ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ
1. Cơ sở lý luận
1.1.
Tinh hoa văn hóa phương tây
1.1.1. Xuất phát từ cách mạng Pháp (1789)
1.1.2. Xuất pháp từ cách mạng Mỹ (1776)
1.2.
Chủ nghĩa Mác-Lênin
1.2.1. Chủ nghĩa Mác
1.2.2. Hồ Chí Minh
2. Cơ sở thwucj tiễn
2.1.
Thế giới
2.1.1. Chủ nghĩa đế quốc phát triển
2.1.2. Cách mạng tháng Mười Nga
2.2.
Việt Nam
2.2.1. Bối cảnh lịch sử
2.2.2. Thg
3. Nội dung tư tưởng
1
3.1.
Tính chất cách mạng vô sản
3.2.
Nội dung cách mạng vô sản
2
1. Cơ sở lý luận
1.1.Tinh hoa văn hóa phương tây
1.1.1. Cách mạng Pháp (1789)
Giai cấp tư sản Pháp lãnh đạo cách mạng thấy cần thiết nhanh chóng xây
dựng nền tảng của chế độ mới bằng một bản Hiến pháp. Trước khi thảo ra
Hiến pháp, Quốc hội lập hiến đã thông qua một văn kiện có tính chất cương
lĩnh, nêu ra những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp mới đó là bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng (26/8/1789).
Dựa vào tư tưởng triết học ánh sáng, Tuyên ngôn đã nêu lên khẩu hiệu nổi
tiếng "Tự do - Bình đẳng - Bác ái". Tự do và bình đẳng là cơ sở của tình bác
ái. Bản tuyên ngôn đã xác lập quyền tự do cá nhân của công dân. Điều 1 của
Tuyên ngôn ghi là: "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Những quyền tự do, như tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,
quyền hưởng an ninh và quyền chống áp bức, được xem là quyền tự nhiên
và tuyệt đối của con người và của mọi công dân. Dưới chế độ phong kiến tất
cả quyền tự do của con người đều bị giai cấp phong kiến tước đoạt, nay cách
mạng đã khôi phục lại những quyền tự do đó của con người. Bản Tuyên
ngôn xác định quyền tối cao là quyền của dân tộc, nghĩa là của toàn thể nhân
dân. Điều 3 ghi rõ: "Nguồn gốc của mọi quyền lực tối cao bao giờ cũng
thuộc về dân tộc. Không một cơ quan nào, không một cá nhân nào có thể
thực hiện quyền lực này, nếu nó không xuất phát trực tiếp từ dân tộc".Tuy
nhiên, bản Tuyên ngôn cũng bộc lộ tính không triệt để khi qui định: "Quyền
sở hữu là một quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng; không ai có thể bị
tước bỏ quyền đó" (Điều 17). Như thế là Tuyên ngôn đã phủ nhận quyền
3
bình đẳng xã hội thực sự giữa người và người, hợp pháp hoá sự bất bình
đẳng về tài sản và sự bóc lột của người có của đối với người không có của.
Điều này bảo vệ quyền sở hữu của tư bản chủ nghĩa. Trong khi củng cố
quyền tư hữu, thì nó đã thiết lập lên sự bất bình đẳng mới về tài sản. Tuy nó
tạo ra sự tự do về một số mặt, nhưng nó lại tạo ra sự phụ thuộc mới của một
số người này đối với một số người khác (của quần chúng lao động đối với
các nhà tư bản). Thực tế khi Người sang Pháp, Người thấy ở đó vẫn tồn tại
chế độ người bóc lột người, đại bộ phận người dân lao động không có cuộc
sống tự do, bình đẳng, ấm no hạnh phúc.
