Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Từ hán việt trong sách giáo khoa ngữ văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.25 KB, 52 trang )

Từ Hán Việt trong Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Ban cơ bản)
Đoàn Thị Mỹ Dung
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong vốn từ vựng tiếng Việt, lớp từ Hán Việt 漢漢 chiếm một số lượng đáng kể. Theo
thống kê chưa đầy đủ, nó chiếm khoảng 70% trong khối lượng từ vựng tiếng Việt [29].
Là một bộ phận quan trọng, gắn bó chặt chẽ một cách hữu cơ với sự phát triển của bản
ngữ, góp phần tích cực làm cho tiếng Việt thêm phong phú, chuẩn xác, đủ khả năng đáp
ứng mọi yêu cầu do cuộc sống văn hóa xã hội phát triển đề ra. Từ Hán Việt đã tham gia
vào quá trình hình thành nên ngôn ngữ văn học đặc sắc, có mặt trong các tác phẩm dân
gian cho đến những sáng tác bác học của các tác gia trung đại.
Ngày nay, bên cạnh sinh hoạt khẩu ngữ, trong các văn bản hành chính, tài liệu học tập,
chuyên luận, công trình nghiên cứu, đặc biệt là sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn, số lượng
từ Hán Việt vẫn còn được sử dụng với một tỷ lệ khá lớn và khá phức tạp. Do đó, trong
quá trình hành chức, vì đặc trưng kết cấu ngữ nghĩa, bản thân từ Hán Việt đã trở thành
một rào cản khá lớn và gây nên sự khó hiểu đối với một bộ phận người sử dụng, nhất là
đối tượng học sinh, sinh viên (HS, SV) trong nhà trường.
Trong thời gian gần đây, ngoài ý kiến của các nhà khoa học, chủ trương đưa từ Hán Việt
vào chương trình phổ thông để giảng dạy là một việc làm cần thiết mà Bộ Giáo dục &
Đào tạo (GD & ĐT) đã và đang tiến hành một cách khẩn trương. Đây là một việc làm
thiết thực, trước hết nó có thể giúp cho HS hiểu và sử dụng đúng lớp từ này, cảm thụ
được những nét tinh tế, cái hay, cái đẹp thông qua các tác phẩm văn học, đặc biệt là
những tác phẩm cổ điển trong chương trình THPT, đồng thời bồi dưỡng cho HS, SV lòng
yêu mến, tự hào tiếng nói của dân tộc.
Từ năm học 2005 - 2006 đến nay, Bộ GD & ĐT và các chuyên gia đầu ngành của bộ
môn Ngữ văn do nhà nghiên cứu hàng đầu về Giáo học pháp - Phan Trọng Luận chủ trì,
đã tiến hành biên soạn và đưa vào sử dụng bộ SGK Ngữ văn 10 (Ban cơ bản). Bộ sách
này được sử dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước, điểm nổi bật của nó là thâu tóm được
một dung lượng khá lớn các tác phẩm văn học cổ điển và do đó số lượng từ Hán Việt
được sử dụng trong bộ SGK này là khá lớn. Bộ SGK Ngữ văn 10 tuy đã thể hiện được vai
trò hướng dẫn học tập của nó nhưng cũng đã tạo ra những khó khăn đáng kể đối với HS


phổ thông, nhất là các em HS lớp 10.
Ngoài ra, để phục vụ tốt hơn trong công tác học tập hiện nay và giảng dạy ở bậc THPT
trong tương lai, chúng tôi bước đầu nghiên cứu đề tài Từ Hán Việt trong Sách giáo


