Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TÌNH HUỐNG NUÔI CON NUÔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.85 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội
Việt Nam. Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài,
bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người nhận nuôi con nuôi, bảo đảm cho con
nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tromg môi trường gia đình.
Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, được Đảng
và Nhà nước quan tâm sâu sắc. Bên cạnh việc tạo mái ấm gia đình cho những
trẻ em có hoàn cảnh khó khan cần có mái ấm gia đình, việc nuôi con nuôi còn
còn càng trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội khi góp phần đáp ứng nhu
cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, đặc biệt là những cặp vợ chồng
vô sinh, hiếm muộn, những người phụ nữ đơn thân…
Với ý nghĩa đó, nhóm 2 lớp K4C sẽ đi tìm hiểu và phân tích, làm rõ
tình huống số 8 liên quan đến chế định nuôi con nuôi để có thể hiểu rõ hơn về
vấn đề này. Đồng thời, qua đó có thể so sánh, phân tích và thấy được những
điểm mới của luật này, cũng như đưa ra những kiến nghị để các quy định này
phù hợp hơn trong thực tế.
A.

NỘI DUNG

I. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Tóm tắt tình huống: Năm 2011, vợ chồng anh A, chị B nhận cháu X làm
con nuôi. Việc nhận con nuôi được bố mẹ đẻ của X là anh Y, chị Z đồng ý và
1


tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Năm 2017, công ty TNHH của anh A
phá sản dẫn đến kinh tế gia đình A-B lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Do đó,
anh Y, chị Z muốn chấm dứt quan hệ nuôi con giữa cháu X và anh A, chị B


tuy nhiên cháu X cũng như vợ chồng A-B không đồng ý với quyết định này.


Tình huống đặt ra 3 vấn đề như sau:
Vấn đề 1: Anh Y và chị Z yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi (NCN)

trong trường hợp này có được chấp nhận không? Vì sao?
Vấn đề 2: Trong thời gian anh A và chị B không đủ điều kiện nuôi dưỡng
cháu X thì anh Y, chị Z có nghĩa vụ cấp dưỡng cho X hay không? Vì sao?
Vấn đề 3: Trong trường hợp anh A chị B không đủ điều kiện nuôi dưỡng
cháu X thì anh A chị B muốn chấm dứt quan hệ NCN có được không?


Để giải quyết 3 vấn đề trên, chúng ta cần xem xét, làm rõ những điểm
dưới đây:

-

Ở vấn đề 1: Anh Y, chị Z có quyền yêu cầu chấm dứt việc NCN hay

không? Yêu cầu được gửi đến ai. Căn cứ để chấm dứt quan hệ NCN là gì?
-

Ở vấn đề 2: Nghĩa vụ của anh Y, chị Z là bố mẹ đẻ đối với cháu X sau

khi cháu được người khác nhận làm con nuôi. Lúc nhận nuôi X, giữa gia đình
A-B và Y-Z có thỏa thuận gì với nhau về vấn đề cấp dưỡng cho X không?
-

Ở vấn đề 3: Về mặt nhìn nhận, chúng ta thấy rằng việc chấm dứt quan hệ


NCN khi anh A, chị B không có điều kiện để nuôi dưỡng là một việc tốt cho
cháu X và cả anh A, chị B. Tuy nhiên về mặt pháp lý, cần xác định căn cứ
chấm dứt quan hệ NCN để đối chiếu với trường hợp của gia đình A-B cũng
như ràng buộc trong mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi.
 Như vậy, căn cứ vào mốc thời gian xác lập quan hệ NCN và những lập luận
trên liên quan đến nghĩa vụ của cha mẹ đẻ khi cho con nhận làm con nuôi,
căn cứ chấm dứt quan hệ NCN, tổ 2 K4C xin được áp dụng Luật NCN 2010
để giải quyết những yêu cầu trên.
2


II. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC NUÔI CON NUÔI
1. Khái niệm “Nuôi con nuôi”
Khoản 1 Điều 3 Luật NCN năm 2010 quy định: “NCN là việc xác lập
quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm
con nuôi”. Trong đó, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không có quan hệ thuyết
thống trực hệ với nhau. Để việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người
nhận con nuôi, người được nhận làm con nuôi được pháp luật thừa nhận, cần
tuân thủ pháp luật HNGĐ, pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch về điều
kiện và thủ tục đăng ký việc NCN. Một số VBPL hiện hành quy định về vấn
đề này như: Luật HNGĐ 2014; Luật NCN 2010; Luật hộ tịch 2014….
2. Mục đích của việc nuôi con nuôi
Việc NCN nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhận nuôi và người nhận nuôi,
trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng. Việc NCN phải dựa trên quan điểm là
mang đến cho đứa trẻ một gia đình, để cho đứa trẻ được sống trong một môi
trường gia đình với bầu không khí yêu thương và thông cảm.
3. Điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp
3.1.

Điều kiện về phía người được nhận làm con nuôi
Điều kiện về phía người được nhận làm con nuôi được quy định tại Điều 8
Luật NCN năm 2010. Theo đó đối tượng được nhận NCN bao gồm:



Trẻ em dưới 16 tuổi.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường
hợp: được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; được cô, cậu, dì, chú,
bác ruột nhận làm con nuôi.

Đồng thời, một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc
của cả hai người nếu họ là vợ chồng hay nói cách khác một người không thể
làm con nuôi của một người đang trong tình trạng có vợ hoặc có chồng.
3.2.

