Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Những đặc trưng nổi bật của văn học trung đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.05 KB, 7 trang )

Những đặc trưng nổi bật của văn học trung
đại Việt Nam
Gần 10 thế kỷ phát triển trong lòng xã hội phong kiến, sự phát
triển của văn học trung đại gắn liền với nền tảng mĩ học phong
kiến. đó là những sáng tác nằm trong hệ thống thẩm mĩ riêng do
quan niệm nĩ học phong kiến quy định. Văn học trung đại Việt
Nam đã đem lại những thành tựu lớn cho văn học trung đại
nước nhà. “Mỗi tác phẩm giúp ta hiểu ra suy nghĩ, cảm xúc của
con người cụ thể trong một thời đại cụ thể, hiểu và sống với các
tác phẩm của dân tộc làm ta nếm trải được những suy nghĩ và
cảm xúc của vô số người, vô số hoàn cảnh, vô số thời đại thật
đa dạng”[23, 119]. Văn học trung đại Việt Nam, vì thế có những
đặc trưng nổi bật mà người nghiên cứu cũng như giảng dạy
phải nắm được những dấu hiệu đặc trưng và xem đó như là một
chìa khóa mở cánh cửa để vào tác phẩm mà không bị lạc trong
mê cung của nghệ thuật. Sau đây là những đặc trưng.
1. Tính song ngữ trong các thể loại văn học trung đại
Thời trung đại do bị bắt buộc, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu
rộng của tiếng Hán, chữ Hán, văn hóa Hán. Tiếng Hán “trở
thành một thứ tiếng nằm trong quỹ đạo của quy luật âm và ngữ
âm lịch sử tiếng Việt và văn học chữ Hán của các nhà văn Việt
Nam là một bộ phận của văn học Việt Nam”[42]. Hai thứ tiếng,
hai bộ phận văn học đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. tình
hình đó tạo nên hiện tượng song ngữ trong văn học. tính song
ngữ tạo thành đặc điểm văn học của nhiều thành phần và không
chỉ thể hiện trong dòng văn học chữ Hán và Nôm tách biệt, mà
còn thể hiện ở sự xâm nhập, pha trộn của văn học Hán và Nôm.


Đồng thời do ý thức hệ trong việc sử dụng ngôn ngữ nên ngôn
ngữ được chia thành hai loại: ngôn ngữ cao nhã và ngôn ngữ


tầm thường. cũng chính vì thế mà văn học chia thành loại cao
nhã, cao thượng với văn học “nôm na”, thông tục mà loại sau
nhiều khi không được thừa nhận từ phía học giả quan phương.
2. Văn học trung đại chịu sự chi phối mạnh mẽ của tư tưởng
kinh điển, tôn giáo.
Tư tưởng kinh điển và tôn giáo đã cung cấp càm hứng, đề tài,
chủ đề và gợi ý các thể loại văn học trung đại. các tôn giáo và
học thuyết phật, Nho, Đạo đã ảnh hưởng và tạo nên những nét
đặc thù trong quan niệm của người trung đại về bản chất vũ trụ,
không gian và thời gian, thiên nhiên, con người. tư tưởng tôn
giáo và kinh điển còn đem lại hệ quả quan trọng như: phân biệt
văn học linh thiêng và phàm tục; hạn chế sự biểu hiện cá nhân
và ý thức cá nhân; mặt khác đem đến việc đề cao nội dung đạo
đức và tính chất giáo huấn, văn học có mối quan hệ trực tiếp
với tư tưởng. những quan điểm này có quan hệ đến việc hình
thành những đặc trưng về nội dung và hình thức nghệ thuật của
văn chương trung đại. vì vậy muốn lí giải những vấn đề thuộc về
bản chất của văn chương, cái hay cái đẹp của tác phẩm văn
chương thời trung đại tất yếu phải dựa trên những quan niệm
nghệ thuật đặc thù về thế giới con người thời trung đại. chẳng
hạn, khi tìm hiểu các truyện trong “ Truyền kỳ mạn lục” của
Nguyễn Dữ, chúng ta phải thấy được các truyện được viết chịu
ảnh hưởng của quan điểm Nho giáo và Phật giáo, Thuyết “nhân
quả” của đạo Phật ảnh hưởng khá rõ trong các kết thúc câu
chuyện.
3. Văn học trung đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học dân
gian


Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào

khác đều phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn
học dân gian. Mối quan hệ giữa văn học viết trung đại Việt Nam
và văn học dân gian biểu hiện ở chỗ: văn học viết tiếp thu văn
học dân gian từ đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mĩ ở
khía cạnh ngôn ngữ và thể loại. trong quá trình phát triển hai
thể loại luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn
nhau để cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng của sự
hình thành các thể loại tự sự, các tập văn xuôi chữ Hán, các
truyện Nôm và các tập thơ ca của tác giả., chẳng hạn với 22
truyện trong “Lĩnh nam chích quái lục” của Trần Thế Pháp,
phần lớn truyện có tính chất truyền thuyết. Nguyễn Dữ trong
“Truyền kỳ mạn lục” đã đưa motip truyện dân gian như “lấy vợ
kì dị”. “gặp gỡ người chết”, “xuống thủy cung”… để tạo ra câu
chuyện mới. “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên có nhiều
tư liệu dân gian để viết chính sửa của nhà nước, nhiều sự tích
vốn có của nguồn gốc từ truyền thuyết dân gian như công cuộc
xây dựng thành của An Dương Vương với việc thần Kim Quy
trừ tinh gà trắng và cho nhà vua lấy nỏ. thời thơ ấu của Đinh
Bộ Lĩnh với việc “cờ lau tập trận” và việc rồng hiện lên cứu Bộ
Lĩnh qua sông…
4. Văn học trung đại Việt Nam thường cảm thụ và diễn tả thế
giới thông qua một hệ thống ước lệ phức tạp và nghiêm ngặt.
Hệ thống ước lệ có ba tính chất: tính uyên bác và cách điệu hóa
cao độ; tính sùng cổ; tính phi ngã.
Về tính uyên bác và cách điệu hóa
Chính quan niệm văn chương viết ra chỉ để dành cho bậc “tao
nhân mặc khách”, “chính nhân quân tử” nên có tính uyên bác


và cách điệu hóa cao độ. Các nhà nho sĩ sáng tác bằng chữ Hán

có một phần vì họ cho đó mới là thứ văn chương sang trọng.
Những người thưởng thức là tầng lớp trí thức tài hoa, có ý thức
thẩm mĩ cao.
Về tính sùng cổ
Con người trung đại quan niệm thời gian xoay tròn, tuần hoàn,
không mất đi mà quay trở lại gốc nguồn. bởi thế, họ coi trọng
quá khứ, coi trọng cái khởi đầu, coi trọng người già. Chuẩn
mực cái đẹp, của lẽ phải, cái đạo đức là ở quá khứ. Xã hội
hoàng kim là xã hội thời Nghiêu Thuấn, anh hùng nghĩa sĩ lí
tưởng là Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng… vì vậy, văn nghil luận
thường lấy tiền đề lí lẽ và kinh nghiệm cổ nhân, của lịch sử xa
xưa. Do tính sùng cổ mà văn học trung đại đầy dẫy những điển
cố, điển tích, những từ cổ… Trong sáng tác việc lặp lại truyện
cũ, mô phỏng văn chương xưa chẳng những không bị chê trách
mà còn là một cách tạo thêm giá trị cho sáng tác của mình.
Về tính phi ngã
Thời trung đại, ý thức cá nhân, cá thể chưa có điều kiện phát
triển. Sự khinh trong đối với một cá nhân không căn cứ vào
phẩm giá của chính cá nhân ấy mà căn cứ cá nhân thuộc dòng
họ nào, đẳng cấp nào, có địa vị gì trong bậc thang xã hội. từ đó
tạo ra hệ thống ước lệ nghệ thuật có tính chất phi ngã. Nhà văn
cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng con mắt quan sát của
cá nhân mình, cũng như tranh vẽ, thơ vịnh cảnh đều có quy định
sẵn theo công thức: tứ quý, xuân lan, thu cúc…luật phối thanh
của thơ phú cũng quy định chặt chẽ khiến người làm thơ phải
diễn tả thế giới bằng thính giác phi ngã của cộng đồng “tao
nhân mặc khách”…người viết văn có một kho từ điển, kho thi


liệu, văn liệu chung được sử dụng trong sáng tác. Và vì vậy, thể

loại văn học trung đại cũng mang tính quy phạm.
5. Con người trong văn học trung đại là con người vô ngã và
con người hữu ngã.
Vô ngã là một phạm trù đặc trưng của văn học trung đại. Vì
đứng trước xã hội, con người chưa tách khỏi môi trường xã hội,
còn gắn chặt với cộng đồng, gắn chặt với nước. cá nhân tồn tại
trong đất nước, không tồn tại “tự nó và cho nó”. Cá nhân gắn
chặt với gia tộc, với tập đoàn”. “Việc sống trong tập đoàn
không đè nặng lên nó, ngược lại, đó là ngọn nguồn khoái cảm
cho nó…”[47, 187]. Con người trung đại thấy mình gắn chặt
với cộng đồng là một điều tự nhiên, là vinh dự, là đạo lí nên
cảm thấy vui sướng, tự hào. Họ chưa khẳng định rõ bản ngã
của mình, một con người vô ngã hoặc chủ yếu là vô ngã. Điều
đó chi phối sáng tác, liên quan đến ý nghĩa hình tượng trung
tâm trong các TLVH. Bởi vậy, văn chương của Đạo, của Thiền,
các vua, các vương hầu… dù nói về triêt đạo, thuyết thiền hoặc
bày tỏ tấm lòng thương người đượm màu sắc bác ái, từ bi hay
vịnh cảnh, đều tập trung nói đến hoài bão to lớn, rõ ràng cho
đất nước, cho cộng đồng.
Tuy nhiên từ thế kỷ XVI trở đi, do nhiều nguyên nhân kinh tế,
chính trị tác động mạnh vào xã hội, sự tự ý thức về cá nhân lớn
dần lên, đòi được quyền sống và quyền tự bộc lộ mình dù còn
phải dè dặt mặt này, mặt nọ thì thì con người chủ yếu vô ngã
hay vô ngã ấy chuyển sang con người chủ yếu hữu ngã mặc dù
vẫn còn vô ngã. Điều đó làm cơ sở cho văn chương nghệ thuật
phát triển lên một bước mới. Biểu hiện cụ thể đó là sự phê phán
gắt gao những thói xấu xa, sự xa hoa, phung phí tiền của mồ hôi
của nhân dân trong “Thượng kinh kí sự”, hoặc phê phán thẳng