khoa Ngữ văn 10 (Ban cơ bản). Qua nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tìm hiểu
hệ thống kiến thức cơ bản về từ Hán Việt trên các bình diện lý thuyết để từ đó xác lập
một hệ thống các phương pháp tiếp cận, nhận diện, giảng dạy và học tập từ Hán Việt
thích hợp với HS bậc Trung học phổ thông (THPT).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ Hán Việt là lớp từ ngữ mà người Việt đã vay mượn của tiếng Hán. Trên cơ sở
của thành tựu ngôn ngữ học, văn bản học, Hán Nôm học…, ngày càng có nhiều cứ liệu
lịch sử, cơ sở khoa học xác đáng để khẳng định đây là hiện tượng Việt hoá các từ gốc
Hán ở các phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa lẫn phạm vi sử dụng. Do đó, nó đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học lịch sử, từ vựng học lịch sử. Qua số
lượng tài liệu đã sưu tập được, chúng tôi tạm chia lịch sử nghiên cứu về từ Hán Việt và
quá trình hình thành cách đọc Hán Việt như sau:
2.1. Lịch sử nghiên cứu cách đọc Hán Việt và từ Hán Việt
Lịch sử nghiên cứu quá trình hình thành cách đọc Hán Việt có lẽ đã được bắt đầu từ
những năm đầu thế kỷ XX. Người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu về đối tượng này một
cách hệ thống là Nguyễn Văn San và Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm. Trên Nam Phong Tạp
chí 漢漢漢漢 số 05 (1929), Nguyễn Văn San và Hoa Bằng đã đưa ra những lý giải đầu tiên
về cách đọc Hán Việt, sau đó trên tạp chí Tri Tân 漢漢 (số 07/1941), Trúc Khê Ngô Văn
Triện cũng đặt vấn đề nghiên cứu về từ Hán Việt. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu, khảo sát
của các tác giả trên chỉ là những bước khảo cứu, tìm hiểu ban đầu và nặng về tính suy
diễn hơn là đưa ra dẫn liệu cụ thể về từ Hán Việt [23].
Năm 1941, ông Dương Quảng Hàm công bố chuyên luận Việt Nam văn học sử
yếu - Một trong những công trình văn học sử đầu tiên của khoa nghiên cứu lịch sử văn
học Việt Nam. Trong Thiên thứ tư: Các thể văn, khi bàn về chữ Nôm, ông cũng có
những nhận định về từ ngữ Hán Việt. Chẳng hạn, ông cho rằng: “tiếng Nam ta gồm có: 1.

Những tiếng có gốc ở chữ Nho mà cách đọc:
a. Hoặc giống hẳn chữ Nho. Thí dụ: dân 漢, tỉnh 漢.
b. Hoặc hơi khác âm chữ Nho một chút. Thí dụ: Côi (do chữ Cô 漢), cuộc (do chữ
Cục 漢)…”. [Dẫn lại theo 15;114]. Trong công trình của mình, Dương Quảng Hàm không
trực tiếp đề cập đến khái niệm từ Hán Việt, ông gọi đó là âm đọc của chữ Nho. Tuy vậy,
từ góc độ văn tự học, Dương Quảng Hàm cũng đã bước đầu đề cập đến một lớp từ khá
phổ biến trong kho từ vựng Việt ngữ.
Trong chuyên khảo nổi tiếng về Loại hình các ngôn ngữ (sơ thảo năm 1976) [18],
N.V.Xtankêvich đã khẳng định, tiếng Hán và tiếng Việt tuy có cội nguồn khác nhau,
thuộc những ngữ hệ khác nhau nhưng cả hai đều thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm


tiết tính. Đây là một đặc điểm rất quan trọng, cần đặc biệt lưu ý khi nghiên cứu mối quan
hệ ngôn ngữ, văn hoá Việt - Hán ở buổi đầu. Chính điều này đã tạo ra những thuận lợi cơ
bản nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn cho sự nghiệp bảo tồn và phát triển
ngôn ngữ dân tộc của nhân dân Việt Nam trong gần một thiên niên kỷ bị Hán hoá và
chống Hán hoá. Đó là một quá trình thử thách đầy cam go của tiếng Việt trong lịch sử với
nhiều giai đoạn chuyển biến quanh co, phức tạp.
Những vấn đề cơ bản về từ Hán Việt và cách đọc Hán Việt lần đầu tiên được nghiên cứu
một cách hệ thống nhất là ở trong chuyên luận Nguồn gốc và quá trình hình thành cách
đọc Hán Việt (1979) [15] của nhà ngữ học Nguyễn Tài Cẩn. Trong tài liệu này, ông đã
trình bày những vấn đề mang tính lịch sử của từ Hán Việt. Từ góc độ Ngữ âm học lịch sử,
Âm vận học Trung Hoa, Nguyễn Tài Cẩn từng bước lý giải chặt chẽ những vấn đề cơ bản
của từ Hán Việt trên bình diện âm đọc và ngữ nghĩa. Sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán, Việt lâu
dài và liên tục đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng ngôn ngữ đáng chú ý, đặc biệt là sự hình
thành lớp từ Hán Việt. Muốn hiểu thế nào là từ Hán Việt, trước hết phải hiểu thế nào là
cách đọc Hán Việt.
Cách đọc chữ Hán ở Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử cũng có sự thay đổi do sự thay
đổi của hệ thống ngữ âm tiếng Hán. Do bối cảnh xã hội ở thời kỳ Bắc thuộc, tiếng Hán ở
Giao Châu có thể coi như là một phương ngữ của tiếng Hán. Nguyễn Tài Cẩn trong công

trình Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, đã nhận xét: “Tất nhiên ở
Giao Châu vì tồn tại bên cạnh tiếng Việt, chịu tác động của cách nói người Việt, tiếng
Hán có “méo mó” đi ít nhiều, nhưng nhìn chung thời kỳ này, nó vẫn gắn liền mật thiết
với tiếng Hán ở Trung Quốc, tiếng Hán ở Trung Quốc diễn biến thì ở Giao Châu nó cũng
phải chuyển biến theo” [15; 49].
Theo Nguyễn Tài Cẩn, đến thế kỷ VIII và IX, cách đọc chữ Hán ở Giao Châu là
cách đọc theo hệ thống ngữ âm tiếng Hán giai đoạn sau của tiếng Hán trung cổ. Sang thế
kỷ X, khi Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập và tự chủ thì sự du nhập, phát triển
của chữ Hán trong tiếng Việt cũng được chuyển sang một chiều hướng khác. Cách đọc
chữ Hán dựa trên hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường dần dần biến dạng đi dưới áp
lực tác động của hệ thống ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tách xa hẳn cách đọc của người Hán
và trở thành một cách đọc riêng của người Việt. Cách đọc đó được gọi là cách đọc Hán
Việt. Vì vậy, có thể tạm định nghĩa cách đọc Hán Việt như sau: “Cách đọc Hán Việt là
cách đọc chữ Hán của người Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường,
chịu sự chi phối của hệ thống ngữ âm tiếng Việt” [15; 46]. Năm 1998, trong Giáo trình
ngữ âm lịch sử tiếng Việt (sơ thảo), Nguyễn Tài Cẩn cũng tiếp tục khẳng định hướng
nghiên cứu trên. Quan điểm nghiên cứu của ông đã được các nhà nghiên cứu kế tục và
phát triển. Qua các bộ giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học (1998), Từ vựng học tiếng
Việt (1999) của Nguyễn Thiện Giáp, Ngữ pháp tiếng Việt tập 1 (1999) của Đỗ Thị Kim
Liên, Từ tiếng Việt (2000) do Nguyễn Văn Khang chủ biên..., chúng ta cũng có thể nhận
thấy rõ sự ảnh hưởng đấy.


Năm 1989, Phan Ngọc đã công bố chuyên luận Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt (Nxb
GD, Hà Nội) [33]. Trong công trình này, Phan Ngọc đã phân tích khá chi tiết quá trình
hình thành và phát triển của từ Hán Việt. Tuy nhiên, ở tài liệu này vẫn tập trung đi vào
các phương thức giải thích, giải nghĩa từ Hán Việt. Đặc biệt, ông đã khái quát những đặc
tính phong cách, tu từ của từ ngữ Hán Việt, từ ngữ thuần Việt. Đây là đóng gớp lớn của
ông đối với lịch sử nghiên cứu về từ Hán Việt. Phan Ngọc khẳng định, bên cạnh tính
trang trọng, uyên nhã, tạo sắc thái cổ kính, từ Hán Việt còn gợi cho ta hình ảnh của thế