Điều kiện đối với người nhận con nuôi
Theo điều 14 Luật NCN năm 2010, người nhận con nuôi phải có các điều

kiện sau: Có NLHVDS đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện
3


về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
nuôi; có tư cách đạo đức tốt.
 Riêng trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng
của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chí, bác ruột nhận cháu làm con nuôi
thì chỉ cần đáp ứng 2 điều kiện về NLHVDS và tư cách đạo đức.
Kết hợp chặt chẽ với các điều kiện cần thì những người thuộc trường hợp
sau đây sẽ không được nhận NCN: Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ

đối với con chưa thành niên; Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ
sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xoá án
tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh
dự của người khác; Ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháy,
người có công nuôi dưỡng mình; Dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa
thanh niên vi phạm pháp luật; Mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

 Sự kết hợp này nhằm đảm bảo cho người con nuôi được sống trong môi
trường lành mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, tránh những ảnh hưởng
xấu của cha mẹ với con nuôi.
3.3.

Điều kiện về sự tự nguyện của các bên trong việc nuôi con nuôi

Tại điều 21 Luật nuôi con nuôi năm 2010 có ghi rõ:
-

Về ý chí của người được nhận nuôi: nếu người được nhận nuôi từ đủ 9

tuổi trở lên, trừ trường hợp bị mất hay hạn chế NLHVDS, thì phải có sự đồng
ý của người đó. Sự đồng ý ở đây được hiểu là đồng ý về việc có nhận người
đó/ gia đình đó làm cha/mẹ/cha mẹ nuôi của mình hay không.
- Về ý chí của những chủ thể khác trong việc nhận nuôi con nuôi:
+ Cha mẹ đẻ: Việc nhận NCN phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của
người được nhận làm con nuôi. Nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất
NLHVDS hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn
lại. Song không phải thời điểm nào, sự đồng ý này cũng là điều kiện hợp
4



pháp, theo đó: cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi người khác
sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày, tránh tình trạng thỏa thuận việc
cho nhận con nuôi trước đó, nhằm đảm bảo quyền trẻ em khi sinh ra phải biết
được nguồn gốc của mình.
+ Người giám hộ: nếu cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất NLHVDS
hoặc không xác định được thì phải có sự đồng ý của người giám hộ.
+ Người nhận NCN: Việc NCN cần có sự đồng ý của người nhận nuôi,
mặc dù trong luật không quy định nhưng thông qua nguyên tắc và thủ tục
đăng ký NCN ta thấy, sự đồng ý của người nhận nuôi là một yếu tố quan
trọng, cần thiết.
Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không
bị đe doạ hay mua chuộc không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc
lợi ích vật chất khác. Việc nhận NCN xuất phát từ những động cơ, mục đích
trái pháp luật, trái đạo đức sẽ không có giá trị pháp lí.
4. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Hệ quả là kết quả trực tiếp sinh ra từ một sự việc nào đó bao gồm cả mặt
tích cực và mặt tiêu cực. Tìm hiểu về hệ quả pháp lý của việc NCN là đi vào
làm rõ kết quả trực tiếp phát sinh sau khi quan hệ NCN được hình thành theo
quy định của pháp luật, nằm trong khuôn khổ pháp luật.
4.1.

Quan hệ giữa người được nhận nuôi với người nhận nuôi, với

những thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi
*

Quan hệ giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ

các quyền, nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ: quyền và nghĩa vụ chăm

sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại,
quản lý, định đoạt tài sản riêng của con, trong đó bao hàm cả việc hạn chế
quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Ngoài ra, việc NCN cũng phát

5


sinh trường hợp cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, ngay cả khi giữ
họ không còn tồn tại quan hệ NCN nữa.
* Quyền thay đổi họ tên của người được nhận nuôi
Về nguyên tắc, việc NCN không đương nhiên có tác dụng thay đổi họ của
con nuôi theo họ của người nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền (UBND
cấp xã) quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi khi cha mẹ nuôi có yêu
cầu sau khi đã thỏa thuận với cha mẹ đẻ của con nuôi, trường hợp con nuôi từ
đủ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.
* Quyền xác định dân tộc của người được nhận nuôi
Quyền xác định dân tộc của con nuôi theo dân tộc của cha mẹ nuôi chỉ
được thực hiện khi người con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi, không xác định được
cha mẹ đẻ là ai. Ngoại trừ trường hợp này thì dân tộc của người được nhận
làm con nuôi trước tiên được xác định về mặt huyết thống.
*

Quan hệ giữa người được nhận nuôi với những thành viên khác của

gia đình cha mẹ nuôi
Nhằm tạo điều kiện cho người con nuôi có thể hòa nhập với gia đình cha
mẹ nuôi, giữa người được nhận nuôi và các thành viên khác trong gia đình
của người nhận nuôi cũng có các quyền và nghĩa vụ với nhau theo pháp luật
HNGĐ và pháp luật dân sự, đó là các quan hệ như giữa ông bà và cháu, giữa
con đẻ và con nuôi như anh, chị, em với nhau…

4.2.

