Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tieu luận NO CONG VIET NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.9 KB, 14 trang )

1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ
Hiện nay nền kinh tế toàn cầu hiện nay đã bước vào năm thứ sáu trì trệ và xu
hướng này tiếp tục được dự báo cho năm 2017 với nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Một trong những yếu tố có nguy cơ đe
dọa đến những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu đó là vấn đề nợ công.
Nợ công là một phần quan trọng không thể thiếu trong tài chính mỗi quốc
gia, từ nước nghèo nhất ở Châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt
Nam hay những quốc gia giàu có với trình độ phát triển cao như Nhật Bản, Mỹ,
các nước trong khối Liên minh Châu Âu (EU) đều phải đi vay để phục vụ cho các
nhu cầu chi tiêu và sử dụng của Chính phủ nhằm mục đích khác nhau. Nợ công cần
phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ
công có thể xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào, tại bất cứ thời điểm nào và để lại những
hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, hiện nay nợ công đang trở thành vấn đề nóng
bỏng và cấp thiết ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Theo số
liệu thống kê năm 2016, nợ công của nhiều quốc gia đã vượt quá cao so với
ngưỡng an toàn, tỷ lệ nợ /GDP của Nhật Bản là 243,2%, Hy Lạp là 173,8%, Italia
là 132,5%, Mỹ là 104,5%, Singapo là 103,8%,…
Ở Việt Nam, nợ công đang ở mức 63,7% với tốc độ tăng trưởng là 6,2%
(năm 2016), trong đó nợ công Chính phủ là 52,6%, con số này dự báo sẽ tăng trong
những năm tiếp theo. Đây là tình trạng đáng báo động đối với một nền kinh tế nhỏ,
đang phát triển và phụ thuộc vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô, công
nghiệp nhẹ.
Do đó bài viết này sẽ nêu lên những con số cụ thể về tình trạng nợ công ở
Việt Nam nhằm phản ánh rõ hơn thực trạng tình hình nợ công Việt Nam hiện nay.
II. NỢ CÔNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm nợ công:
Nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm
chi trả khoản nợ đó. Vì vậy nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật
ngữ như Nợ Nhà nước, Nợ Chính phủ. Tuy nhiên nợ công hoàn toàn khác với nợ
quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia bao gồm hai


bộ phận là Nợ Nhà nước và Nợ Tư nhân. Như vậy, nợ công chỉ là một phần của nợ
quốc gia.


2
Theo WB, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ thể bao
gồm: (1) Nợ của Chính phủ Trung ương và các Bộ, Ban, Ngành Trung ương; (2)
Nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3) Nợ của Ngân hàng Trung ương; (4)
Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sử dụng trên 50% vốn, nợ của cá nhân
mà Nhà nước phải trả khi họ mất khả năng thanh toán.
Ở Việt Nam, nợ công bao gồm ba nhóm là: (1) Nợ Chính Phủ là khoản nợ
sinh ra từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh
Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay do Bộ Tài chính ký kết, phát
hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật; (2) Nợ được Chính phủ bảo
lãnh là khoản nợ do doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước
ngoài được Chính phủ bảo lãnh; (3) Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền
phát hành.
2. Đặc trưng cơ bản của nợ công:
Tuy có nhiều cách tiếp cận về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có những
đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của nhà nước.
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà
nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản
nợ đó. Trách nhiệm trả nợ của nhà nước thể hiện dưới hai gốc độ là trả nợ trực tiếp
và trả nợ gián tiếp.
Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người
vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả khoản nợ vay. Trả nợ gián
tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ
thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách

nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh.
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ
nhằm đảm bảo hai mục đích là: (1) Đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng
vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh chính trị
quốc gia; (2) Đề đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Nguyên tắc
quản lý nợ công là nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy


3
động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục đích cơ bản
trên.
Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng
không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân nào mà vì lợi ích
chung của cộng đồng.
Nợ công thường là khoản vay lớn với mức lãi suất ưu đãi, phạm vi vay rộng,
đối tượng phong phú.
Ở Việt Nam, xuất phát từ bản chất của nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi
ích chung của xã hội, nhà nước là của dân, do dân, vì dân nên đương nhiên các
khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là để
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải coi đó là điều quan trọng nhất.
3. Phân loại nợ công:
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác
nhau trong việc quản lý, sử dụng nợ công. Có thể phân loại nợ công theo năm tiêu
chí sau:
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công có hai loại: Nợ trong
nước và nợ ngoài nước.
Theo phương thức huy động vốn, nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận
trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.

Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba
loại: Nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại
thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công gồm hai loại: Nợ công phải trả
và nợ công bảo lãnh.
Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân thành Nợ công Trung ương và
nợ công của chính quyền địa phương.
III. TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
Tại Việt Nam, nợ công có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước. Là nguồn tài trợ hàng đầu cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước
thông qua ngân sách Nhà nước (NSNN) và là nguồn cung cấp vốn đứng thứ 2 của
nền kinh tế với tỷ trọng vốn 16 - 17% vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ công khu vực đồng


4
tiền chung châu Âu và những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong nước đã có
ảnh hưởng nhất định đến tình hình nợ công của Việt Nam cả về quy mô, cơ cấu,
nghĩa vụ trả nợ và các chỉ số an toàn nợ công.
Sau 30 năm mở cửa kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử. Tiềm lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều, đời sống vật chất
và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, chính trị - xã hội ổn định.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn
4 lần, nếu năm 2006 GDP cả nước chưa đạt 1.000 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu
người khoảng 715 USD thì năm 2015 GDP đã đạt đến con số xấp xỉ 4.200 nghìn tỷ
đồng và GDP/đầu người là 2.019 USD. GDP tăng trưởng tương đối bền vững, lạm
phát được kiềm chế đáng kể.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là

chủ yếu. Do đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói
riêng và nợ công nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ
trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức
đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa.
1. Về quy mô nợ công:
Theo Bản tin tài chính số 4 năm 2016, chỉ trong vòng 6 năm (2010-2015),
nợ công Việt Nam đã tăng gấp 3 lần. Đến cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ
công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng; về số tương đối, tỷ lệ nợ công/GDP ở mức
62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội. (Bảng 1)
Bảng 1: Gánh nặng nợ công Việt Nam giai đoạn 2010-2015
Năm
1. Dư nợ công (1.000 tỷ

2010
889

2011
1.093

2012
1.279

đồng)
2. Nợ công/GDP (%)
56,3
54,9
50,8
(Nguồn : Bản tin nợ công số 4, Bộ Tài chính)

2013

1.528

2014
1.826

2015
2.608

54,5

58

62,2

Theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể cao hơn so với mức
công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế có
sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: Trách
nhiệm thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế


5
được xác định trên cơ sở: Chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi
vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ
bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước,
các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội và một số
địa phương.
Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là
động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%,
các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 - 40%.
Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là phù hợp với thông

lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.
Nếu chỉ số nợ công/GDP của một quốc gia thể hiện quy mô nợ công so với
quy mô của nền kinh tế thì chỉ số nợ công trên bình quân đầu người thể hiện trung
bình mỗi người dân của quốc gia này đang gánh bao nhiêu nợ. (Biểu đồ 1)
Biểu đồ 1 : Nợ công bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2015

(Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp)
Tính đến khoảng tháng 11/2015, nợ công bình quân đầu người ở Việt Nam
xấp xỉ 1.000 USD. Xét về chỉ tiêu nợ công bình quân đầu người thì Việt Nam ở
mức khá thấp so với một số quốc gia khác trong khu vực Asean. Cũng số liệu năm
2015, nước có chỉ số nợ công bình quân đầu người cao nhất là Singapore với
56.000 USD, tiếp theo là Malaysia 7.696,9 USD, Thái Lan 3.450,8 USD. Việt
Nam, Indonesia, Philippines có chỉ số nợ bình quân đầu người năm 2015 xấp xỉ


