Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.49 KB, 62 trang )

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI :
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: T.S NGUYỄN HÒA NHÂN
SVTH : NGUYỄN THỊ LOAN
LỚP : 36K07.2
Page 1


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................4
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.........................................................5
PHẦN 2............................................................................................................................ 28
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.........................28
PHẦN 3............................................................................................................................ 54
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HOÀN


THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NHTM VIỆT
NAM HIỆN NAY.............................................................................................................54
KẾT LUẬN......................................................................................................................60
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................61

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tăng trưởng huy động vốn của 10 ngân hàng tốp đầu trong năm 2012..........31
Biểu đồ 2: Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2006 – 2012..................................................31
Biểu đồ 3: Tỷ lệ an toàn vốn toàn ngành giai đoạn 2008 – 2011 theo báo cáo................33
Biểu đồ 4: Tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012........................................34
Biểu đồ 5: Tỷ trọng nợ xấu / tổng dư nợ một số NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2012
……………………………………………………………………………………………35
Biểu đồ 6: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng một số NHTM Việt Nam............................36

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Nợ xấu một số NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 – 2012....................................35
Bảng 2: Tỷ lệ trích lập dự phòng theo quy định 493/2005/QĐ – NHTN.........................46
Bảng 3: Tình hình trích lập dự phòng của Eximbank.......................................................47
Bảng 4: Tình hình trích lập dự phòng của ACB...............................................................47

Page 2


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

NHNN


Ngân hàng Nhà Nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTD

Tổ chức Tín dụng

Vietcombank

Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

Vietinbank

Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

ACB

Ngân hàng Á Châu

Eximbank

Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam

Page 3


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

LỜI MỞ ĐẦU
Bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế
giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tài chính của nước ta, thị trường ngân hàng
cũng có nhiều khởi sắc, đánh dấu bước phát triển mới cả về chất lượng của hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc thù của một lĩnh vực đầy nhạy cảm, chịu sự ảnh
hưởng của nhiều yếu tố cả trực tiếp và gián tiếp, rủi ro ngân hàng lớn là yếu tố không thể
tránh khỏi và có khả năng trở thành nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển bền vững của các ngân hàng nói riêng, thị trường tài chính và nền kinh tế nói chung.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động
cơ bản và quan trọng vào bậc nhất, mang lại hơn 70% thu nhập cho ngân hàng. Thông qua
hoạt động cấp tín dụng của mình, các ngân hàng đã góp phần cung ứng vốn cho các doanh
nghiệp, giúp hệ thống tuần hoàn của nền kinh tế hoạt động một cách nhuần nhuyễn và
hiệu quả…Mặc dù vậy, bên cạnh mang lại nguồn thu nhập chính yếu cho ngân hàng thì
tín dụng cũng là một trong những hoạt động chứa đầy rủi ro. Rủi ro tín dụng không chỉ
khiến các ngân hàng gia tăng chi phí, chậm thu lãi mà còn có nguy cơ thất thoát vốn vay,
gây ảnh hưởng đến tình hình tài chính, uy tín và vị thế trên thị trường. Vì vậy, quản trị rủi
ro tín dụng là một trong những hoạt động cần thiết có tính sống còn đối với ngân hàng
bên cạnh những hoạt động quản trị khác để phòng ngừa và giảm thiểu tối đa thiệt hại có
thể khi rủi ro xảy ra.
Thực tiễn những biến động của nền kinh tế thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến
nền kinh tế nước nhà cũng như hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là
hoạt động tín dụng với sự nổi cộm về vấn đề nợ xấu, một vấn đề thu hút không ít sự quan
tâm của dư luận. Điều này phần nào cho thấy được hoạt động quản trị rủi ro tín dụng quan
trọng như thế nào và cần phải được quan tâm trước những thay đổi thường xuyên của môi
trường vĩ mô cũng như sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ ngành.
Với bối cảnh trên, em nhận thấy được sự cần thiết của việc tìm hiểu hoạt động quản
trị rủi ro tín dụng hiện nay của các ngân hàng sẽ là cơ sở cho việc bổ sung, củng cố kiến

thức học đường cũng như có một cách tiếp cận thực tiễn thực tế hơn. Do đó, em xin chọn
đề tài “Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại
Việt Nam hiện nay”.