Quan hệ giữa người được nhận nuôi với gia đình gốc

* Quyền và nghĩa vụ với cha mẹ đẻ
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ và con. Vậy quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ đẻ với con nuôi sẽ được giải quyết như thế nào? Để làm rõ điều này, tại
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy đinh chi tiết thi hành một số
điều của Luật NCN có đề cập: trong giai đoạn kiểm tra hồ sơ, công chức tư
6


pháp – hộ tịch kiểm tra việc cha mẹ đẻ có thỏa thuận với cha mẹ nuôi để giữ
lại quyền, nghĩa vụ đối với con hay không và cách thức thực hiện quyền,
nghĩa vụ đó sau khi đã cho làm con nuôi.
Kết hợp với luật NCN 2010, ta hiểu rằng kể từ ngày giao nhận con nuôi,
nếu như không có thỏa thuận thì coi như cha mẹ đẻ chấm dứt quyền và nghĩa
vụ với con. Nếu như có thỏa thuận còn quyền nghĩa vụ nào thì sẽ còn quyền
và nghĩa vụ ấy.
* Quyền thừa kế trong gia đình cha mẹ đẻ
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì con nuôi vẫn được bảo tồn
quyền thừa kế đối với di sản của những người cùng huyết thống: con nuôi là
người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất của cha mẹ ruột, là người
thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ hai của anh, chị, em ruột, là người thừa
kế thế vị của cha mẹ ruột trong di sản của ông bà nội (ngoại)...
5. Chấm dứt việc nuôi con nuôi
Chấm dứt việc NCN được hiểu là việc chấm dứt quan hệ pháp luật giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi do Toà án quyết định khi có những căn cứ mà pháp
luật quy định theo yêu cầu của những người có quyền yêu cầu. Vấn đề này

được quy định cụ thể tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Điều 10 Luật NCN năm 2010 quy định về Thẩm quyền giải quyết yêu cầu
chấm dứt việc NCN thì “TAND có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt
việc NCN theo quy định của pháp luật về TTDS”.
Hệ quả của việc chấm dứt NCN được quy định tại Điều 27 Luật NCN
2010, theo đó, kể từ khi quyết định của Tòa án có hiệu lực thì quyền và nghĩa
vụ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi chấm dứt; quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con
được nhận nuôi được khội phục lại; tài sản riêng của con, con sẽ được nhận
lại; con nuôi có quyền lấy lại họ tên của mình; nếu con chưa thành niên, hoặc
đã thành niên nhưng bị mất NLHVDS thì sẽ do Tòa án quyết định giao cho
cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng.
7


III. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Anh Y chị Z yêu cầu chấm dứt việc việc NCN trong trường hợp này có
được chấp nhận không? Vì sao?
Để xác định yêu cầu chấm dứt việc NCN của Anh Y, chị Z có được TAND
chấp nhận hay không? Điều đầu tiên cần làm rõ là anh Y chị Z có thuộc đối
tượng được quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi hay không.
 Áp dụng khoản 3 Điều 26 Luật NCN 2010 quy định về tổ chức, cá nhân
có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi “ 3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của
người con nuôi” thì trong tình huống này anh Y chị Z tức bố mẹ đẻ của cháu

X có quyền yêu cầu chấm dứt việc NCN giữa cháu X là người con nuôi với
anh A chị B.
Sau khi đã nộp đơn yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đến TAND, Tòa
án sẽ quyết định việc chấp nhận yêu cầu của người có yêu cầu dựa trên các
căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của Luật. Theo đó tại Điều
25 Luật NCN 2010 quy định các trường hợp có thể chấm dứt việc NCN như

sau:
“Việc NCN có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau:
1.
2.

Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc NCN;
Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ

nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
4. Vi phạm các quy định tại Điều 13 của Luật này.”
Trong đó Điều 13 quy định về các hành vi bị cấm khi xác lập quan hệ nuôi
con nuôi như lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, giả mạo giấy tờ để giải
quyết việc nuôi nuôi, phân biệt đối xử giữa con đẻ với con nuôi,..

Xét lí do yêu cầu chấm dứt việc NCN của anh Y và chị Z là do kinh tế
gia đình bố mẹ nuôi của cháu X đang lâm vào tình trạng khó khăn để đối
8


chiếu, nhận thấy lí do này không thỏa mãn với 4 căn cứ nêu trên nên trong
trường hợp này, yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi của anh Y, chị Z sẽ không
được chấp nhận.
2. Trong thời gian anh A và chị B đang không đủ điều kiện nuôi dưỡng
cháu X thì Y, Z có nghĩa vụ cấp dưỡng cho X hay không? Vì sao?
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ như theo quy định tại khoản
1 Điều 24 Luật NCN 2010. Tuy nhiên, việc NCN không đồng thời làm chấm

dứt quan hệ giữa cha mẹ đẻ và người con đã được nhận nuôi đó. Ta có thể suy
ra, quan hệ giữa anh Y, chị Z với cháu X không bị chấm dứt. Vậy anh Y chị Z
có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu X hay không?
Khoản 4 Điều 24 Luật NCN 2010 quy định về hệ quả của việc nuôi con
nuôi: “Trừ trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ
ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản
lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi”.
Như vậy để xác định anh Y, chị Z có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu X
khi cháu X ở nhà bố mẹ nuôi hay không, cần xét đến 2 trường hợp:


TH 1: Giữa anh A, chị B và anh Y, chị Z có thỏa thuận với nhau về việc

cấp dưỡng định kỳ liên tục cho cháu X hoặc trong thời gian anh A, chị B gặp
điều kiện kinh tế khó khăn ( tránh trường hợp giữa bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi chỉ
thỏa thuận cấp dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định ) thì việc cấp dưỡng

và cách thức cấp dưỡng được thực hiện theo thỏa thuận đó. Điều này có nghĩa
là anh Y, chị Z sẽ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này.