6
khoảng 1.000 USD. Thật vậy, trong khối ASEAN, tương tự như Việt Nam, các
nước Malaysia, Philippines và Thái Lan đều duy trì tỷ lệ nợ công/GDP ở mức
45%-60%. Cá biệt có trường hợp của Singapore có tỷ lệ nợ công/GDP rất cao ( gần
94% năm 2015) và Indonesia với tỷ lệ nợ công/GDP rất thấp (khoảng 25%-26%).
Theo đó, quy mô nợ công ở Singapore rất cao với khối nợ trên 278 tỷ USD. (Biểu
đồ 2)
Biểu đồ 2: Nợ công bình quân đầu người một số nước Đông Nam Á giai
đoạn 2011-2015

(Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp)
2. Về cơ cấu và kỳ hạn nợ công:
Theo khoản 2, Điều 1 Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12, nợ công của
Việt Nam bao gồm: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền
địa phương, trong đó, nợ chính phủ bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài.

(Biểu đồ 3)


7

Nguồn: Bộ Tài chính
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) có nhận định rằng,
cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện đang từng bước được điều chỉnh theo hướng
bền vững hơn. Cụ thể, trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có
xu hướng tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài
giảm tương ứng từ 61% năm 2011 xuống còn 43% năm 2015. Tỷ trọng này là phù
hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020
tầm nhìn đến 2030.
Về kỳ hạn, với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước, nếu
trong giai đoạn 2011-2013 phần lớn ngắn hạn thì đến năm 2014 kỳ hạn là 3 năm;
năm 2015, kỳ hạn kéo dài lên 4,4 năm và 6 tháng đầu năm 2016 thì kỳ hạn kéo dài
lên 5 năm.
Mức lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn trong nước
bình quân giảm từ mức 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng 6,5% vào năm
2014 và khoảng 6% vào năm 2015.
Đối với nợ nước ngoài, vay ODA, vay ưu đãi vẫn chiếm tỷ trọng cao (trên
94%) với kỳ hạn còn lại bình quân trên 10 năm, lãi suất bình quân tính đến cuối
năm 2015 khoảng 2%/năm.
Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng
tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%;
JPY chiếm tỷ trọng 13% và EUR chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng
tiền khác. Trên lý thuyết, điều này được cho là hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá,
giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ.
3. Về tình hình sử dụng nợ công:
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được

chuyển tải vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự


8
phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam chưa
đạt được hiệu quả cao, thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, còn tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Còn tình trạng chậm
trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Dù đã qua nửa năm 2016, nhưng tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt được kế
hoạch được giao, nhất là giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Vốn đầu tư
XDCB từ nguồn vốn nhà nước thấp là nguyên nhân cơ bản gây khó khăn cho công
tác thu NSNN. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy tiến độ giải ngân, tăng trưởng
của nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng, trong khi tỷ lệ và nghĩa vụ vay trả nợ công ngày
càng có nguy cơ tăng cao.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư chưa cao, thể hiện qua chỉ số ICOR:
Năm 2015, tăng trưởng kinh tế đã dần hồi phục, với tăng trưởng GDP đạt
6,68% - mức cao nhất kể từ năm 2008 đến nay, hiệu quả đầu tư đã có bước cải
thiện, với ICOR giai đoạn 2011-2015 đạt 6,91 giảm so với giai đoạn 2006-2010 (là
6,96). Điều này có nghĩa là, nếu giai đoạn 2006-2010, Việt Nam cần 6,96 đồng vốn
để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giai đoạn 2011-2015 chỉ cần đầu tư 6,91 đồng.
Rất đáng ghi nhận khi trong bối cảnh tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm
mạnh (còn khoảng 32,6% GDP vào năm 2015) thì tốc độ tăng trưởng vẫn duy trì ở
mức hợp lý. Song cũng cần thẳng thắn, ICOR của Việt Nam còn cao, hiệu quả đầu
tư còn thấp so với nhiều nền kinh tế trong khu vực. Nguyên nhân một phần là do
nền kinh tế đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng
ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội
cộng với tình trạng đầu tư còn có sự dàn trải, lãng phí.