1.1.2. Cách mạng Mỹ (1776)
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi
Anh của 13 thuộc địa Bắc Mỹ. Ngày 4/7/1776, Tuyên ngôn độc lập của Hoa
Kỳ được công bố. Ý chính của bản văn là Tự Do, không phải là tự do chung
chung, tự do tập thể mà là quyền Tự Do cá nhân. Tư tưởng này đã được nêu
lên một cách trang trọng ngay trong phần dẫn nhập. Bản văn viết: “Những
chân lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như lẽ đương nhiên: Tất cả
mọi con người đã được dựng nên bình đẳng; (họ) đã được tạo hóa ban cho
những quyền bất khả xâm phạm; trong những quyền đó có quyền sinh sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ý tưởng thứ hai mang tính quan
trọng nòng cốt trong bản văn là tư tưởng chống độc tài, tàn ác. Và để bảo vệ
các quyền tối thượng của con người, thể theo nguyện vọng của toàn dân, các
thuộc địa Anh tại Châu Mỹ long trọng tuyên bố trở thành những tiểu bang
Tự Do và Độc Lập. Đây là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của quốc gia thuộc địa
đầu tiên trên thế giới thoát ách cai trị thực dân. Tuy nhiên bản tuyên ngôn đã
thể hiện sự bất bình đẳng khi chỉ khẳng định quyền lực của giai cấp tư sản
và người da trắng. Thời điểm năm 1776, thì từ “all men” trong tuyên ngôn
4
chỉ thừa nhận quyền bình đẳng của những người đàn ông da trắng và có tài
sản. Nước Mỹ phải tiếp tục một quá trình dài, 95 năm sau (1870), những
người đàn ông da đen mới có quyền bầu cử và 145 năm sau nữa (1920), phụ
nữ Mỹ mới có quyền đi bầu cử. Và cách mạng Mỹ cũng không xóa bỏ chế
độ nô lệ, duy trì việc bóc lột công nhân làm thuê khiến đời sống người dân
cơ cực.
1.2.Chủ nghĩa Mác-Lênin
1.2.1. Mác
Chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế-xã hội là quá tình phát triển lịch sử tự nhiên, điều đó là
do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất quy định . C.Mác đã phân tích trường hợp cụ thê: "Sự tập
trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng
không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của
một quá trình tự nhiên". Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu
đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn
gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là
mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Sự
phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản
và sự xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác dự báo sự
ra đời của hình thái kinh tế -xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước có
trình độ phát triển trung bình và những dân tộ thuộc địa.
5
1.2.2. Hồ Chí Minh
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con
đườn cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, rút kinh nghiệm của các
cuộc cách mạng trước đó. Xuất phát từ thực tiễn thế giới, nghiên cứu các
cuộc cách mạng tư sản: cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ tuy đã giành thắng
lợi hơn 150 năm nay mà nhân dân lao độngvẫn khổ và họ đang muốn làm
cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác
tinh vi hơn chứ không triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư
sản không phải là lối thoát cho dân tộc. Người thấy được cuộc cách mạng
này không triệt để nên không lựa chọn. Nghiên cứu cách mạng tháng Mười
Nga, Người thấy đây là cuộc cách mạng triệt để (cách mạng vô sản). Người
đã nhận định cuộc cách mạng của chúng ta phải đi theo cách mạng thàng
Mười Nga. Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ
rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa 2 vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi
bám vào thuộc địa. Muốn cắt đi được 2 cái vòi của nó ta phải kết hợp cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa,
phải xem cách mạng đánh bại chủ nghãi đế quốc. Mặt khác, cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thăng lợi phải đi theo con đường cách amngj vô sản.