TH 2: Giữa anh A, chị B và anh Y, chị Z không có thỏa thuận nào về

nghĩa vụ với cháu X thì kể từ ngày giao nhận con nuôi, anh Y, chị Z không
còn nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu X. Đi theo tình huống này, dù anh A và chị
9


B đang không đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu X thì việc bố mẹ đẻ cháu X có

hỗ trợ cho cháu hay không là không bắt buộc, hoàn toàn do ý chí tự nguyện.
3. Trong trường hợp anh A chị B không đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu X
thì anh A và chị B muốn chấm dứt quan hệ NCN có được không?
Quan hệ nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ do đó nếu anh A và chị B muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi cần
đưa ra yêu cầu chấm dứt để Tòa án xem xét và giải quyết trên cả mặt pháp lý
và thực tế.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 26 Luật NCN 2010 thì anh A, chị B là cha
mẹ nuôi của cháu X nên sẽ có quyền yêu cầu được chấm dứt việc NCN. Tuy
nhiên, để yêu cầu chấm dứt việc NCN được chấp nhận phải thỏa mãn ít nhất
01 trong 04 các căn cứ được quy định tại Điều 25 Luật NCN 2010.
Đối chiếu lí do yêu cầu chấm dứt nuôi cháu X của gia đình anh A chị B
là do gia đình không còn đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu với 4 căn cứ tại Điều
25 Luật NCN 2010, nhận thấy:
Thứ nhất, lí do yêu cầu của anh A chị B không tương thích với các căn
cứ tại các khoản 2, 3, 4 Điều 25 Luật NCN 2010. Cụ thể: anh A chị B và cháu
X đều không bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi hoặc cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ
con nuôi hoặc cha mẹ nuôi. Đồng thời, việc nhận NCN cũng không vi phạm
các điều cấm tại Điều13 Luật NCN 2010 như lợi dụng việc nuôi con nuôi để
trục lợi, bóc lột sức lao động, ông, bà nhận cháu làm con nuôi,.. Do vậy, các
căn cứ như trên sẽ không được tòa xem xét trong trường hợp này.
Thứ hai, xét đến căn cứ còn lại tại khoản 1 Điều 25 quy định: “Con
nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc NCN”. Ta thấy có
hai điều kiện: một là con nuôi đã thành niên, hai là cha mẹ nuôi đều tự nguyện
chấm dứt quan hệ NCN đó. Xuất hiện từ “và” nên ta hiểu rằng để chấm dứt
việc NCN cần phải đáp ứng cả hai điều kiện.
10



Nhìn lại tình huống, một điều kiện trong căn cứ này đã được làm rõ là
sự tự nguyện muốn chấm dứt nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi vì rõ ràng yêu
cầu này xuất phát từ chính anh chị và với lí do là không đủ điều kiện nuôi
cháu, không hề có sự ép buộc nào. Vậy đến đây, để giải quyết yêu cầu của anh
A chị B, chúng ta đi làm rõ điều kiện còn lại là độ tuổi của cháu X - rằng cháu
X đã thành niên hay chưa.
 Xét tình huống ta thấy một dữ kiện: tại thời điểm nhận NCN, việc
nhận cháu X làm con nuôi đã được cha mẹ đẻ của cháu đồng ý. Liên hệ đến
điều 21 Luật NCN 2010 về sự đồng ý cho làm con nuôi, trong đó có quy định:
“Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ người được nhận
làm con nuôi;…..Trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì
còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó” . Dữ kiện trên không đề cập đến sự

đồng ý của cháu X vậy trong tình huống này có 2 trường hợp có thể xảy ra:
Trường hợp 1: Năm 2011, tức lúc nhận nuôi con, cháu X dưới 09 tuổi
do vậy không cần có sự đồng ý của cháu;
Trường hợp 2: Cháu X lúc bấy giờ đã đủ 09 tuổi nhưng không đồng ý
với việc được nhận làm con nuôi của anh A, chị B.
Đi vào từng trường hợp, lại xét đến tình tiết “Việc nhận cháu X làm con
nuôi tuân thủ đúng quy định của pháp luật”. Đúng pháp luật tức là đã thực
hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký nhận NCN quy định tại Điều 22; đáp ứng
đầy đủ điều kiện của người nhận NCN, người được nhận NCN; về sự đồng ý
việc NCN quy định tại các Điều 8, Điều 14, Điều 21 Luật NCN năm 2010.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng, trường hợp cháu X không đồng ý với việc nhận
NCN là không hợp lý. Hơn thế nữa, thời gian cháu X làm con nuôi của anh A,
chị B là 6 năm (2011 - 2017). Điều 23 luật NCN năm 2010 quy định về thông
báo tình hình phát triển của con nuôi và theo dõi việc NCN trong 03 năm đầu
tiên, trong quá trình đó UBND xã không thể không phát hiện ra việc nhận
NCN trái ý muốn của cháu X.
11



Từ những căn cứ, lập luận nêu trên, nhóm nhận định rằng vào năm
2011, cháu X chưa đủ 09 tuổi. Do đó nếu năm 2011, cháu X chưa đủ 09 tuổi
vậy năm 2017 tức thời điểm đang xét, cháu X cũng chưa thành niên (nếu lúc
đó cháu X đủ 09 tuổi, tính năm 2017 cháu mới có 15 tuổi, chưa thành niên).
Do đó, trường hợp của anh A chị B cũng không thỏa mãn điều kiện để chấm
dứt theo khoản 1 điều 24 Luật NCN 2010.
Mặt khác, dù không đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu X nhưng sự ràng
buộc về quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của bố mẹ nuôi đối với con
nuôi cũng là một trong những lí do để mong muốn chấm dứt của anh Y, chị Z
không đương nhiên được chấp nhận, tức là không thể vì không đủ điều kiện
mà muốn chối bỏ không nuôi dưỡng cháu, đặc biệt khi cháu chưa thành niên.
 Như vậy, ta kết luận trong trường hợp anh A, chị B không đủ điều kiện
nuôi dưỡng cháu, mong muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi với cháu X thì
cần phải có yêu cầu để được Tòa án công nhận chấm dứt việc nuôi con nuôi,
không đương nhiên chấm dứt theo ý muốn chủ quan của bản thân anh chị. Và
với lí do vì không đủ điều kiện nuôi dưỡng như trên, yêu cầu của anh A chị B
sẽ không được tòa chấp nhận.
IV. ĐIỂM MỚI, BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN
VIỆC NUÔI CON NUÔI VÀ KIẾN NGHỊ KHẮC PHỤC
1. Điểm mới về chế định nuôi con nuôi trong Luật nuôi con nuôi 2010
Luật NCN năm 2010 là Luật NCN đầu tiên được tách ra từ luật HNGĐ năm 2000,
là sự cụ thể hóa, sửa đổi, bổ sung các chế định liên quan đến NCN. Trong đó có thể
đề cập đến những điểm mới nổi bật liên quan sau đây:

Thứ nhất, điều kiện của người được nhận NCN. Khác với Luật HNGD
2000, Luật NCN năm 2010 nâng độ tuổi của trẻ em được cho làm con nuôi từ
15 tuổi đến dưới 16 tuổi.


12




Việc nâng độ tuổi được nhận nuôi lên dưới 16 tuổi phù hợp với độ tuổi

được xem là trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Trẻ
em trong những hoàn cảnh nhất định vẫn cần được tạo điều kiện để các em
được trở thành con nuôi, được chăm sóc, nuôi dưỡng.
Ngoài ra, Luật NCN 2010 cũng bổ sung quy định cho người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi khi đã có thể tự mình đáp ứng các nhu cầu cơ bản của bản
thân nhưng nếu những người thân của người đó có nhu cầu và được sự đồng ý
của người đó thì Luật vẫn cho phép xác lập quan hệ NCN.
Việc xóa bỏ quy định người trên 15 tuổi bị mất NLHVDS, bị tàn tật... được
nhận làm con nuôi được xem là phù hợp. Căn cứ theo Luật mới người trên 18
tuổi sẽ không được làm con nuôi vì tính cần thiết trong việc tạo lập mối quan
hệ giữa cha mẹ với con cho họ là không còn, thay vào đó có thể cử người
giám hộ, người đại diện,..
Thứ hai, căn cứ chấm dứt NCN. Nếu Luật HNGĐ năm 2000 cần có sự
tự nguyện của cả cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên thì khoản 1 Điều 25
Luật NCN năm 2010 chỉ đề cập đến sự tự nguyện của cha mẹ nuôi hoặc của
con đã thành niên.
 Đây được xem là một điểm tiến bộ, nếu cha mẹ nuôi đã có mong muốn
chấm dứt quan hệ NCN thì nghĩa là họ hoặc không đủ điều kiện hoặc đang
tồn tại nhiều vấn đề khiến cho cha mẹ nuôi không còn đủ tâm huyết để nuôi
con. Khi đó, trong bất kỳ trường hợp nào thì việc tiếp tục quan hệ NCN đều
không tốt đối với người được nhận nuôi.
Thứ ba, về nguyên tắc giải quyết việc NCN. Nếu Luật HNGD 2000 chưa
đề cập thì tại Điều 4 Luật NCN 2010 đã đưa ra 3 nguyên tắc có ý nghĩa quan

trọng trong quá trình giải quyết việc NCN như: tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong gia đình gốc; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người
13


được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi; Chỉ cho làm con nuôi người
nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước.
 Những nguyên tắc cơ bản, hợp lý như thế này sẽ là kim chỉ nam trong toàn
bộ quá trình việc giải quyết NCN, hướng đến bảo vệ quyền lợi cho con nuôi
một cách tốt nhất.
Thứ tư, về biện pháp bảo đảm việc NCN trong nước. Luật NCN 2010
đưa ra quy định về việc tìm gia đình thay thế trong nước, nhằm bảo đảm trẻ
em có cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước trong khi Luật HNGĐ năm
2000 không có sự phân biệt giữa NCN trong nước và nước ngoài.
 Điểm mới cơ bản này phù hợp với xã hội hiện nay, với sự phát triển các
quan hệ xã hội, giúp cho cơ chế quản lý việc NCN thuận lợi hơn. Bên cạnh
đó, sống ở nước ngoài sẽ khiến trẻ em cảm thấy xa lạ với một nền văn hóa
khác biệt với nền văn hóa mà các em đang sinh sống cũng như nhiều vấn đề
phức tạp khác mà việc NCN ở trong nước nên được ưu tiên.
2. Bất cập về chế định Nuôi con nuôi trong Luật hôn nhân gia đình và
Luật nuôi con nuôi & kiến nghị khắc phục
Tuy Luật NCN năm 2010 đã phản ánh được phần nào bản chất và mối
quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ NCN, song Luật này vẫn còn tồn tại
những điểm chưa rành mạch, rõ ràng, dẫn đến những cách hiểu khác nhau, gây
khó khăn cho quá trình áp dụng trong thực tế, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Khoản 1 Điều 24 Luật NCN 2010 quy định: “Kể từ ngày
giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về HNGĐ, pháp luật dân
sự và các quy định khác của pháp luật khác có liên quan”. Hiển nhiên, các

quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập đầy đủ như
giữa cha mẹ với con theo pháp luật HNGĐ. Thế còn các quyền và nghĩa vụ
giữa con đã được nhận nuôi với cha mẹ đẻ chấm dứt hoàn toàn luôn sao? Rất
cần sự quy định rõ vấn đề này trong Luật để đảm bảo mối quan hệ gốc của
14