9


Nguồn: Bộ Tài chính
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với tổng nhu cầu vốn đầu
tư toàn xã hội cho cả giai đoạn 5 năm 2016 - 2020 lên tới gần 10.600.000 tỷ đồng,
bằng khoảng 32-34% GDP. Phải huy động được nguồn vốn này, Việt Nam mới có
thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,5-7% và thực hiện khâu đột phá về xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trong đó tập trung vào hệ thống
giao thông, hạ tầng đô thị lớn. Huy động vốn đã khó, nhất là trong bối cảnh ngân
sách thâm hụt, bội chi lớn, không đủ để chi thường xuyên và trả nợ, còn nợ công
đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn, càng đòi hỏi phải sử dụng hiệu quả từng đồng
vốn đầu tư, làm giảm ICOR, đồng thời gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, có thể nhận thấy mặc dù cơ cấu nợ công được điều chỉnh theo
hướng bền vững hơn, nhưng việc sử dụng và trả nợ vẫn còn bất cập với quy mô
tăng. Vậy nguyên nhân do đâu?
4. Nguyên nhân nợ công Việt Nam gia tăng thời gian qua:
Có rất nhiều nguyên nhân làm gia tăng nợ công của Việt Nam thời gian qua,
song những nguyên nhân cơ bản phải kể đến là:
Thứ nhất, áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội lớn
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại.
Giai đoạn 2001 - 2005, đầu tư toàn xã hội bình quân 39% GDP; 2006 2010, đầu tư 42,9% GDP; 2011 - 2015, đầu tư giảm nhưng vẫn ở mức 32 - 33%
GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu
tư thì chưa cao, khoảng 25% GDP. Như vậy, thiếu hụt về nguồn cho đầu tư xã hội
dẫn đến đi vay.


10
Bối cảnh kinh tế 2011 - 2015 không thuận lợi, đặc biệt là mục tiêu tăng
trưởng kinh tế phải điều chỉnh lại từ mức bình quân 7 - 7,5%/năm xuống 6,5 7%/năm.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn giữ nguyên các chỉ tiêu chi NSNN để đạt mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách phát triển

giữa khu vực thành thị - nông thôn. Trên thực tế, tăng trưởng bình quân chỉ đạt
5,91% trong giai đoạn 2011 - 2015, trong khi mục tiêu kế hoạch đề ra theo Nghị
quyết 10/2011/QH3 của Quốc hội cho giai đoạn 2011 - 2015 là 6,5 - 7%/năm, thấp
hơn so với mức tăng trưởng trung bình giai đoạn 2006 - 2010 là 6,3%/năm. Trong
khi nhu cầu vay và các chỉ tiêu khác thì không điều chỉnh giảm.
Những tháng đầu năm 2016, nền kinh tế nước ta phải gánh chịu nhiều thiệt
hại do rét hại và băng giá ở phía Bắc, sau đó hạn hán kéo dài ở các tỉnh miền Nam
Trung bộ, Tây Nguyên, hạn hán, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, sự
cố do Formosa, kinh tế thế giới phục hồi chậm... Do đó, tăng trưởng của nền kinh
tế năm 2016 khó đạt được mục tiêu đề ra 6,7%. Cơ sở để tính toán các chỉ tiêu tài
khóa, bội chi, vay nợ đều xuất phát từ tăng trưởng kinh tế. Khi chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế giảm nhưng các chỉ tiêu kia không giảm, dẫn đến tỷ lệ nợ công so với GDP
tăng lên.
Thứ hai, bội chi NSNN gia tăng trong thời gian dài khiến vay nợ trở thành
nguồn lực để bù đắp vào thâm hụt ngân sách.
Sau khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu năm 2009, ngân sách Nhà nước
những năm gần đây có mức thâm hụt ngày càng tăng vì phải dành nguồn kinh phí
lớn cho việc thực hiện các chính sách kích thích kinh tế, cải cách tiền lương, bảo
đảm an sinh xã hội. Về giá trị tuyệt đối, bội chi tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ đồng
năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015. So với GDP, bội chi đã tăng từ
mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1% GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5%
theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn
2011-2020 và tầm nhìn đến 2030. Giai đoạn 5-10 năm vừa qua, tốc độ tăng chi tiêu
công của Việt Nam quá lớn trong khi nguồn thu ngân sách lại không tăng tương
ứng, thành ra phải vay bù đắp, nợ công tăng rất nhanh. Điều đáng lo ngại là quy
mô nợ của Việt Nam rất lớn so với năng lực trả nợ.
Thêm nữa, thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây là do chúng ta chi
tiêu quá nhiều chứ không phải do hụt thu.Tổng thu NSNN và viện trợ trung bình