Đây là nhận định đúng đắn mang tính sang tạo của Hồ Chí Minh trong việc
xác định con đường cách mạng ở Việt Nam, là yếu tố quan trọng trong việc
góp phần quyết định thắng lợi của cách mạnh Việt Nam sau này.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1.Thế giới
6
2.1.1. Chủ nghĩa đế quốc phát triển
Các nước tư bản Pháp, Mỹ thời kỳ này tìm cách thống trị các quốc gia khác
nhằm mở rộng nền kinh tế, chiếm đoạt tài nguyên, bóc lột lao động, hoặc tìm
cách xuất khẩu các hàng hóa và tư bản dư thừa chuyển thành chủ nghĩa đế
quốc-giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản. Ông cũng giải thích
rằng các quốc gia Châu Âu thời kỳ thế kỷ 19 tìm cách xâm chiếm, mở rộng
thuộc địa là một điều tất yếu không thể tránh khỏi xuất phát từ nhu cầu của
các quốc gia này trong việc xuất khẩu thặng dư tư bản và hàng hóa dư thừa,
nhằm tránh các cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước
2.1.2. Cách mạng tháng Mười Nga
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là một sự kiện
lịch sử vĩ đại, có ảnh hưởng sâu rộng và làm rung chuyển, đảo lộn trật tự thế
giới. Khác với mọi cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra trong lịch sử, Cách
mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng xã hội đầu tiên thực hiện được
mục tiêu: giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nâng
họ lên địa vị làm chủ chế độ xã hội mới, thực hiện được khát vọng giải
phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và tiến tới giải phóng nhân loại. Cuộc cách mạng 10 ngày, đã làm rung
chuyển cả thế giới, phá tan mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ
nghĩa đế quốc, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng: Lần đầu
tiên liên minh công- nông- binh dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đã
đồng loạt đứng lên lật đổ chế độ Nga hoàng, lập ra nhà nước Nga Xô viếtNhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga là động lực mạng mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu
tranh chống lại áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến, tư sản mà còn thúc
7
đẩy phong trào giải phóng dân tộc, cũng như phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế phát triển. Nhờ đó, giai cấp vô sản vững tin bước lên vũ đài
chính trị với tư cách là giai cấp trung tâm. Cách mạng Tháng Mười Nga
không chỉ đánh dấu sự đời của nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới mà còn
đặt nền móng cho một chế độ phù hợp với lợi ích căn bản của con người.
Thắng lợi đó đã khai phá ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), con
đường giải phóng đông đảo quần chúng bị áp bức bóc lột. Cách mạng Tháng
Mười Nga cũng đã chứng minh được sức mạnh to lớn của con người, của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng
mình, mở ra một xã hội mới. Và thực tế Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
cũng đã chứng minh vai trò to lớn, quyết định của Đảng Cộng sản Nga dưới
sự lãnh đạo thiên tài của Lê Nin- Người đã vận dụng linh hoạt và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mac vào điều kiện cụ thể của nước Nga, biến CNXH từ
lý tưởng, niểm tin, học thuyết lý luận thành hiện thực. Thắng lợi của Cách
mạng tháng Mười Nga đã chứng minh một cách sinh động nhất tính chất
triệt để, sâu sắc và toàn diện của cách mạng XHCN so với bất kỳ cuộc cách
mạng xã hội nào trước đó trong lịch sử nhân loại. Cách mạng Tháng Mười
Nga đã trở thành một sự kiện bước ngoặt của sự phát triển xã hội loài người,
mở ra một con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động
khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng một thế giới mới công bằng, văn minh và
tiến bộ. Đó là việc biến ý tưởng tốt đẹp của CNXH không tưởng thành hiện
thực. Từ cuộc Cách mạng Tháng Mười, lịch sử cách mạng Nga đã ghi thêm
được những trang mới: xóa bỏ hoàn toàn ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư
bản. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, chính quyền Xô viết- chính quyền
của công nông và người lao động ngay từ ngày đầu tiên thành lập đã công bố
sắc lệnh nổi tiếng đó là: Sắc lệnh về hòa bình và sắc lệnh về ruộng đất. Dưới
tác động ảnh hưởng to lớn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và chế độ
8
XHCN ở Liên Xô, sau chiến tranh thế giới thứ II, CNXH đã trở thành hệ
thống trên thế giới. Thành công của cuộc cách mạng cũng đã ảnh hưởng to
lớn đối với sự phát triển của cách mạng thế giới, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.