người được nhận nuôi. Nếu như hai bên cha mẹ có sự tự nguyện thỏa thuận về
các quyền và nghĩa vụ pháp lí: Chấm dứt, giữ lại toàn bộ hay một phần các
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên chủ thể có liên quan. Sự thỏa thuận
này được lập thành văn bản có sự chứng kiến của cơ quan có thẩm quyền
công nhận việc NCN. Nếu giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi không có thỏa
thuận thì quan hệ giữa con được nhận nuôi với cha mẹ đẻ và gia đình gốc
chấm dứt toàn bộ; đồng thời con nuôi được hưởng tất cả các quyền và nghĩa
vụ trong gia đình cha mẹ nuôi, gồm cả quan hệ với các thành viên khác của
gia đình cha mẹ nuôi như con đẻ, kể cả quyền thừa kế theo luật. Quy định như
vậy vừa rõ ràng, vừa thể hiện sự tôn trọng, tự quyết gắn liền với nhân thân của
các đương sự, tăng tính khả thi và thống nhất khi thực hiện, áp dụng pháp
luật.
Thứ hai, về hồ sơ của người nhận NCN, theo quy định tại Khoản 5
Điều 17 Luật NCN năm 2010 về hồ sơ của người nhận NCN cần có văn bản
xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND xã
nơi người nhận NCN thường trú.Tuy nhiên, việc xác định như thế nào, có hay
không khả năng nuôi dưỡng của người nhận nuôi chưa được rõ ràng. Đặc biệt,
trên thực tế, đối với cô, dì, chú, bác… nhận cháu làm con nuôi thì điều kiện
này không quy định. Vậy nếu các điều kiện đó không được đáp ứng từ phía
những người này thì sao? Quyền của người con nuôi có còn được bảo đảm?
Theo đó, cần có quy định chi tiết cụ thể hơn về việc xác định điều kiện
kinh tế của người nhận NCN cũng như sớm có hướng dẫn về việc chi kinh phí
cho việc đi xác minh, thẩm định hồ sơ.

Thứ ba, việc theo dõi trẻ em sau khi được nhận nuôi theo quy định tại
Điều 23 Luật NCN năm 2010 chưa đạt hiệu quả mong muốn như không nộp
báo cáo về tình hình phát triển của trẻ hay chuyển khỏi nơi cư trú không báo
cáo… song lại chưa có chế tài xử lý đối với các trường hợp không gửi báo cáo
về tình hình của trẻ em sau khi được nhận làm con nuôi. Để giải quyết vấn đề
15


này rất cần có quy định chi tiết cụ thể hơn về việc theo dõi tình hình phát triển
của trẻ em sau khi được nhận nuôi. Đặc biệt, đối với các đối tượng có hộ khẩu
trên địa bàn nhưng thực tế không cư trú thường xuyên. Cần có quy định về
các chế tài xử lý các trường hợp không gửi báo cáo về tình hình của trẻ sau
khi nhận con nuôi và trường hợp đã nhận con nuôi thì sau bao lâu mới được
chuyển khỏi nơi đã làm thủ tục đăng ký.
Thứ tư, Luật vẫn chưa đề cập đến vấn đề huỷ việc NCN, mặc dù tình
trạng vi phạm các điều kiện NCN xảy ra khá nhiều trên thực tế. Chẳng hạn,
khi việc nhận NCN vi phạm một trong các điều kiện của NCN (vi phạm về độ
tuổi, thiếu sự tự nguyện của cha mẹ đẻ hay người giám hộ hay nhận NCN
nhằm những mục đích trái pháp luật như lợi dụng trẻ vào mục đích mại dâm,
mua bán ma túy…). Những trường hợp này không thuộc các trường hợp chấm
dứt NCN (Điều 25 Luật NCN năm 2010) nên khi xảy ra thì không thể áp
dụng. Do đó, nhóm đề xuất nên thêm những Điều luật quy định về hủy việc
NCN và cần phân biệt giữa việc hủy NCN với chấm dứt NCN.
Thứ năm, điều kiện của người nhận NCN, Điểm b Khoản 1 Điều 14
Luật NCN 2010 quy định người nhận NCN phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở
lên.Tuy nhiên, quy định này có phần chưa cụ thể, thiếu chặt chẽ và không phù
hợp với thực tế.
Thứ sáu, căn cứ chấm dứt NCN theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 là
“con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc NCN”. Quy
định này không phù hợp với mục đích của NCN, có phần không phù hợp với

thực tiễn. Bởi khi nhận NCN, cả hai bên nhằm xác lập quan hệ cha mẹ, con,
đây là quan hệ tình cảm gắn bó bền vững, lâu dài không thể chấm dứt một
cách dễ dàng, “tự nguyện” được. Do vậy, cần xem xét, bổ sung cho phù hợp
hơn với mục đích của việc NCN cũng như phù hợp với thực tiễn hơn.

16


Thứ bảy, điều kiện của người được nhận làm con nuôi. Điều 4 Luật
NCN năm 2010 quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được sống trong
gia đình gốc. Theo đó, chỉ khi cha mẹ đẻ không còn khả năng nuôi dưỡng,
giáo dục thì mới có thể cho trẻ em làm con nuôi. Tuy nhiên, nguyên tắc này
lại không được cụ thể hoá trong các quy định về điều kiện của người được
nhận nuôi. Sự thiếu sót này có thể tạo ra kẽ hở dẫn tới tình trạng dù cha mẹ đẻ
vẫn có đủ điều kiện nuôi dưỡng nhưng vẫn cho con làm con nuôi.
Từ những lập luận trên, nhóm nhận thấy những quy định của Luật cần
rõ ràng, chặt chẽ, thống nhất và đầy đủ hơn nữa để tránh những trường hợp
việc NCN được tiến hành không vì lợi ích của trẻ em, không đảm bảo cho trẻ
em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc.