11
trong bốn năm gần đây đạt khoảng 24% GDP, với tốc độ tăng khoảng 10,4% mỗi
năm. Một điểm đáng lưu ý trong điều hành NSNN của Chính phủ những năm gần
đây là chi đầu tư ngày càng giảm, chi thường xuyên và chi khác tăng lên. Trong
giai đoạn 2007-2013, chi đầu tư chiếm tỷ trọng trung bình trong tổng chi là 27,7%.
Tuy nhiên, trong hai năm 2014-2015, chi đầu tư chỉ còn 16,3% và 15,6% tổng chi.
Là một nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình thấp, đầu tư công là rất quan trọng
để tạo nền tảng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế. Do đó, tỷ lệ chi đầu tư thấp là
một điều đáng lo ngại mặc dù tổng đầu tư toàn xã hội năm 2015 vẫn đạt 32,6%
GDP, tăng 12% so với năm 2014, do đầu tư FDI và đầu tư tư nhân trong nước tăng
cao. Điều này cho thấy các nỗ lực cắt giảm chi tiêu công chủ yếu nhằm vào cắt
giảm chi đầu tư phát triển, còn chi thường xuyên - nhân tố được coi là có ít đóng
góp hơn cho tăng trưởng kinh tế dài hạn - lại chưa được chú trọng.
Thứ ba, đầu tư công cao, hiệu quả đầu tư còn thấp trong bối cảnh tiết kiệm
của Việt Nam giảm.
Chi tiêu cho đầu tư công ở nước ta thời gian qua liên tục gia tăng khiến nợ
công tăng mạnh, gây hiệu ứng nghịch cho hiệu suất tăng trưởng. Trong 5 năm 2011
- 2015, mặc dù mức vốn đầu tư toàn xã hội giảm nhưng vẫn duy trì khoảng 32%
GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu
tư chỉ khoảng 25% GDP dẫn đến sự thiếu hụt về nguồn vốn cho đầu tư, đồng nghĩa
với việc phải đi vay. Do đầu tư công có hiệu quả chưa cao buộc Chính phủ phải
tăng thu ngân sách (qua thuế, phí hoặc vay mới) để trả nợ, khiến nền kinh tế rơi
vào bất ổn, làm tăng nợ công. Đầu tư công ở châu Âu và Mỹ trở thành tâm điểm
gây bất ổn kinh tế toàn cầu và đã dẫn đến khủng hoảng nợ công 2010. Ở Việt Nam,
bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế,
không thể phủ nhận, đầu tư công còn có hạn chế, nhất là về hiệu quả đầu tư.
Nguyên nhân do quản lý chưa tốt, đầu tư chưa hợp lý, đầu tư nhiều vào các ngành
tư nhân sẵn sàng đầu tư; thiếu đầu tư tương xứng cho những ngành có khả năng lan
tỏa, dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đầu tư thiếu tập trung, không dứt điểm
cho các công trình trọng điểm… đặc biệt, nhiều khoản đầu tư không có khả năng

trả nợ, tức là khoản vay về đầu tư xong chưa tạo ra lợi nhuận để trả nợ, do vậy
buộc phải đi vay để trả nợ.
Thứ tư, việc huy động, phân bổ sử dụng vốn vay của Việt Nam còn dàn trải.


