sinh cảm thấy ngại học, học đối phó, không khí giờ học
nặng nề, không mấy hứng thú. Mặt khác, nhiều giáo viên chưa truyền được ngọn
lửa đam mê của mình đến học sinh nên những tiết học Ngữ văn thường là đối phó
cho xong.
2.2.2 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng dạy và học văn đáng buồn như
đã nói ở trên. Tuy nhiên, một nguyên nhân rất dễ nhận thấy đó là giáo viên chưa
biết áp dụng những phương pháp dạy học tích cực, hiện đại, và việc ứng dụng trò
chơi vẫn chỉ được áp dụng thưa thớt trong các tiết dạy, lẻ tẻ ở một bộ phận nhỏ GV.
3. Ứng dụng trò chơi - Một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học Ngữ văn
6


Ở SKKN này, chúng tôi, xin giới thiệu phương pháp ứng dụng trò chơi trong
dạy học vốn được mệnh danh là phương pháp của nền giáo dục tiên tiến - là
phương pháp dạy học đầy sáng tạo, hiệu quả hiện đang được ngành giáo dục
khuyến khích đưa vào thực hiện trong giảng dạy và học tập, trong đó có dạy học
Ngữ văn ở bậc THPT.
3.1. Khái niệm Trò chơi- Trò chơi trong dạy học
Trò chơi dạy học có nguồn gốc từ nền giáo dục dân gian, trong những trò chơi
đầu tiên của mẹ với con, trong những trò vui và bài hát khôi hài làm cho đứa trẻ
chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó. Những trò chơi đó có chứa
đựng các yếu tố dạy học.
Tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, có thể hiểu trò chơi dạy học được hiểu là trò
chơi có nhiệm vụ giáo dục có nội dung và luật chơi do Gv sử dụng tuân theo
nguyên lí của Lí luận dạy học. Trò chơi học tập là một hoạt động của con người
nhằm mục đích trước tiên chủ yếu là vui chơi giải trí, thư giãn. Nhưng qua trò chơi
học tập người chơi còn có thể được rèn luyện về các giác quan, tạo cơ hội giao lưu
với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong nhóm, tổ.. học sinh có điều
kiện "Học mà chơi, chơi và học". Trò chơi có tác dụng giúp học sinh: Tăng cường
khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng động của các em;

nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng thẳng trong
học tập của học sinh; phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận;
tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học; tăng cường khả
năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, và giữa học sinh với nhau, giúp học sinh
rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp; thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt
động. Khi chơi, các em tưởng tượng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập luận để đạt kết quả
mà không nghĩ là mình đang học. Kiến thức cung cấp trong giờ ngữ văn sẽ được
giảm nhẹ, quá trình học tập diễn ra một cách tự nhiên hơn, hấp dẫn hơn.
Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú
7


trong giờ học của học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em
phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung
thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động
vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn
học đặc biệt là đối với môn Văn.
Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: vận dụng trò chơi là một phương pháp học
tích cực, hiệu quả trong giáo dục và ngày càng trở thành xu thế trong dạy học hiện
đại, nhất là trong thực tế nhiều phương pháp dạy học khác đã trở nên lạc hậu và lỗi
thời, không đem lại hiệu quả giáo dục.
3.2 Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy Văn
Do đặc thù của môn Ngữ văn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những
điểm khác biệt với những bộ môn khác. Tuỳ thuộc nội dung bài học: Đọc hiểu- làm
văn, Tiếng Việt, bài khái quát, ôn tập hay luyện tập; tùy thuộc lượng kiến thức, mục
tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò chơi. Có thể áp dụng trò chơi nhỏ
dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Ví dụ ở giờ Đọc
hiểu văn bản, do đặc thù của phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của
tác phẩm văn chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi

chỉ vừa phải. còn ở tiết tiếng Việt có thể vận dụng nhiều trò chơi vào tiết học này.
Giờ học Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học sinh sẽ cảm thấy thoải mái, hứng
thú, kích thích hoạt động tư duy của các em. Qua trò chơi, tư duy và khả năng ngôn
ngữ của các em sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp
thời những mặt còn hạn chế. Với giờ Làm văn, có thể vận dụng trò chơi trong một
số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong cả tiết. Ở phân môn này,
việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế được các phương pháp cũng
như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành, luyện tập, hoạt động theo
nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng.
Gv cũng cần lưu ý có bài chỉ sử dụng vào khâu khởi động kiểm tra bài cũ và
giới thiệu bài mới tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập; Có
8


tiết dạy sử dụng trò chơi nhằm hình thành tri thức mới. Trò chơi thường được tổ
chức sau khi đã tìm hiểu hoạt động tìm hiểu ngữ liệu, giáo viên tổ chức trò chơi cho
học sinh khám phá, phát hiện ra tri thức mới, tri thức đó nằm ngay trong nội dung
bài học. có thể sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng. Từ đó, giúp học sinh hình
thành được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi gặp những tình huống
trong cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi làm bài...
Giáo viên cần vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để không xáo
trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc;
trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả
các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ cũng kết thúc
bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng tạo không khí cởi mở,
vui vẻ trong lớp học.
3.3 Một số trò chơi vận dụng hiệu quả trong giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc
THPT
Trong quá trình dạy học tôi đã vận dụng thành công một số trò chơi sau:
3.3.1 Trò chơi Hỏi nhanh, đáp nhanh

Mục đích: Áp dụng trò chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả học
sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém.
Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của một
nội dung, khái niệm của một bài học nào đó các em có thể thảo luận, phát hiện và
nêu ra những biểu hiện đó.
Cách tiến hành trò chơi:
- Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.
- Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi.
- Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.

9


Hình 1: Một tiết học lớp 11A5 vận dụng trò chơi Hỏi nhanh đáp nhanh.
Ví dụ: Khi dạy bài Ôn tập Văn học Trung đại. Giáo viên áp dụng trò chơi này
bằng cách chia lớp theo 4 nhóm. Gv chuẩn bị 4 gói câu hỏi, môi nhóm sẽ được
nghe câu hỏi và trả lời nhanh. Nhóm nào trả lời nhanh và đúng nhiều hơn thì nhóm
đó thắng cuộc. Điểm của nhóm sẽ được với mức quy đinh ban đầu. Với hình thức
này giáo viên vừa ôn lại kiến thức cũ mà các em đã học ở cấp học dưới vừa hình
này được tri thức mới của bài học một cách rất nhẹ nhàng.
Hoặc khi dạy bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam Ngữ Văn 10- Tập 1, thì
giáo viên tổ chức cho các em liệt kê những thể loại văn học dân gian vào phiếu, sau
đó đại diện của các nhóm lên bảng dán vào ô của nhóm mình. Nhóm nào trả lời
nhanh nhất và đúng nhất thì được thưởng. Hình thức thưởng có thể là tích điểm
theo nhóm, tổng kết vào cuối tháng để cho điểm miệng hoặc 15 phút.
Với trò chơi này, HS rèn luyện được lối hợp tác, làm việc nhóm, nâng cao
trách nhiệm các nhân với tập thể. Vì nếu nhóm trả lời chậm và sai, cũng có thể ảnh
hưởng tới điểm thưởng của từng cá nhân.
10



3.3.2. Trò chơi Tập làm diễn giả
Mục đích: Trò chơi này tập cho các em luôn tự tin, mạnh dạn khi trình bày
một vấn đề trước đám đông. Qua trò chơi, các em tự rút bài học kinh nghiệm cho
bản thân: như kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi gặp những tình huống cụ thể trong cuộc
sống và nắm bắt bài học một cách cụ thể dễ dàng.