Page 4


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN
PHẦN 1

TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. Tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
1.1.1.1. Định nghĩa tín dụng
Tín dụng xuất phát từ chữ la tinh là Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm.
Tiếng Anh và tiếng Pháp đều lấy từ gốc này, viết là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt
Nam, Tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau. Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo bối cảnh cụ thể. Trong quan hệ tài chính:
tín dụng có thể hiểu là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có sự hoàn trả giữa hai chủ thể
hay là phương pháp chuyển dịch từ quỹ cho vay sang người đi vay hay là một số tiền cho
vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng (còn gọi là cho vay).
Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ rất lâu. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, qua từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển mà dần hình thành
nên các hình thức tín dụng mới có trình độ cao hơn, đã có các hình thức tín dụng sau:
tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước và tín
dụng tiêu dùng. Mỗi một hình thức tín dụng đều có điều kiện kinh tế xã hội cụ thể.
Tuy nhiên trong sự phát triển của mình, các hình thức quan hệ tín dụng trước không hề

mất đi mà vẫn còn tồn tại và phát huy tác dụng khi có sự ra đời một hình thức tín dụng
mới. Ngày nay, tất cả các hình thức tín dụng trên đều còn tồn tại và bổ sung lẫn nhau,
và nó có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế.
1.1.1.2. Tín dụng ngân hàng
Trong những hình thức tín dụng nói trên, tín dụng ngân hàng là loại hình tín dụng
phổ biến nhất, có qui mô và phạm vi hoạt động rộng rãi nhất và có một vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Tín dụng ngân hàng là quan hệ
tín dụng giữa ngân hàng và mọi chủ thể trong nền kinh tế xã hội. Trong mối quan hệ
này, ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người cho vay vừa là người đi vay.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá
nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch
chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ dịch
chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân
hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn
Page 5


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền
sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: cho vay bằng tiền tệ
là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong nền kinh tế
quốc dân.
Tín dụng ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của các thành phần trong xã
hội chứ không phải hoàn toàn là vốn thuộc sở hữu của chính mình như tín dụng nặng
lãi hay tín dụng thương mại.

Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự
vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Có những trường hợp mà nhu
cầu tín dụng ngân hàng gia tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng,
nhất là trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, sản xuất và lưu thông hàng hoá bị co hẹp
nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng để chống tình trạng phá sản. Ngược lại trong thời
kỳ kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sản xuất, hàng hoá lưu chuyển tăng
mạnh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng kịp. Đây là một hiện tượng rất bình
thường của nền kinh tế.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên
quan mật thiết đến tính an toàn, sinh lợi của tín dụng và khả năng hoàn trả của khách
hàng.
-

Tín dụng ngắn hạn:

Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử
dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động
của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân.
-

Tín dụng trung hạn:

Tín dụng trung hạn là loại có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn
phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng
các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
-

Tín dụng dài hạn:


Page 6


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp
vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
1.1.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
-

Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa:

Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá là loại tín dụng được cung cấp cho các
doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
-

Tín dụng tiêu dùng:

Tín dụng tiêu dùng là loại tín dụng được cung cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ, các
thiết bị gia đình... Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.
1.1.3.3. Căn cứ vào tính chất bảo đảm của các khoản vay
-

Tín dụng có đảm bảo:

Tín dụng có bảo đảm là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra đều có

tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp, chiết khấu và bảo
lãnh.
-

Tín dụng không có đảm bảo:

Tín dụng không có bảo đảm là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra
không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường được áp dụng
với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng với ngân hàng, khách
hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với ngân hàng như trả nợ
đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn
trả nợ
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín
dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ
nhưng vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Hơn nữa Phân loại tín
dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại hình cho
vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Là một mối quan hệ kinh tế, tín dụng ngân hàng có những tác động nhất định
đến hoạt động kinh tế. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, nó có vai trò khá quan
trọng:
Page 7


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
-

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục, đầu tư góp phần

phát triển kinh tế:

Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối
vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá
trình sản xuất được liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là
động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư
phát triển. Thông qua hoạt động tín dụng giúp các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động
và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội.
-

Thúc đẩy nền kinh tế phát triển:

Hoạt động của các ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà vốn này
nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và cá
nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, những người có nhu cầu về vốn và từ đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
-

Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi
nhọn:

Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế
rồi đầu tư trở lại cho các ngành kinh tế cần vốn. Nhưng việc cho vay này không phải trải
đều cho các chủ thể có nhu cầu mà viêc đầu tư được thực hiện qua một quá trình thẩm định
kỹ lưỡng. Quá trình này rất quan trọng với các ngân hàng, nó mang tính sống còn của
ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng đã đưa ra những biện pháp chính sách khuyến khích các
ngân hàng thương mại cho vay hỗ trợ các dự án phát triển nhà nước thông qua hoạt động
tín dụng để từ đó đạt mục tiêu phát triển kinh tế.
Sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã tạo cho nước ta thế và lực mới, thoát ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước. Nhà nước đã tạo ra môi trường thuận lợi để phát huy vai trò và thế mạnh của từng
thành phần kinh tế, song song với các chính sách hỗ trợ các ngành kinh tế kém phát triển,
tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn.
-

Góp phần tác động đến phần tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các
doanh nghiệp:

Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Nhờ
vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có hiệu quả. Khi sử
dụng vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, tức phải hoàn
trả nợ gốc và lãi đúng hạn, tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng,
bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu
Page 8