12
Tình trạng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu, điều
chỉnh các hợp đồng diễn ra khá phổ biến. Một số dự án đầu tư, nhất là dự án sử
dụng vốn vay, hiệu quả chưa cao, không trả được nợ, phải tái cơ cấu tài chính hoặc
chuyển sang cơ chế Nhà nước đầu tư vốn, làm tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của
Chính phủ.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nợ công còn phân tán, thiếu sự gắn kết chặt
chẽ giữa khâu huy động vốn với tổ chức thực hiện và trả nợ vay. Trên thực tế, trách
nhiệm của Bộ Tài chính là đi vay vốn, nhưng việc quản lý nợ và chịu trách nhiệm
trả nợ cũng cần có sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp sử
dụng nợ. Thời gian qua, việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán tình hình thực hiện,
chất lượng, hiệu quả dự án sử dụng vốn vay công chưa được thường xuyên. Việc
sử dụng các khoản vay ngắn hạn cho đầu tư dài hạn cũng làm phát sinh rủi ro tái
cấp vốn và tạo ra áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn… Giai đoạn 2010-2012, Chính
phủ vay nợ ngắn hạn nhiều, chủ yếu bằng trái phiếu kỳ hạn ngắn, dưới 5 năm. Với
một thị trường tài chính non trẻ, thiếu ổn định, phát hành trái phiếu kỳ hạn dài
không phải là dễ dàng. Phần lớn nhà đầu tư mua trái phiếu Chính phủ là ngân hàng
thương mại và họ thường có vốn ngắn hạn là chủ yếu do kỳ hạn tiền gửi của người
dân ngắn, dễ dẫn đến rủi ro kỳ hạn. Đó có thể là lý do khiến Bộ Tài chính phải vay
Ngân hàng Nhà nước 30.000 tỷ đồng và phát hành 1 tỷ đô la Mỹ trái phiếu riêng
cho Vietcombank trong năm 2015. Điều đó cho thấy, năng lực quản lý nợ công của
nước ta chưa tốt.
Từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009,
đã có sự thay đổi đáng kể về điều kiện vay vốn nước ngoài. Các nhà tài trợ đã từng
bước điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam theo hướng chuyển

dần từ việc cung cấp ODA sang các khoản vay với điều kiện kém ưu đãi hơn, chi
phí huy động vốn của một số khoản vay tăng so với giai đoạn trước đây làm gia
tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ.
Ngoài ra, với việc Việt Nam “tốt nghiệp” IDA (chương trình vay hỗ trợ
phát triển chính thức của Ngân hàng Thế giới) vào tháng 7/2017, khả năng các
khoản vay ODA của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á cũng
như các nhà tài trợ khác sẽ giảm dần. Vì vậy, Chính phủ cần huy động các khoản
vay mới để bù đắp thiếu hụt cho cân đối NSNN và đầu tư trung hạn. Tuy nhiên,