Hình 2: Một buổi học sinh được tập làm diễn giả
Cách tiến hành trò chơi:
- Chọn 1 học sinh dẫn chương trình.
- Chọn 2-3 học sinh là khách mời để thực hiện trò chơi. Cả lớp là khán giả.
- Thời gian: tiến hành vào buổi học bồi dưỡng.
Ví dụ: Khi dạy bài Nội dung và hình thức của tác phẩn văn học- Ngữ văn 10
-tập2, GV giao trước vấn đề cho các nhóm chuẩn bị. Các nhóm này chuẩn bị về nội
dung và cử đại diện nhóm trình bày. Hs đại diện cho nhóm sẽ là nhận vật tập làm
MC. Các học sinh còn lại vai khán giả có thể đặt những câu hỏi để hỏi những vị
khách mời bất cứ câu hỏi nào có nội dung xoay quanh bài học. Như vậy, đòi hỏi các
vị khách mời phải biết sáng tạo, linh hoạt, nhanh nhạy trong xử lý tình huống khi
người dẫn chương trình và khán giả hỏi. Qua thực tế cho thấy, những học sinh vai
những vị khách mời rất thích mình được đóng vai những nhân vật trên, cho nên các
11


em luôn thể hiện rõ bản lĩnh, phong cách chững chạc, tự tin của mình. Còn khán giả
thì rất thích để tìm ra những câu hỏi hóc búa, hỏi những vị khách mời, xem có trả
lời được không…Trò chơi diễn ra khoảng 90 phút, giáo viên tuyên bố kết thúc cuộc
chơi và cho cả lớp nhận xét: cách trình bày vấn đề của mỗi bạn? các bạn trình bày
theo trình tự như thế nào nào ? Ai được cả lớp khen nhiều, ủng hộ nhiều sẽ được
nhận được món quà nhỏ của giáo viên thưởng.
Qua trò chơi học sinh dễ tiếp thu kiến thức của bài học một cách trực quan

sinh động. Khi trình bày một vấn đề thường theo các bước: Bắt đầu trình bày (Bước
lên diễn đàn như thế nào? Chào cử tọa và tự giới thiệu bằng lời lẽ, cử chỉ ra sao?).
Trình bày nội dung chính (Bắt đầu nội dung thứ nhất thế nào? Làm thế nào để
chuyển ý từ nội dung này sang nội dung khác? Cần điều chỉnh nội dụng, tư thế cách
nói ra sao khi người nghe có phản ứng...) Và cuối cùng là kết thúc và cảm ơn. Từ
đó cho thấy học sinh động, hào hứng, học sinh đã nhận biết, thông hiểu và vận
dụng kiến thức bài học vào thực tế trong một tình huống giả định.
3.3.3. Trò chơi phân vai
“Sắm vai” là phương pháp học sinh thực hành,“ làm thử”, diễn thử một đoạn
hội thoại nào đó hay đóng vai một nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó.
Trò chơi này áp dụng: cho giờ đọc văn, học hiểu văn bản, với các tác phẩm tự sự,
kịch.
Mục đích: Sắm vai nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, nhận ra vấn đề,
giúp buổi học sinh động, có kết quả hơn… Giúp chính học sinh đóng vai cảm
nghiệm được tâm lý, thái độ, hành vi của đối tượng mình đóng vai, khắc sâu và
hiểu tác phẩm hơn. Giúp học sinh tự nhận ra những thế mạnh, hạn chế của chính
mình khi rơi vào tình huống của vai đã đóng.
Cách tiến hành trò chơi:
- Dựa vào nội dung từng bài học, giáo viên đưa ra tình huống là một đoạn hội
thoại hay sắm vai theo nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó. Người sắm
vai là những học sinh xung phong, tình nguyện. Giáo viên đến từng nơi để góp ý
12


cho từng nhóm: như ngôn ngữ của nhân vật, cách thể hiện tâm trạng,...sau đó cho
các nhóm thể hiện (chủ yếu thể hiện qua ngữ điệu đọc và giọng đọc, cách ngắt nghỉ
theo tình huống văn bản).
- Cả lớp và giáo viên nhận xét.
- Khen thưởng nhẹ nhàng.
Ví dụ: khi dạy bài Đọc văn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng)Ngữ văn 11 GV cần xác định đây là thể loại kịch, vốn diễn trên sân khấu, có nhiều