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện nâng cao
doanh lợi cho doanh nghiệp.
-

Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài:

Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với kinh tế
thế giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế
các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai

trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên
ngoài để công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
1.2. Rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Khái niệm rủi ro
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những tác động tiềm năng có tính tiêu cực đến
tài sản hoặc giá trị của ngân hàng phát sinh từ một vài tiến trình hiện tại hoặc sự kiện
tương lai.
Rủi ro có 2 thuộc tính cơ bản : thứ nhất là các sự kiện bất ngờ, không mong đợi; thứ
hai là khi xảy ra rủi ro, rủi ro gây tổn thất.
1.2.1.2. Khái niệm rủi ro tín dụng
Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước:
“ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt
động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại
thương, cho thuê tài chính.
1.2.2. Dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong các khoản cho vay có vấn đề, được biểu hiện bằng
nhiều dấu hiệu. Tuy nhiên qua thực tiễn hoạt động tín dụng người ta cũng rút ra một số
dấu hiệu cơ bản chỉ khó khăn tài chính của người đi vay và chính đó là những cảnh báo
đối với cán bộ tín dụng, với ngân hàng. Ví dụ như :
Page 9


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

- Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình hình sản
xuất kinh doanh năng lực tài chính của người đi vay, báo hiệu khả năng hoàn trả các
khoản nợ. Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau nhưng có thể thấy được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có
những dấu hiệu không bình thường. Vì vậy, doanh nghiệp không muốn ngân hàng biết
sớm về sự sút năng lực tài chính của mình.
- Gia tăng bất bình thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu và các khoản nợ:
Định mức tồn kế hoạch nguyên liệu, hàng hoá hợp lí là điều kiện cần thiết để các
doanh nghiệp đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh, song nếu mức tồn kho vượt quá
mức giới hạn cho phép chứng to khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là không
bình thường. Sự gia tăng hàng tồn kho như giá cả, chất lượng, chủng loại hàng hoá ...
dẫn đến doanh thu, thu nhập kém. Đồng thời với sự gia tăng tồn kho, giảm sút doanh thu
thì các khoản vay cũng gia tăng chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm
sút làm cho khả năng trả nợ ngân hàng là khó khăn.
- Giảm bất thường giá bán:
Điều này nếu không nằm trong chiến lược marketing của doanh nghiệp thì tức là
doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
- Hoàn trả nợ vay và lãi không đúng hạn:
Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì luân
chuyển vốn cũng mất ổn định dẫn đến khả năng thanh toán gặp nhiều khó khăn
không thể hoàn trả nợ vay và lãi chi cho ngân hàng đúng kỳ hạn.
Nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và mức độ ngày càng lớn thì đây chính
là dấu hiệu rõ ràng nhất của rủi ro tín dụng.
Ngoài các dầu hiệu trên thì còn rất nhiều yếu tố khác như doanh nghiệp thay đổi tổ
chức, công nhân không có việc làm hay quan hệ giữa ngân hàng và người vay trở nên
kém thân thiện... cũng là những dấu hiệu của rủi ro tín dụng, đòi hỏi các cán bộ tín
dụng phải sát với thực tiễn và có những biện pháp thích hợp làm giảm nguy cơ rủi ro

có thể xảy ra.
1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các
loại sau :
Page 10


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

Rủi
Rủiroro
tín
tíndụng
dụng

Rủi
Rủiroro
giao
giaodịch
dịch

Rủi
Rủiroro
lựa
lựachọn
chọn

Rủi

Rủiroro
bảo
bảođảm
đảm

Rủi
Rủiroro
danh
danhmục
mục

Rủi
Rủiroro
nghiệp
nghiệpvụ
vụ

Rủi
Rủiroro
nội
nộitại
tại

Rủi
Rủiroro
tập
tậptrung
trung

1.2.3.1. Rủi ro giao dịch

Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi
ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
-

Rủi ro lựa chọn:

Rủi ro giao dịch là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng,
khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
-

Rủi ro bảo đảm:

Rủi ro bảo đảm là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và
mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
-

Rủi ro nghiệp vụ

Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động
cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản
cho vay có vấn đề.
1.2.3.2. Rủi ro danh mục
Rủi ro danh mục là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là
do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 2
loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
-

Rủi ro nội tại:

Page 11


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt
bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm
hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
-

Rủi ro tập trung:

Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành,
lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho
vay có rủi ro cao.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Phân loại nợ và trích lập dự phòng
Theo thông tư 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì tổ chức tín
dụng thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể theo quy định tại Điều 6 hoặc
Điều 7.
Điều 6:
Phân loại nợ:
-

Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:


+ Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
+ Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều
này.
-

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;
+ Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
-

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại;
Page 12


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

+ Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
-


Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại;
+ Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
-

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã
được cơ cấu lại;
+ Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể:
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ quy định tại Khoản 1 Điều 6
như sau:
-

Nhóm 1: 0%

-

Nhóm 2: 5%

-


Nhóm 3: 20%

-

Nhóm 4: 50%

-

Nhóm 5: 100%. Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì
được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.