thừng, lên án quyết liệt từ vua quan, không trừ thần thánh, bộ lộ
hết nỗi khổ của nhân dân trong “Truyền kì mạn lục”. Đặc biệt
từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình chính trị xã
hội có biến động, kéo theo là sự đòi hỏi gát gao, bức thiết về
quyền được sống như một con người… thì con người “hữu ngã”
hiện nguyên hình, là con người xương thịt trong cuộc đời. con
người cá nhân lúc này “nó không chỉ là nó, mà còn có đủ sức
điển hình cho một hạng người”[47,188]. Chính sự phát triển
mạnh mẽ của tính hữu ngã đã góp phần làm phong phú thêm
các thể loại văn học trung đại giai đoạn sau.
6. Tư duy nguyên hợp và quan niêmk “văn – sử - triết bất phân”
trong các thể loại văn học trung đại Việt Nam.
Tư duy nguyên hợp là kiểu tư duy thiên về kỹ năng tổng hợp
trực cảm, về thể loại chưa có ý thức tách bạch, dứt khoát.
Hiện tượng “văn – sử - triết bất phân” là một hiện tượng đặc
trưng và phổ biến của văn học trung đại, liên quan đến quy luật
văn hóa, trạng thái tư duy nghệ thuật, quan niệm văn chương
thời trung đại. Nó thể hiện trong hệ thống thể loại văn học và
trong cơ chế nghệ thuật ở mỗi TPVH cụ thể. Văn – sử - triết bất
phân “vốn là sản phẩm của một trình độ tư duy nghệ thuật mà
trong đó sự phân hóa giữa hai hình thái tư duy: luận lí (gọi là
khái niệm, logic) và hình tượng chưa tách bạch nhau mà có sự
đan xen. Đó là trạng thái trong sáng tác văn chương, tư duy
hình tượng chưa lấn át hoàn toàn tư duy luân lí. Các ý tưởng,
các khái niệm mang tính chất triết học, nói chung vẫn tồn tại
trong các tác phẩm một cách trực hiện bằng tư duy lý luận
(trong khi với văn học hiện đại chúng tồn tại theo một kiểu gián
tiếp, tan biến vào trong hình tượng). Vì vậy trong quan niệm văn
học trung đại, nổi nên chủ đạo như mọi người đã thừa nhận là



quan niệm “văn dĩ tải đạo” “văn dĩ minh đạo” “văn dĩ quán
đạo”…
Hiện tượng văn – sử - triết bất phân được thể hiện trong hệ
thống thể loại của văn học trung đại, gồm hai loại hình chính là
: văn vần (thơ) và văn xuôi, thể hiện trong phạm vi văn xuôi rõ
nét hơn văn vần. trong loại hình văn xuôi, các thể loại của nó có
thể chia làm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất là những thể loại
thuộc văn chính luận được viết bằng tư duy khái niệm là chủ
yếu thì hiện tượng văn – sử - triết bất phân trở thành đặc trưng
thể loại. Bộ phận thứ hai là những thể loại văn xuôi tự sự như
truyện truyền kỳ, tiểu thuyết chương hồi…cũng là sản phẩm của
quy luật này, tuy nó không thể hiện đậm nét bằng văn xuôi chính
luận.
Chẳng hạn: “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là một kiệt
tác văn chương kết tinh trên cơ sở của quy luật văn – sử - triết
bất phân.
Về triết đó là lí tưởng nhân nghĩa trực tiếp sáng rực lên trong
lời mở đầu và tiếp tục chói lọi ở cuối tác phẩm
Về sử: đó là một bản tổng kết tài tình cô đúc đầy đủ về lịch sử
khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo
Về văn, đó là một nguồn cảm xúc trữ tình mang đậm âm hưởng
hào hùng, bề thế tới mức đời sau mệnh danh là thiên cổ hùng
văn



×