lời thoại và hành động kịch mang tính dồn nén cao. GV tổ chức trò chơi cho HS
đơn giản bằng cách phân vai cho các em đọc. Nắm rõ tính cách tâm trạng và đặc
điểm văn cảnh để đọc cho đúng, GV sẽ giới thiệu qua về nhân vật, hướng dẫn cách
đọc. Mỗi nhân vật được phân vai phải đảm bảo về các đặc điểm của nhân vật đó.
Đọc xong, cô và cả lớp nhận xét. GV thưởng điểm cho những Hs đọc tốt, diễn tả
đúng nhân vật.
Áp dụng trò chơi này trong quá trình đọc văn sẽ tạo sự hào hứng cho HS,
đồng thời rèn luyện kĩ năng đọc của học sinh. Và thông qua việc HS thể hiện ngữ
điệu đọc, GV có thể ban đầu nhận xét về mức độ hiểu bài của HS để có cách điều
chỉnh kịp thời.

13


Hình 3: Một tiết học hiệu quả nhờ áp dụng Trò chơi phân vai
3.3.4. Trò chơi trả lời theo gói câu hỏi
Mục đích giúp học sinh phát huy khả năng tư duy nhanh nhạy của minh, tạo
không khí sôi nổi trong giờ học, tạo sự hứng thú và bớt căng thẳng ở học sinh. Trò
chơi này có thể áp dụng khi tìm hiểu kiến thức mới của bài học hoặc áp dụng ở
phần củng cố của bài học.
Ví dụ: chia lớp làm 6 nhóm với 6 gói câu hỏi, xoay quanh các vấn đề của
Văn học dân gian.
Gói 1: Định nghĩa, đặc trưng cơ bản của văn học dân gian? Thế nào là tính truyền
miệng, thế nào là tính tập thể? Liệt kê các thể loại của VHDG? So sánh thể loại sử
thi, truyền thuyết, cổ tích và truyện cười về mục đích sáng tác và hình thức lưu
truyền?
Gói 2: Em hiểu thế nào là ca dao than thân yêu thương tình nghĩa?Ca dao than
thân thường là lời của ai? Vì sao? Thân phận của những người ấy hiện lên như thế
14



nào? Bằng những so sánh ẩn dụ gì? Những biên pháp tu từ nào thường được sử
dụng trong ca dao?
Gói 3: So sánh tiếng cười tự trào và tiếng cười phê phán xã hội trong ca dao hài
hước? Những biện pháp nghệ thuật thường dùng trong ca dao hài hước? Đọc một
số bài ca dao hài hước phê phán thói xấu trong xã hội?
Gói 4: Những nét nổi bật trong nghệ thuật miêu tả nhân vật anh hùng của sử thi?
Nêu cốt lõi sự thật và hư cấu, chi tiết hoang đường kì ảo trong Truyền thuyết ADV
và MC TT?
Gói 5: Điền tiếp vào sau các từ "Thân em như... " và "Chiều chiều... "để thành
những bài ca dao trọn vẹn:
- ........ tấm lụa điều
Đã đông kẻ chuộng lại nhiều kẻ ưa
- ............ miếng cau khô
Người khôn tham mỏng, người thô tham dày
- ......................tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai
- ................... ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò
- ............ chim rét kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
- ................... ra đứng lầu tây
Thấy cô gánh nước tưới cây ngô đồng...

15


Gói 6: Thống kê các hình ảnh so sánh, ẩn dụ trong những bài ca dao đã học?Tìm
một vài bài thơ của các nhà thơ trung đại và hiện đại có sử dụng chất liêu văn học
dân gian để chứng minh vai trò của văn hoc dân gian đối với văn học viết?


Hình 4: Một giờ dự thi GVG Tỉnh thành công nhờ áp dụng Trò chơi trả lời theo gói
câu hỏi
Cách tiến hành trò chơi: Giáo viên chia lớp thành các đội chơi, phổ biến luật
chơi khoảng 2- 3 phút. Mỗi đội sẽ trả lời nhanh 5 câu hỏi. Những câu hỏi này tập
trung vào ôn tập các kiến thức đã học. mỗi câu trả lời đúng được 2 điểm. đội nào
trả lời được điểm nhiều sẽ chiến thắng. GV thực hiện luật tích điểm, cho những trò
chơi sau.