Điều 7:
Phân loại nợ:
-

Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.

Page 13


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

-

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách
hàng suy giảm khả năng trả nợ.


-

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ
này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và
lãi.

-

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là khả năng tổn thất cao.

-

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể:
-

Nhóm 1: 0%

-

Nhóm 2: 5%

-

Nhóm 3: 20%


-

Nhóm 4: 50%

-

Nhóm 5: 100%
1.2.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá

Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là :
-

Tỷ lệ nợ xấu / tổng dư nợ:

Tỷ lệ nợ xấu = Tổng Nợ xấu/Tổng dư nợ
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước,
các khoản dư nợ tín dụng khách hàng của ngân hàng được phân loại từ Nhóm 1 đến
Nhóm 5, tương ứng với các loại Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1), Nợ cần chú ý (2), Nợ dưới
tiêu chuẩn (3), Nợ nghi ngờ (4) và Nợ có khả năng mất vốn (5). Các khoản nợ phân loại
từ Nhóm 3-5 được xem là nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân hàng, bao
nhiêu đồng đang bị phân loại vào nợ xấu trên 100 đồng cho vay.
Tỷ lệ này cao so với trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là dấu hiệu
cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay.

Page 14


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

Ngược lại, tỷ lệ này thấp so với các năm trước cho thấy chất lượng các khoản tín
dụng được cải thiện. Hoặc cũng có thể ngân hàng có chính sách xóa các khoản nợ xấu hay
thay đổi các phân loại nợ.
-

Tỷ lệ xóa nợ ròng / tổng dư nợ:

Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu nợ từ các khoản nợ đã chuyển ra ngoại bảng
và đang được các ngân hàng sử dụng biện pháp mạnh để đòi.
-

Tỷ lệ trích lập dự phòng xử lý rủi ro / tổng dư nợ:

Đây là tỷ lệ giữa số dư có của tài khoản dự phòng rủi ro tín dụng chia cho tổng dư
nợ cuối kỳ.
-

Tỷ lệ nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 / tổng dư nợ:

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho thấy với 100 đơn
vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng không thu
hồi được đúng hạn tại thời điểm xác ñịnh.
1.2.5. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Hai đối tượng tham gia trong quan hệ tín dụng là ngân hàng cho vay và người đi
vay. Người đi vay dùng tiền vay với điều kiện không gian và thời gian cụ thể đồng thời
chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố nhất định, đó là môi trường kinh doanh. Với rủi ro được
gây ra từ ngân hàng được gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Rủi ro xuất phát từ môi

trường kinh doanh và khách hàng vay gọi là rủi ro do khách quan.
1.2.5.1. Nguyên nhân chủ quan
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm
mạnh hơn thanh tra Ngân hàng nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời
ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra
được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian
trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức.
Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trình độ cán
bộ còn thấp, chưa cao được thể hiện ở hiệu quả việc làm. Nếu như với kiến thức ít, kinh
nghiệm làm việc còn thiếu thì việc phân tích khách hàng, thẩm định dự án đầu tư của
khách hàng, xác định lãi suất cho vay, nhu cầu cho vay...sẽ không chính xác. Rủi ro tín
dụng là chắc chắn xảy ra. Bên cạnh đó, đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối
quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có
thể trau dồi kiến thức, bồi dưỡng thêm, đào tạo lại, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức
mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín
Page 15


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

dụng. Nhiều cán bộ tín dụng làm trái quy trình tín dụng để mưu lợi cá nhân, định giá tài
sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do thông đồng với khách hàng, lập hồ sơ vay
vốn giả, tẩy xóa sửa chữa chứng từ...
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng thường có thói quen tập
trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra,
kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải
được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong
những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói

chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra
trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh
doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các Ngân hàng
thương mại chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây
phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý
phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy
đủ các thông tin mà Ngân hàng thương mại yêu cầu.
Sự hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại quá lỏng lẻo. Kinh doanh ngân hàng là
một nghề đặc biệt, huy động vốn để cho vay hay nói cách khác là đi vay để cho vay, do
vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần
phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản
lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong
quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn
tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho
một khách hàng vay đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả
chứ không chừa một ngân hàng nào.
Ngân hàng dồn dập tín dụng quá mức. Khi đó sự lựa chọn khách hàng một cách ồ
ạt mà không chú trọng đến công tác phân tích, thẩm định trước khi cho vay tạo ra sự lựa
chọn không chính xác. Với lượng khách hàng lớn, ngân hàng không thể đảm bảo được sự
giám sát của cán bộ tín dụng đối với khách hàng là chặt chẽ được. Đây là cơ hội tốt cho
những khách hàng muốn thực hiện ý đồ xấu của mình, rủi ro đạo đức từ phía người đi vay
xảy ra. Khả năng thu hồi vốn của ngân hàng giảm xuống, ngân hàng dần dần mất vốn. Do
đó, ngân hàng sẽ quyết định giảm hoạt động cho vay đồng thời tăng cường chặt chẽ quy
trình cho vay. Thị phần của ngân hàng mất đi và trở nên ít hơn. Với tình trạng như vậy,
ngân hàng tìm mọi cách để mở rộng điều kiện vay vốn góp phần tăng thị trường. Các hoạt
động này tạo thành vòng quay khép kín, tổn thất cho tín dụng là khó tránh khỏi.

Page 16



ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

Do quy chế tín dụng chưa chặt chẽ. Các quy định trong quy chế tạo điều kiện cho
ngân hàng và khách hàng thực hiện hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, thiếu sự logic, chặt
chẽ trong quy chế tạo lỗ hổng, khe hở cho những hành động không tốt.
Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các ngân hàng. Việc
xác định lãi suất của ngân hàng làm sao để có được nhiều khách hàng hơn các ngân hàng
khác trở nên đơn giản hơn, có thể chấp nhận lãi suất thấp hơn mặc dù không đủ để bù đắp
chi phí khác. Do đó, trong một khoảng thời gian dài, lợi nhuận ngân hàng không những
giảm xuống mà kèm theo là rủi ro tín dụng.
Do ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận. Theo nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi
nhuận, khi lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Vì vậy ngân hàng khi cho vay cần phải
cân nhắc kĩ giữa lợi nhuận và rủi ro.
1.2.5.2. Nguyên nhân khách quan
-

Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:

Sử dụng vốn vay sai mục đích, không đúng với hợp đồng tín dụng, không có thiện
trí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các
phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Mặc dù, số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn
vay sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản là không nhiều. Tuy
nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, đem lại hậu quả không tốt, ảnh hưởng
đến uy tín của ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng, và còn làm liên lụy đến
các khách hàng khác.
Tình hình tài chính của khách hàng yếu kém và thiếu tính minh bạch. Quy mô tài
sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các báo

cáo tài chính, sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và
trung thực. Do vậy, những thông tin, số liệu mà các khách hàng cung cấp cho ngân hàng
nhiều khi chỉ mang tính hình thức,đối phó, không phản ánh được thực chất, thực tế. Vì
thế, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của khách hàng dựa trên những
số liệu đó thường không chính xác, thiếu tính xác thực. Đây cũng là lý do vì sao hầu hết
các ngân hàng vẫn luôn coi trọng tài sản thế chấp là căn cứ cuối cùng để phòng chống rủi
ro tín dụng.
Sự yếu kém trong quản lý kinh doanh. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để
mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít
doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh
doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với
Page 17


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả
thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
-

Rủi ro do biến động của môi trường thiên nhiên:

Những biến động về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh
doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó đoán,
nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Vì vậy,
khi có thiên tai dịch họa xảy ra thì nguy cơ tổn thất của khách hàng cùng ngân hàng cho
vay sẽ rất lớn, phương án kinh doanh sẽ không có nguồn thu. Ở Việt Nam, thời tiết diễn
biến phức tạp nên môi trường tự nhiên được coi là một trong nhiều nguyên nhân gây ra

rủi ro cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng khi đầu tư phát triển các thành phần kinh
tế.
-

Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:

Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Trong những năm gần đây,
Quốc Hội, Chính Phủ, Ngân hàng nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều
luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và văn bản đã có, song
việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều
vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Điều này dẫn đến
tình trạng các ngân hàng thương mại không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn
đọng.
Do chịu ảnh hưởng của các chính sách. Mỗi một chính sách đưa ra nhằm tác động
đến những đối tượng nhất định. Sự thay đổi các chính sách nhanh chóng và sự mâu thuẫn
của các chính sách làm ngân hàng cũng như doanh nghiệp không dễ dàng để tuân thủ
đúng và kịp thời. Dẫn đến hoạt động của họ mất ổn định, gặp khó khăn.
Sự thanh tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng nhà nước còn chưa có sự cải
thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu
cầu. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới. Vai trò
kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu
hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị
trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu...
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, ở Việt Nam còn chưa có một cơ
chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng
ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động quá một thập niên và đã đạt được
những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình

Page 18



ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp
một cách độc lập và hiệu quả.
-

Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định:

Do sự thay đổi của nền kinh tế, chính trị, xã hội. Chỉ cần một trong ba yếu tố này
biến động thì sẽ tác động ngay đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín
dụng. Với xã hội phát triển, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng thì nhu cầu đầu tư tăng
lên, hoạt động tín dụng diễn ra thuận lợi. Ngược lại, nền kinh tế có lạm phát có thể làm
cho tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ, thua lỗ, khả năng trả nợ của khách hàng giảm,
hoạt động tín dụng gặp rủi ro.
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Nền kinh
tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phục vụ
nông nghiệp và dầu thô...vốn rất nhạy cảm với thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị ảnh
hưởng khi thị trường thế giới biến động xấu.
Rủi ro xuất phát từ quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế. Quá trình tự do
hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi
trường cạnh tranh gay gắt khiến hầu hết các doanh nghiệp, những ngân hàng thường
xuyên của khách hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt
của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong môi
trường hội nhập kinh tế khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu
kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên. Bởi vì hầu hết các khách hàng có tiềm lực
tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài với sức mạnh lớn về vốn, công nghệ, trình
độ quản lý hơn hẳn thu hút.

Sự tấn công của hàng nhập lậu. Hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm
điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh
nghiệp này.
Sự phân bổ giữa các ngành chưa được hợp lý dẫn tới một số ngành bị khủng hoảng
thừa về đầu tư và lãng phí tài nguyên quốc gia. Nói đến nền kinh tế thị trường là nói tới sự
cạnh tranh, trong đó các nhà kinh doanh từ bỏ những ngành đem lại lợi nhuận ít và sẽ tìm
đến đầu tư những nơi nào có lợi nhuận cao hơn, do đó hiện tượng dòng vốn chuyển từ
ngành này sang ngành khác là tất yếu khách quan. Nhưng với sự cạnh tranh diễn ra một
cách tự phát, thiếu phân công lao động cũng như phân bổ hợp lý, chuyên môn hóa lao
động, vai trò điều tiết, quản lý của nhà nước và các tổ chức, hiệp hội chưa phát huy hết tác
dụng sẽ dẫn đến ở một số ngành có vốn đầu tư tăng lên quá mức.

Page 19


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

1.2.6. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới NHTM và nền kinh tế
1.2.6.1. Ảnh hưởng tới NHTM
Một khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng có khả năng sẽ không thu được vốn tín
dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động
từ phía khách hàng khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu
chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí
của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các
nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đấy, ngân hàng
không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm

thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm
không những trong thị trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh
của ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá
sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
Rủi ro trong kinh doanh tín dụng ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Khi một khoản tín
dụng lớn gặp phải rủi ro có thể làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm xuống, có thể đi đến lỗ,
mất khả năng chi trả. Lúc đó lòng tin khách hàng vào ngân hàng giảm, ảnh hưởng lớn các
yếu tố của quá trình kinh doanh như rò rỉ chất xám, mối liên kết trong kinh doanh với các
ngân hàng khác bị thu hẹp....., đảo lộn thành quả hoạt động nhiều năm của một ngân hàng.
Nếu rủi ro ở mức độ cao ngân hàng có nguy cơ bị phá sản. Rủi ro tỉ lệ nghịch với hiệu quả
hoạt động của ngân hàng. Do đó rủi ro là vấn đề sống còn của ngân hàng.
1.2.6.2. Ảnh hưởng tới nền kinh tế
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài
chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh
nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho
vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi RRTD xảy ra thì
không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh
hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các
ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm
cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính xã hội cao, vì vậy khi một ngân hàng
suy yếu dễ dàng tạo ra phản ứng dây chuyền đối với các ngân hàng và các định chế tài
Page 20


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN


chính khác, dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, kìm hãm sự phát triển
hay dẫn đến sự suy thoái kinh tế.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự
hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền
kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay, nền kinh tế
mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ
(2007) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các
nước phát triển rất nhanh nên RRTD tại một nước lớn sẽ ảnh đến nền kinh tế các nước có
liên quan.
Tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân
hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng
không thu được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn.
Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả
nghiêm trọng cho nến kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.
Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những
biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
Tóm lại, nguy cơ và mức độ thiệt hại do rủi ro ngân hàng gây ra thật là to lớn. Không
những vậy rủi ro ngân hàng lại mang tính hệ thống. Do đó đảm bảo an toàn và phòng
ngừa rủi ro là vấn đề vô cùng trọng đại, không chỉ là công việc hàng đầu của mỗi ngân
hàng riêng lẻ mà là của toàn hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính
sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được mục tiêu an toàn, phát triển bền vững,
tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ xấu, nợ quá hạn trong
kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu
qủa hoạt động kinh doanh trong cả ngắn hạn và dài hạn của ngân hàng thương mại.

Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những hoạt động chủ đạo của NHTM. Quản trị
rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không

Page 21


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM ngay cả trong những điều kiện thị
trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.
1.3.2. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại, bao gồm hai
mặt : Sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ hoạt động tín dụng.
Song ở đây không có cách gì để loại trừ rủi ro tín dụng hoàn toàn mà phải quản lý cẩn
thận. Đứng trước quyết định cho vay, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa
sinh lời và rủi ro. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng được coi là nội dung quan trọng của
ngân hàng thương mại.
Khi ngân hàng không kiểm soát được rủi ro tín dụng thì sẽ gây nên nhiều bất lợi
cho ngân hàng như :
-

Giảm lợi nhuận :

Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm phát sinh các khoản nợ khó đòi, ngân hàng không
thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay đồng thời lại phát sinh thêm các chi phí quản
lý và chi phí giám sát thu nợ. Các chi phí này thực tế còn cao hơn các khoản thu nhập từ
việc tăng lãi suất các khoản nợ quá hạn bởi vì đây là khoản thu nhập ngân hàng rất khó có
khả năng thu hồi. Thế nhưng ngân hàng vẫn phải trả vốn và lãi khi đến hạn cho các khoản

tiền gửi. Vì thế ngân hàng bị giảm lợi nhuận và bị mất cân đối thu chi. Khi không thu
được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả.
-

Giảm khả năng thanh toán:

Các ngân hàng thương mại thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả gốc và lãi,
cho vay, đầu tư ...) và dòng tiền vào (thu nợ gốc và lãi, thu nhập từ các hoạt động đầu
tư ...) tại các thời điểm trong tương lai. Các món vay không được thanh toán đầy đủ và
đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết
kiệm của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các món cho vay lại
không được hoàn trả đúng hạn. Do đó, nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài sản
của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị han chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong khâu thanh toán.
-

Giảm uy tín của ngân hàng:

Nếu tình trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng diễn ra nhiều lần hay những
thông tin về rủi ro tín dụng của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng thì uy tín của ngân
hàng đó trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút. Hậu quả là ngân hàng sẽ khó khăn trong
việc huy động nguồn vốn từ dân cư và thiết lập giao dịch với các doanh nghiệp và các
Page 22


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

ngân hàng khác. Các ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế thị trường khi đã để mất niềm

tin của khách hàng thì việc khôi phục lại là rất khó khăn.
-

Phá sản ngân hàng:

Nếu doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn trong việc hoàn trả, nhất là những món vay
lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng là một lĩnh
vực hoạt động hết sức nhạy cảm, chỉ cần một tin đồn nhỏ về việc ngân hàng gặp khó khăn
trong khâu thanh toán lập tức sẽ tạo ra làn sóng rút tiền ồ ạt tại ngân hàng. Nếu ngân hàng
không chuẩn bị kịp thời cho những tình huống như vậy, không đáp ứng nổi nhu cầu rút
tiền quá lớn sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán và nếu ngân hàng trung ương không
thế can thiệp kịp thời thì sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngân hàng. Hiệu ứng dây chuyền này gây
ra sự hoảng loạn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trường hợp xấu nhất có thể dẫn đến sự
đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng và các tổ hức tín dụng khác. Nó làm cho nền kinh tế
suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro
tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia
đều phụ thuộc vào nền kinh tế mỗi khu vực và thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á (1997) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn
cầu.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở các mức độ khác nhau : nhẹ
nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi
ngân hàng không thu được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và
mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản gây
hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Chính vì thế, đòi hỏi các
nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp để giảm
thiểu rủi ro trong cho vay. Trên đây là những lý do về sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín
dụng, và từ đó có thể thấy được mục đích của việc quản lý rủi ro tín dụng là để tăng lợi
nhuận, đảm bảo khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín cho ngân hàng, tránh được rủi ro
phá sản ngân hàng.
1.3.3. Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng

Quản trị rủi ro ngân hàng được dựa trên hàng loạt những nguyên tắc, trong đó bao
gồm một số nguyên tắc cơ bản :
1.3.3.1. Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
Các nhà quản trị ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như
mong muốn có được thu nhập phù hợp từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Dĩ nhiên,
mỗi nghiệp vụ cụ thể sau khi đánh giá mức độ rủi ro các ngân hàng thương mại cần xây
Page 23