B.

KẾT LUẬN

Nuôi con nuôi là một chế định pháp lí trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Qua các thời kì các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi ngày càng
được phát triển hoàn thiện, mang tính hệ thống và điều chỉnh hiệu quả hơn
góp phần quan trọng vào việc bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em được chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình.
Qua việc phân tích tình huống trên cũng như tìm hiểu, đánh giá một

cách khái quát những quy định của pháp luật về chế định nuôi con nuôi để có
thể hiểu rõ hơn về vấn đề này cũng như áp dụng hiệu quả hơn trong thực
tiễn,Đồng thời qua phân tích làm rõ một số vấn đề còn đưa ra những bất cập
về mặt lí luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi. Từ đó đề xuất
một số kiến nghị về các quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần hoàn
thiện hơn nữa chế định này.
17


DANH MỤC VIẾT TẮT
NCN: Nuôi con nuôi
VBPL: Văn bản pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
NLHVDS: Năng lực hành vi dân sự.

18


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 09 tháng 04 năm 2018

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
19


Môn: Luật Hôn nhân và gia đình
Nhóm 2-K4C
Thời gian, địa điểm, thành phần tham gia


1.

Thời gian, địa điểm
Thành phần tham gia
14h00 ngày 03 tháng 04 năm Có mặt: 08 thành viên
2018 tại thư viện trường Đại Vắng mặt: 02 thành viên, là:
học Kiểm sát Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thùy Linh: vắng
mặt vì lý do cá nhân, tuy nhiên
Buổi họp
Linh đã gửi ý kiến của mình
I
qua online.
- Nguyễn Công Quốc Hưng:
vắng mặt vì lý do cá nhân, tuy
nhiên Hưng đã đóng góp ý kiến
online.
14h00 ngày 05 tháng 04 năm Có mặt: 10/10 thành viên
Buổi họp 2018 tại thư viện trường Đại
II
học Kiểm sát Hà Nội.
21h00 ngày 07 tháng 04 năm Có mặt: 10/10 thành viên
Buổi họp 2018 tại ký túc xá trường Đại
III
học Kiểm sát Hà Nội.

Nội dung:

2.


-

Triển khai đề tài nghiên cứu mà nhóm được giao và các thành
viên cùng nhau bàn luận về nội dung để tài, sau đó đưa ra mục

-

đích đạt được và phương pháp để hoàn thành đề tài của mình.
Thảo luận tìm hiểu sơ bộ về đề tài
Phân công, giao nhiệm vụ cho từng thành viên
Thảo luận, giải quyết các vấn đề khúc mắc, thống nhất thành

phẩm
Cụ thể nội dung làm việc nhóm như sau:
2.1.

Buổi họp I:

Nhóm trưởng tóm tắt lại tình huống và yêu cầu của bài.
20


Sau đó, nhóm trưởng yêu cầu từng thành viên một đưa ra quan điểm giải
quyết tình huống của mình, người tiếp theo sẽ bình luận về quan điểm của
người trước đó và tiếp tục sửa đổi, bổ sung thông qua ý kiến của mình. Cụ
thể:
Thanh Vân:


Câu 1: Đưa ra quan điểm rằng yêu cầu chấm dứt mối quan hệ nuôi con

nuôi của cha mẹ đẻ không được chấp nhận vì muốn chấm dứt được việc
nuôi con nuôi phải nêu ra được một trong những căn cứ quy định tại



Điều 25 Luật nuôi con nuôi năm 2010.
Câu 2:
- Cha mẹ đẻ ko có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu X nếu không có
thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ mà cha mẹ nuôi; hoặc nếu có thỏa
thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi thì nghĩa vụ cấp dưỡng
được thực hiện theo thỏa thuận đó. Nêu ra căn cứ pháp lý: Khoản
-

4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010.
Vân còn phân vân về câu trả lời vì liệu rằng việc cha mẹ nuôi
không đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu X thì có vi phạm về điều
kiện nuôi con nuôi quy định tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi hay
không?

Minh Hoàng:


Câu 1: Bổ sung ý kiến là: cha mẹ nuôi vẫn đáp ứng được điều kiện
nuôi con nuôi, chưa vi phạm Khoản 2 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm



2010.
Câu 2:
- Xét trong trường hợp này không nhắc đến thỏa thuận, vì vậy có

thể khẳng định ngay là cha mẹ để không có nghĩa vụ cấp dưỡng
-

cho cháu X.
Yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi có thể
được chấp nhận vì vi phạm khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi
năm 2010.
21


Hồng Ánh:


Câu 1: Khẳng định rằng yêu cầu của cha mẹ đẻ được chấp nhận theo
khoản 3 Điều 26 Luật nuôi con nuôi năm 2010. Qua đó, điều kiện kinh
tế gia đình gặp khó khăn nên có thể không đủ điều kiện nuôi dưỡng
cháu X. Vì vậy, vi phạm điểm c khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi



năm 2010.
Câu 2:
- Đồng tình quan điểm với Thanh Vân
- Yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của được chấp nhận
theo quy định tại khỏan 1 Điều 26 Luật nuôi con nuôi năm 2010.
Hương Giang:
Đồng tính với ý kiến của Thanh Vân và Minh Hoàng; đồng thời đưa ra ý

kiến là phá sản của công ty trách nhiệm hữu hạn (chịu trách nhiệm về tài sản
là hữu hạn, thành viên chỉ trả nợ trong phạm vi vốn đã đóng góp mà không