16


Hình 5: Trò chơi trả lời theo gói câu hỏi
3.3.5 Trò chơi ô chữ bí mật
Hình thức: Trò chơi ô chữ trong dạy học có nhiều dạng khác nhau, có thể là
giải những ô chữ hàng ngang rồi tìm từ khóa trong ô chữ hàng dọc, có thể là ô chữ
dưới dạng sơ đồ …Mỗi ô chữ có lời gợi ý và nội dung ô chữ có liên quan trực tiếp
đến bài học.
Mục đích: Giới thiệu vào bài mới hoặc củng cố khắc sâu kiến thức của bài
học. Phát huy tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh.
Cách chơi: Giáo viên giới thiệu qua ô chữ gồm có bao nhiêu hàng ngang,
hàng dọc từ chìa khoá nằm ở hàng nào sau đó giáo viên lần lượt đọc từng câu hỏi
gợi ý để học sinh xung phong giải ô chữ. Nếu bạn nào trả lời đúng thì ghi dòng chữ
đó vào ô chữ và sẽ được cộng điểm hoặc tuyên dương còn nếu trả lời sai thì sẽ
nhường cơ hội cho các bạn còn lại. Ai tìm ra được ô từ khóa chính xác và nhanh
nhất sẽ là người chiến thắng.
17


Hình 6: HS 11A5 và trò chơi Ô chữ bí mật


18


Hình 7: Hai tiết dạy thành công của đồng nghiệp nhờ vận dụng Trò chơi ô chữ bí mật
Như vậy, bằng cách vận dụng những trò chơi đó, tôi thấy bài giảng hấp dẫn
và lôi cuốn học sinh, học sinh bị cuốn hút bởi những phương pháp mới được vận
dụng linh hoạt, phù hợp với những bài giảng ở trường THPT.
19


4. Kết quả của SKKN
Qua việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh trong một số giờ học Văn tôi
thấy đã đạt được một số kết quả sau:
4.1 Đối với giáo viên:
Không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết dạy mà giáo viên và
học sinh vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức của bài học.
Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để giáo viên khắc sâu
kiến thức. Từ đó làm cho không khí lớp học sôi nổi, giảm sự đơn điệu, tăng hứng
thú học tập cho học sinh nhờ đó đã nâng cao hiệu quả việc dạy và học đặc biệt với
những em sức học yếu, chậm, nhút nhát.
4.2 Đối với học sinh:
Không khí của mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên đến giờ học các em không còn cảm
thấy căng thẳng mà rất háo hức mong đợi, học sinh trong lớp hoạt động tích cực và
đồng đều, các em mạnh dạn trình bày ý kiến, nêu thắc mắc,…từ đó các em tự
chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ một cách bền vững hơn do đó mà kết quả học tập
cũng được nâng cao. Rèn luyện tư duy, tác phong nhanh nhạy biết xử lý tình huống
linh hoạt.
Học sinh thích thú với trò chơi trong giờ học do đó năng động hăng say phát
biểu xây dựng bài vì vậy mà các em tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn. Các em có điều

kiện cùng chuẩn bị bài học, chủ động trong học tập...
Ta có thể thấy rõ qua bảng thống kê sau. Khảo sát ý kiến và chất lượng học tập
của học sinh 3 lớp thực nghiệm trong năm học 2017- 2018 (10C6, 11A5, 11A9) sau
khi áp dụng phương pháp lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn :
Số học sinh
khảo sát

HS

hay HS hứng

phát biểu

Lớp 10C6
15/38
Lớp 11A5- 35/68

thú

với

giờ học
36/38
53/68

Điểm thi

Điểm thi

HK1 >=5


HK2 >= 5

34/38
55/68

38/38
65/68
20


11A9
Tổng số

50/106

89/106

89/106

103/ 106

( 44.54% ) (90%)
(91%)
(95%)
Hiệu quả của ứng dụng trò chơi trong dạy học thể hiện ở kết quả khảo sát
sau:
Lớp




dạy

số

11A5 43
11A9 25

Giỏi
SL %
42.
17
5
10
40

Khá
SL %

TB
SL %

Yếu
SL %

Kém
SL
%

20


50

3

8

0

0

0

0

12

45

2

5

0

0

0

0


Kết quả khảo sát cho thấy so với kết quả khảo sát đầu năm như phần thực
trạng đã nêu thì rõ ràng hình thức dạy học này đã khắc phục phần nào nhược điểm
học tập thụ động ở học sinh, giúp học sinh hứng thú, chủ động, giáo viên cũng có
thể phát huy tốt tính sáng tạo trong giảng dạy và đích cuối cùng là kết quả học tập
của học sinh được nâng lên .