13
các khoản vay mới này sẽ có điều kiện kém ưu đãi hơn, không đủ điều kiện vốn
vay ODA theo quy định hiện hành.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý nợ công ở Việt Nam:
Để giảm áp lực nợ công, đảm bảo an toàn, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Chỉ thị 02/CT-TTg về tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ
công. Bộ Tài chính cũng đã nghiên cứu và trình Chính phủ báo cáo Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa XIII về Kế hoạch vay trả nợ công 2016-2020 tại kỳ họp
tháng 3/2016 với nhiều giải pháp theo lộ trình cụ thể.
Thứ nhất, giám sát, kiểm soát kỹ các khoản vay mới trên cơ sở xây dựng Kế
hoạch đầu tư công trung hạn trong khả năng cân đối và đảm bảo tính bền vững của
chính sách tài khóa; kiểm soát chặt chẽ danh mục đầu tư công và chỉ tập trung đầu
tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt cần sự đầu tư của Nhà nước.
Thứ hai, việc thực hiện các chương trình, dự án sử dụng nợ công phải tuân
thủ đúng dự toán được giao; tránh hiện tượng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư, đặc
biệt là tăng từ nguồn vốn vay do triển khai chậm trễ, không đúng tiến độ dẫn đến
khối lượng tăng lên. Chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đầu tư công, sử dụng nợ
công.
Thứ ba, kiên quyết cắt giảm bội chi NSNN theo lộ trình đã được xác định
trong Nghị quyết Đại hội Đảng XII và Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 về bội chi ngân sách đến năm
2020 về dưới 4% GDP; tiếp tục giảm bảo lãnh Chính phủ, ưu tiên bố trí nguồn
NSNN để trả nợ.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn
trong nước nhằm tăng nguồn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển.
Thứ năm, hằng năm, cập nhật diễn biến kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế,
sự thay đổi thị trường trong và ngoài nước… để chủ động xây dựng phương án
điều chỉnh tổng mức vay và hạn mức nợ tương ứng để đảm bảo an toàn nợ công và
an ninh tài chính quốc gia.
Như vậy có thể nói, để đạt được mục tiêu tăng trưởng thì nợ công vẫn thực
sự cần thiết cho nền kinh tế của mỗi quốc gia. Vấn đề của nợ công không nằm ở
quy mô hay tỷ lệ nợ công/GDP mà là ở xu hướng tăng trưởng của nợ công, là khả
năng trả nợ trong tương lai hay nói cách khác là hiệu quả sử dụng vốn vay. Để hạn
chế những hệ lụy của nợ công gây ra thì việc triển khai kịp thời các chính sách


14
và biện pháp quản lý nợ công là một nhiệm vụ quan trọng đối với Chính phủ và
các ngành, các cấp để công tác quản lý nợ công tại Việt Nam an toàn và hiệu quả
hơn.
IV. Kết luận
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu đang diễn biến phức
tạp, việc bảo đảm tính bền vững của nợ công và giảm nợ xấu đang là những thách
thức với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nợ công để lại những hậu quả nặng
nề và khó lường cho thị trường tài chính không chỉ riêng ở một quốc gia mà cả thị
trường tài chính toàn cầu.
Những cuộc cứu trợ khổng lồ mà châu Âu đang áp dụng cho Hy Lạp,
Ireland, Bồ Đào Nha và sắp tới là Tây Ban Nha, Italia cho thấy, khủng hoảng nợ
công gây tốn kém chi phí không kém số tiền mà Mỹ phải bỏ ra để xử lý hệ thống
tài chính nước này sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Ngoài ra khủng hoảng

nợ công còn ảnh hưởng tới chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng thương mại do
phần lớn trái phiếu chính phủ phát hành đều được ngân hàng nắm giữ, ảnh hưởng
đến thị trường chứng khoán toàn cầu....Do đó việc huy động, sử dụng và quản lý
nợ công cần phải được kiểm soát chặt chẽ.
Tóm lại, việc cắt giảm đầu tư công chắc chắn sẽ giúp giảm nợ công, một
bước tiến quyết định hướng đến mục tiêu cắt giảm bội chi ngân sách và giảm thuế
và cần thay thế nợ công bằng những phương thức khác hiệu quả hơn như phương
thức đầu tư BOT trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng, đẩy mạnh thực hiện chương
trình cổ phần hoá doanh nghiệp,…



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×