2.1.3. Bối cảnh lịch sử
Cuối thế kỷ XIX, sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội Việt Nam; làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến
cuộc sống mọi người dân (trong đó có họ hàng, gia đình và bản thân Hồ Chí
Minh) là thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau thời kỳ "bình định", thực
dân Pháp thi hành chính sách "khai thác thuộc địa" - thực chất là tăng cường
bóc lột, vơ vét thuộc địa. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn,
càng thêm khốn đốn. Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập
trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các
tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt,
trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa
nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển
của xã hội Việt Nam. Vì vậy, chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn
trên đây - đồng nghĩa với việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập
dân tộc thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát triển. Đó là đòi hỏi khách
quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Để giải quyết
mâu thuẫn trên, nhiều phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi với mục tiêu
"Phen này quyết chống cả Triều lẫn Tây". Đó là phong trào Đông Du, Đông
Kinh nghĩa thục... do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân
chủ tư sản như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo hay khởi nghĩa
Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái
9
Học, Phạm Tuấn Tài...rồi khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của
Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm... Đó là trang sử đấu tranh vẻ vang
của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra sôi nổi,
rộng khắp các vùng miền, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh cuối cùng đều
thất bại. Bối cảnh lịch sử này, sau này, Hồ Chí Minh viết trong bài Con
đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay: "Trong suốt
gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau
đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong
máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam". Thực tế thất bại
của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ
tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống
Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về
đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công
nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành
công. Câu hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh
đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam đến lúc này vẫn
chưa có lời giải. Bối cảnh trên đây, sau này được Hồ Chí Minh nói rõ khi trả
lời nhà văn Mỹ Anna Luy Xtơrông: "Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ
thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát
khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là
Anh, có người lại cho là Mỹ"
Xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu nước, trọng
nghĩa, Hồ Chí Minh sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân. Tuổi
học đường của Người gắn bó với những năm tháng quan trường ngắn ngủi
10
đầy trắc trở của người cha Nguyễn Sinh Huy. Người đã theo cha đến cả ba
miền đất nước, biết được cuộc sống khó khăn của người dân mất nước dù họ
ở xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ "bảo hộ" hay Nam Kỳ "thuộc địa". Người có thời
gian sống ở Huế. Đó là điều kiện để Người tìm hiểu, làm quen với cuộc sống
quan chức, Hoàng triều. Tuy nhiên, thực tế ấy đã làm cho Người thấy rõ hơn
cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của giới quan chức, tay sai. Từ những trải
nghiệm đầu đời của mình và cuộc sống lận đận, trắc trở của người cha, Hồ
Chí Minh càng thấu hiểu ý nghĩa thực tế của câu chuyện cha mình thường
bình giải "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ". Cho nên, đầu
năm 1910, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức thì ông vào Nam Kỳ
hành nghề bốc thuốc trị bệnh cứu người, còn Hồ Chí Minh thì thấy rõ hơn sự
thối nát của chế độ quan trường. Điều này càng thôi thúc Người quyết tâm ra
đi tìm đường cứu nước. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã viết: "Người thiếu niên ấy đã sớm
hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ,
Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh tham gia công
tác bí mật, nhận công việc liên lạc"[3].
Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công luôn
là công việc hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bọn thực dân rất bưng bít tư tưởng
mới, ngăn trở sách báo tiến bộ với âm mưu giam hãm dân ta trong vòng nô
lệ. Người đã nói với nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam: "Khi tôi độ mười
ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái.
Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã
nói thế...Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta
như con vẹt.Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không
11
phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútô và Môngtexkiơ cũng bị cấm.
Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài[4]...
Trong quá trình xác định con đường cứu một dân tộc, lòng căm thù giặc và
quyết tâm chưa đủ, mà còn phải lý giải được nguyên nhân thất bại của các
bậc tiền bối, hiểu được điều kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch
sử, trên cơ sở đó mà vạch ra hướng đi của con đường cũng như những yếu tố
đảm bảo thắng lợi.
Trước thất bại liên tiếp về con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người
nhận xét:
"Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương...Điều đó là
sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.
Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy
hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì còn trực tiếp đấu tranh chống Pháp.
Nhưng theo người ta kể thì Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến"[5].
12
Từ những trải nghiệm cuộc sống và với quyết tâm lớn, Hồ Chí Minh đã sớm
phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực dân
ở Việt Nam với cái lý tưởng cao đẹp của nước Pháp - quốc gia đã đề xướng
ra lý tưởng cao đẹp và hấp dẫn mọi con người " Tự do - Bình đẳng - Bác ái",
muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở "nước Mẹ" xa xôi ! Người cho rằng "Muốn
đánh hổ thì phải vào hang hổ!". Và chính những nhận thức về bối cảnh đất
nước và những tìm hiểu của Hồ Chí Minh về nước Pháp đã thôi thúc Người
sang Pháp và các nước khác... Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự
phát mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi
khách quan của cách mạng Việt Nam.