KẾT LUẬN
21


1. Ý nghĩa sáng kiến kinh nghiệm
Thực hiện chủ trương của Bộ giáo dục: “Về đổi mới toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[2] trong đó có nội dung
“Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục, tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục, đào tạo.”[2], thì việc áp dụng trò
chơi vào dạy học một cách rộng rãi, thường xuyên là một việc làm cần thiết, góp
phần nâng cao chất lượng, giữ chuẩn phổ cập giáo dục, góp phần thực hiện tốt
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, góp phần
thay đổi, nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và trong dạy học Ngữ văn ở bậc
THPT nói riêng.
Kết quả thực nghiệm cho phép khẳng định việc sử dụng trò chơi trong dạy học
môn Ngữ văn giúp cho học sinh chủ động tham gia vào quá trình học tập, làm cho
học sinh hứng thú với môn học và các em thực sự trở thành chủ thể của hoạt động
học. Những biến chuyển trong học tập của các em dần được nâng cao đã chứng
minh được tính đúng đắn của những giải pháp mà đề tài đặt ra.
Sau một thời gian ứng dụng trò chơi trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, chúng tôi thấy
bước đầu có những kết quả khả quan. Chúng tôi đã nhận thức được vai trò tích cực

của ứng dụng trò chơi trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Có thể thấy,
trong số những biện pháp dạy học tích cực hóa, sử dụng trò chơi được xem là một
trong những phương pháp dạy học hiệu quả, nhằm tạo ra quá trình tương tác, thu hút,
động viên học sinh tham gia hợp tác để nâng cao tính tự giác tạo cơ hội cho các em
thực hành vận dụng những kinh nghiệm, những tri thức đã học để góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học môn Văn.

2. Một số đề xuất

22


Ứng dụng trò chơi có tính khả thi cao, có khả năng thực hiện đơn giản, không
chỉ thực hiện ở các đơn vị trường học có điều kiện về công nghệ thông tin, hay giáo
viên thực sự thành thạo về vi tính mới sử dụng được mà ta có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi
vì người thiết kế (giáo viên, học sinh) có thể tổ chức trò chơi phù hợp với điều kiện
thực tế giảng dạy của mình.
Giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở bậc THPT cần mạnh dạn đổi mới
phương pháp dạy học, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học;
nghiên cứu kỹ tài liệu liên quan đến việc vận dụng trò chơi để có những kiến thức
cơ bản để vận dụng sáng tạo.
Trên đây là nội dung sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân đã từng áp dụng
hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THPT. Trong quá trình
nghiên cứu, thực hiện không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của quý
cấp quản lý và đồng nghiệp.
Tôi cam kết sáng kiến này là do bản thân thực hiện, không sao chép của tổ
chức, cá nhân nào. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trên là trung thực, đúng sự
thật.
Xin chân thành cảm ơn!

Nông Cống, ngày 20 tháng 5 năm 2018
CƠ QUAN ĐƠN VỊ XÁC NHẬN

Người viết SKKN

Trương Thị Ngọc Hân

THƯ MỤC THAM KHẢO
23


1. Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học - GS Trần Bá Hoành-TS
Nguyễn Trọng Hoàn Đại học Sư Phạm Hà Nội. 2005.
2. Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban Chấp hành TW
Đảng lần thứ 8 khóa XI “Về đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
3. Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thông do Quốc hội ban hành.
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12, NXBGD, 2010.
5. Tài liệu tập huấn chuyên môn về đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học do Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa tổ chức.

24


25



×