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

dựng chiến thuật phòng chống rủi ro; tuy nhiên, loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong hoạt động
ngân hàng là không thể, bởi vì rủi ro ngân hàng là sự hiện hữu khách quan vốn có trong
các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, nguyên tắc đầu tiên trong quá trình quản trị rủi ro
đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải nhận biết những “rủi ro cho phép”. Việc chấp
nhận mức độ loại rủi ro ngân hàng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những
tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản lý rủi ro.
1.3.3.2. Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép
Nguyên tắc này đòi hỏi phần lớn rủi ro trong “gói rủi ro cho phép” phải có khả năng
điều tiết trong quá trình quản lý, mà không phụ thuộc vào những hoàn cảnh khách quan
và chủ quan của nó. Ngoài ra, đối với các loại rủi ro không có khả năng “điều chỉnh” cần
phải được chuyển đẩy sang các công ty bảo hiểm bên ngoài. Ngân hàng có thể chuyển rủi
ro tín dụng sang các công ty bảo hiểm bằng cách mua bảo hiểm cho các khoản tín dụng và
khi rủi ro xảy ra ngân hàng sẽ được các công ty bảo hiểm bồi thường toàn bộ hay một
phần tổn thất tùy theo điều kiện của loại bảo hiểm đã mua.
1.3.3.3. Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt
Một trong những nguyên lý cơ bản của lý thuyết quản trị rủi ro là các loại rủi ro khá
độc lập với nhau và sự thiệt hại do một loại nào đó trong “ gói rủi ro cho phép” gây nên

không nhất thiết sẽ làm tăng xác suất xảy ra các loại rủi ro khác. Nói cách khác, về
nguyên tắc, sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác nhau gây nên là khá độc
lập với nhau và quá trình quản lý chúng cần phải được điều tiết riêng biệt, không thể gộp
các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra cùng một phương pháp điều hành.
1.3.3.4. Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập
Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản trị rủi ro. Các ngân hàng trong quá
trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại mức độ rủi ro mà thiệt hại khi
chúng xảy ra ở mức không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có nghĩa rằng, tất cả các
loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.
Ngân hàng không nên đánh đổi giữa lợi nhuận và an toàn tín dụng khi rủi ro quá cao.
1.3.3.5. Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính
Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro phải phù hớp với
phần vốn mà ngân hàng có thể trích dự phòng cho những thiệt hại khi chúng xảy ra. Khi
rủi ro xảy ra, nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng lợi nhuận và nhịp độ phát
triển của ngân hàng trong tương lai. Do đó, giá trị thiệt hại phải phù hợp với mức vốn dự
phòng của ngân hàng và ngân hàng phải xác định được mức độ dự báo phù hợp, bao gồm
Page 24


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

GVHD: TS. NGUYỄN HÒA NHÂN

cả những khoản rủi ro không thể chuyển được sang cho đối tác hay các công ty bảo hiểm
bên ngoài.
1.3.3.6. Nguyên tắc hợp lý về thời gian
Thời gian tồn tại của một nghiệp vụ ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro
càng lớn, khả năng điều tiết những tác động tiêu cực của nó và tính kinh tế của quản lý rủi
ro càng thấp. Khi bắt buộc phải tồn tại các nghiệp vụ này thì ngân hàng phải đảm bảo có
mức thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn vì mục đích bù đắp những

chi phí để điều tiết tác động của rủi ro trong trường hợp chúng xảy ra.
1.3.3.7. Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép
Nguyên tắc này đòi hỏi các loại rủi ro nằm trong “gói rủi ro cho phép”
phải có khả năng chuyển đẩy cao. Các loại rủi ro không tương thích với khả năng
của ngân hàng trong việc điều tiết những hậu quả tiêu cực khi chúng xảy ra hay không
phù hợp với những yêu cầu cụ thể của chiến lược và chính sách điều hành hoạt động của
ngân hàng cần phải được loại bỏ khỏi “gói rủi ro cho phép”. Hay nói cách khác, chúng chỉ
được cho vào khi có khả năng chuyển đẩy cao sang các đối tác hoặc các công ty bảo hiểm
bên ngoài.
Trên đây là các nguyên tắc cơ bản để từ đó mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một
chính sách quản trị rủi ro ngân hàng riêng biệt.
1.3.4. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của một số nước trên thế giới
Trong cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á thời kỳ 1997-1998, khởi đầu là khu vực
châu Á và lan truyền khắp toàn cầu, gây nên cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ngày
nay, sự kiện nhiều ngân hàng trên thế giới công bố các khoản nợ xấu và thua lỗ đang được
cộng hưởng với tình trạng khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà bắt đầu là những khoản nợ
khó đòi của hệ thống tín dụng liên quan đến thị trường bất động sản phát sinh của Mỹ
năm 2007. Trước tình hình đó, các ngân hàng lớn có tầm ảnh hưởng toàn cầu đang ti ến
hành nhiều biện pháp để sẵn sàng đối phó với khủng hoảng tín dụng thế giới. Sau đây là
một số các kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng ở một vài nước trên thế giới.
1.3.4.1. Ngân hàng của Singapore
- Xây dựng "danh mục theo dõi": Để phòng ngừa các khoản nợ xấu phát sinh, các
NHTM Singapore xây dựng "Danh mục theo dõi" để nhận biết những dấu hiệu cảnh báo
sớm vấn đề bất ổn về tín dụng.

Page 25


×