ảnh hưởng đến tài sản riêng của mình) thì không chắc chắn về điều kiện kinh
tế của gia đình. Vì về điểm c khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010
thì cha mẹ nuôi không hẳn là không thể nuôi dưỡng cháu X. Liệu rằng có nên
xét trường hợp cháu X đã thành niên chưa?
Chí Thành:
Bổ sung quan điểm rằng muốn chia trường hợp cháu X thành niên hoặc
cháu X chưa thành niên.
Huỳnh Hằng:
Đang còn phân vân về việc cha mẹ nuôi và cháu X khồng đồng ý việc
chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Thùy Trang:


Câu 1: Đồng ý với ý kiến là dựa vào Điều 25 Luật nuôi con nuôi để
đưa ra căn cứ giải quyết việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Hơn
22


nữa, không áp dụng Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 vì đây là


điều kiện để được nhận nuôi con nuôi.
Câu 2:

- Chia trường hợp ra là: một là giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận
hoặc không có thỏa thuận thì nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đẻ sẽ như thế
nào? Căn cứ vào khoản 4 Điều 24.
- Cần chứng minh rằng đến năm 2017 thì cháu X chưa thành niên vì dữ kiện
được đưa ra không đề cập đến sự đồng ý của cháu X, vậy theo quy định tại
khoản 1 Điều 21 Luật nuôi con nuôi thì tại thời điểm nhận nuôi con nuôi cháu

X dưới 09 tuổi (vì việc nhận con nuôi từ 09 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của
con được nhận nuôi). Bên cạnh đó, rõ ràng là cha mẹ nuôi có nghĩa vụ phải
nuôi dưỡng cháu X, nếu họ cảm thấy điều kiện gia đình quá khó khăn thì có
thể yêu cầu Tòa án tìm người giám hộ cho Cháu X. Công ty trách nhiệm hữu
hạn bị phá sản nên điều kiện kinh tế gia đình lâm vào khó khăn chứ không hề
đề cập đến việc là mất khả năng lao động và kinh tế của gia đình cha mẹ nuôi.


Như vậy, yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi
không thỏa mãn quy định của pháp luật nên sẽ không được chấp
nhận.

Anh Phương:
Còn phân vân về dữ kiện cha mẹ nuôi và cháu X không đồng ý với yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của cha mẹ đẻ.
• Câu



1: Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của cha mẹ đẻ được chấp

nhận vì cha mẹ nuôi có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Tổng kết ý kiến:
• Câu 1: yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của cha mẹ đẻ
không được chấp nhận. Căn cứ pháp lý: Điều 25 Luật nuôi con
nuôi.
• Câu 2:
23



Ý

1: chia trường hợp có thỏa thuận hoặc không có thỏa

thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi.
 Ý 2: chứng minh rằng cháu X đã thành niên hay chưa thành
niên? Từ đó làm rõ các căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con
nuôi được quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi năm
2010. Đồng thời, khẳng định rằng, cha mẹ nuôi vẫn có
nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu X mặc dù hoàn cảnh kinh tế gia
đình lâm vào khó khăn. Tuy nhiên, nhóm vẫn có nhu cầu
tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo bộ môn về cách giải
quyết tình huống của nhóm.
Sau khi thống nhất ý kiến nội dung trong buổi họp đầu tiên, nhóm trưởng
lập dàn ý bản word cho bài tập nhóm sau đó gửi cho các thành viên trong
nhóm. Dàn ý bao gồm việc sắp xếp bố cục bài tập nhó, triển khai các ý chính
cần thiết để các thành viên thực hiện và đảm bảo đủ ý. Cụ thể dàn ý như sau:
I.
II.

III.

Một số lý luận về nuôi con nuôi
Giải quyết tình huống
1. Phân tích tình huống
2. Giải quyết tình huống
Một số điểm bất cập và kiến nghị khắc phục . Điểm mới và
tác động đối với thực tế

Nhóm trưởng gia hạn ngày 05/04/2018 các thành viên trong nhóm phải

nộp bài.
2.2.

Buổi họp II:

Nhóm trưởng nhắc lại định hướng giải quyết tình huống sau khi đã tham
khảo ý kiến của cô giáo bộ môn; đồng thời, đưa ra những điểm tích cực và
thiếu sót trong phần nhiệm vụ của các thành viên trong nhóm. Từ đó, các
thành viên có thể hoàn thiện được phần bài tập của mình.
2.3.

Buổi họp III:
24


-

Nhóm trưởng đưa kết quả hòn thiện bài tập nhóm cho các thành
viên trong nhóm học tập với mục đích để các thành viên cùng

-

đọc và chỉnh sửa nội dung thiếu sót nếu có.
Phân công người làm biên bản họp nhóm
Củng cố, khích lệ tinh thần làm việc nhóm của các thành viên
cũng như định hướng nội dung bài tập nhóm cho các môn học
tiếp theo.

3.


Kết quả:
Cả nhóm cùng hoàn thành tốt công việc được giao và tạo nên kết quả

cho bài tập tình huống của nhóm.

Thành viên

Công việc

Trần Anh Phương
Một số lý luận về nuôi con nuôi
Hoàng Chí Thành
Trần Hương Giang
Phân tích tình huống
Trần Thị Thùy Trang
Điểm mới và tác động đối với thực tế
Nguyễn Thị Thanh Vân
Giải quyết tình huống
Đỗ Trần Hồng Ánh
Huỳnh Thị Thúy Hằng
Nguyễn Thị Thùy Linh
Một số bất cập và kiến nghị khắc phục
Nguyễn Công Quốc Hưng
Đoàn Minh Hoàng
4. Bảng phân công công việc:
Buổi học nhóm cuối cùng kết thúc lúc 23h00 ngày 07 tháng 04 năm 2018.
Thư ký

Nhóm trưởng


25

Đánh giá


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×