Quyết định sang phương Tây của Hồ Chí Minh là sự phủ nhận sự tồn tại nhà
nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam. Đó là đòn tiến công đầu tiên của
Hồ Chí Minh đối với nhà nước đương thời, mở cửa ra thế giới để đón nhận
những nhân tố mới của thời đại, tiếp thu lý luận tiên tiến, tích hợp tinh hoa
văn hoá nhân loại để hình thành con đường cứu nước Việt Nam thông qua
Hành trình cứu nước của một con người - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
3. Nội dung tư tưởng
3.1.Tính chất cách mạng vô sản
Hồ Chí Minh khẳng định, chiến lược cách mạng ở thuộc địa chưa phải là đấu
tranh giai cấp, mà trước hết là giải phóng dân tộc; xác định tính chất và nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực lượng của
13
cuộc cách mạng đó bao gồm toàn dân tộc, trong đó công nhân và nông dân là
“chủ cách mệnh”, “gốc cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là
“bầu bạn cách mệnh của công nông”. Giải phóng dân tộc là một sự nghiệp to
lớn, của cả dân tộc bị áp bức vùng dậy giành quyền sống, chứ không phải là sự
nghiệp của một số ít người. Vì thế phải thành lập một “Đảng cách mệnh” để tổ
chức và giác ngộ quần chúng, dùng bạo lực cách mạng của quần chúng lật đổ
ách thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng
của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả
năng cách mạng to lớn và cần phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến
nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một
Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những
cái cánh của cách mạng vô sản”(1). Người cũng khẳng định cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các
nước tư bản chủ nghĩa.
3.2.Nội dung cách mạng vô sản
Nội dung cách mạng vô sản được thể hiện cụ thể: thứ nhất, đi sâu vạch rõ bản
chất phản động của chủ nghĩa thực dân nhưng ngụy trang cái gọi là “khai háo
văn minh”. Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của
giai cấp công nhân và của nhân dân lao động toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp
nguy hại nhất của các nước thuộc địa. Người đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc, kêu gọi nhân dân các nước
thuộc địa phải dựa vào thực lực của bản thân mình, phải tự minh fđứng lên giải
phóng cho mình. “ Công cuộc giải phóng của các anh em nước thuộc địa chỉ có
thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân an hem”. Thứ hai, cách mạng
giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại-cách mạng vô sản.
Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng với giải phóng nhân dân lao
14
động, giải phóng giai cấp công nhân. “ Chỉ có giải phóng được giai cấp vô sản
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới. Vì thế phải tiến hành cách mạng
một cách triệt để”. Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ khăng khít với nhau như hai cái
cánh của thời đại, luôn phải thực hiện khẩu hiệu của Lê-nin: vô sản toàn thế
giới hiệp lại. Điều quan trọng của Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ cách mạng thuộc
địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có tính chủ động,
độc lập. Thứ tư, về đường lối cách mạng: tư tưởng về đường lối chiến lược của
cách mạng ở thuộc địa là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc rồi tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song nhiệm vụ trước mắt và quan trọng hàng đầu
là hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng dân tộc đánh đổ đế quốc và
bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc. Thứ năm, giai cấp lãnh đạo và
lực lượng cách mạng: giải phóng dân tộc là việc chung của toàn thể dân chúng.
Tuy nhiên trong đó công-nông-binh là người chủ cách mệnh, là gốc cách mệnh.
Thứ sáu, về đoàn kết quốc tế: đi đôi với đại đoàn kết dân tộc, cách mạng Việt
Nam phải thực hiện đoàn kết quốc tế “cách mạng An Nam là một bộ phận trong
cách mạng thé giới”. Thứ bảy, về phương pháp cách mạng: quần chúng phải
được giác ngộ và được tổ chức mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Phải tiến
hành triệt để phương pháp bạo lực cách mạng mà trước hết là bạo lực chính trị
của quần chúng “dân khí mạnh thì quân lính nào, vũ khí nào cúng chống lại”.
Kiên quyết phê phán cách làm: xúi giục bạo động mà không bày cách tổ chức
hoặc làm cho dân chúng quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường hay các phương
pháp ám sát cải lương. Cuối cùng về công tác xây dựng Đảng được đặt lên hàng
đầu. Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng.
15