giới khái niệm, im lìm, bất động, trái lại, từ thuần Việt cung cấp cho ta hình ảnh sinh
động của thế giới thực tế. Ông viết: Sự đối lập này đã được các nhà văn khai thác. Chúng
tả buổi chiều, có thuyền, có nước, có tác giả bâng khuâng nhưng trong Thu điếu của
Nguyễn Khuyến toàn dùng từ thuần Việt để gợi lên một mùa thu có thực và một nông
thôn thực tế của quê nhà. Dùng từ Hán Việt vào đây thì cái cảm giác thân quen, gần gũi
sẽ mất đi. Cho nên vị Tam nguyên giỏi chữ Hán nhất nước đã tránh dùng từ Hán Việt,
trong bài thơ Câu cá mùa thu. Một nông thôn bình dị, đẹp, nên thơ trong cảnh bình dị,
nghèo, nhưng rất đỗi thân yêu. Chính các từ thuần Việt tạo nên được cái âm hưởng ấy.
Chẳng hạn, “Bà Huyện Thanh Quan trong bài Chiều hôm nhớ nhà đẩy lùi bức tranh thế
giới của tâm tưởng, của ý niệm. Các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn
đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những kẻ chăn trâu, những bến
xe, những người ở đài cao, những người khách trộm, cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Làm gì
có những ngư ông, những viễn phố, những mục tử, những cô thôn? Làm gì có những
Chương Đài, người lữ thứ, nỗi hàn ôn? Không những thế, các từ Hán Việt đều đặt vào
vị trí quyết định giá trị câu thơ: cuối vần để gây tiếng vọng trong tâm hồn ta, cuối nhịp
để bắt người đọc dừng lại ở đây. Trong Thăng Long thành hoài cổ, cả bài chỉ có tám
chữ Hán Việt, mà cả tám chữ ấy đều ở cuối câu. Nghệ thuật là sự lựa chọn cực kỳ công
phu. Bằng cách này, Bà Huyện Thanh Quan kéo ta về cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u
hoài của nhà thơ là nỗi u hoài của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại,
không có sự cách biệt giữa tôi với anh” [33; 46].
Trong thời gian gần đây, thành tựu nghiên cứu về từ Hán Việt càng được khẳng
định hơn bởi những cứ liệu Hán Nôm, ngôn ngữ học lịch sử. Từ quan điểm Ngôn ngữ
học lịch sử, Hán Nôm học, Nguyễn Ngọc San đã công bố các chuyên luận cơ bản về từ
ngữ Hán Việt như Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử (1999), Từ Hán Việt và từ Thuần Việt
(1999) và Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm (2003). Đặc biệt trong Lý thuyết chữ Nôm văn
Nôm, ông đã phân định các âm đọc từ Hán Việt như sau: Đọc âm thượng cổ; Đọc âm
Trung cổ; Đọc âm cận hiện đại. Tùy theo từng giai đoạn, các âm này khi du nhập vào
nước ta đã chịu sự chi phối về quy luật ngữ âm tiếng Việt và đã trở thành âm của người
Việt. Do đó, theo chúng tôi, từ Hán Việt là lớp từ có gốc từ tiếng Hán, về cơ bản được
đọc theo âm thời Trung cổ chủ yếu là âm đời Đường. Riêng âm đọc thượng cổ, có người

gọi là âm cổ Hán Việt. Trong Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nguyễn Ngọc San đã đề
nghị dùng khái niệm Tiền Hán Việt 漢漢漢 để tránh sự nhầm lẫn là âm thời cổ đại và trung
cổ. Cụ thể:


ÂM BẮC KINH

ÂM TIỀN HÁN
VIỆT

ÂM HÁN VIỆT



Buồng

Phòng

Fáng



Buông

Phóng

Fàng




Buồn

Phiền

Fán



Mùa

Vụ





Mong

Vọng

Wàng



Rèm

Liêm

Lián




Dời

Di

Yi

CHỮ HÁN

HIỆN ĐẠI

[34; 24 –25]
Nhìn chung, quá trình nghiên cứu về từ Hán Việt đã trải qua một quá trình tìm hiểu, phân
tích, lý giải từ những cứ liệu ngôn ngữ. Điều này đã chứng minh được tính lịch sử, sự
đóng góp của lớp từ ngữ này vào hệ thống từ vựng Việt ngữ và từ Hán Việt là một bộ
phận không thể thiếu trong vốn từ vựng tiếng Việt. Theo một số nhà nghiên cứu đã chứng
minh: Sự tinh tế, uyển chuyển, chuẩn xác của nó giúp cho người viết có thể chuyển tải
được những nội dung muốn biểu đạt có sức khái quát cao và người đọc cũng có thể cảm
nhận được sự tinh tế uyển chuyển chuẩn xác đó. Riêng về phương diện giao tiếp, từ Hán
Việt cũng đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao tính hiệu quả của lời nói.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề dạy học từ Hán Việt trong nhà trường
Thành tựu nghiên cứu về từ Hán Việt đã mang lại cho công việc tổ chức dạy học từ ngữ ở
nhà trường phổ thông sự bổ trợ rất lớn, nhất là đối với quá trình dạy học phần văn học cổ


điển của bộ môn Ngữ văn. Tiếp cận hệ thống ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam dưới
góc độ từ vựng học, đặc biệt là qua sự khảo sát từ Hán Việt một số tác phẩm viết bằng
chữ Nôm, chúng tôi nhận thấy sức hấp dẫn lôi cuốn của lớp từ này được thể hiện trên hai
phương diện chính đó là: Nội dung và hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, quá trình dạy học

từ Hán Việt của GV và HS đã vấp phải những trở ngại lớn, nhất là cách thức nhận diện,
giải thích và phân tích từ ngữ Hán Việt. Năm 1998, để giải quyết những vấn đề mang tính
học thuật, đặc trưng ngôn ngữ, GS.Đặng Đức Siêu đã biên soạn chuyên luận Dạy và học
từ Hán Việt ở trường phổ thông [35]. Ở chuyên luận này đã trình bày, giải quyết và tổng
thuật một cách cơ bản về tính lịch sử, quá trình du nhập và đặc trưng về cấu tạo của từ
Hán Việt. Đặc biệt, từ góc độ giáo học pháp, ông đã nêu bật những vấn đề mang tính định
hướng về phương pháp dạy học từ ngữ cho GV và HS. Từ cảm nhận trực quan đến phân
tích lý tính và khái quát đặc trưng phong cách của từ ngữ Hán Việt, đó là con đường tìm
hiểu, giải thích về từ Hán Việt trong hệ thống ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ giao tiếp.
Cũng theo hướng tiếp cận đó, năm 2000, Lê Xuân Thại cũng công bố Từ Hán Việt và
việc giảng dạy từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn Trung học cơ sở [38], tuy nhiên chuyên
luận này cũng chỉ dừng lại ở phạm vi SGK Ngữ văn bậc THCS. Do đó, nó chưa bao quát
hết những đặc trưng mang tính phức tạp của hệ thống văn bản văn học trung đại ở bậc
THPT.
Trực tiếp bàn đến vấn đề dạy và học từ Hán Việt trong SGK (SGK) Văn học (10, 11, 12 Chỉnh lý hợp nhất năm 2000) là công trình của Lê Anh Tuấn, Từ Hán Việt trong SGK
Văn học hệ phổ thông (2002) [39]
. Bên cạnh đó, một số tài liệu như Sổ tay từ ngữ Hán Việt Ngữ văn Trung học cơ sở
(2007) [41] của Trần Đại Vinh, Sổ tay từ ngữ Hán Việt dùng trong nhà trường (2008)
[31] do Nguyễn Trọng Khánh chủ biên, Giải nghĩa và mở rộng từ ngữ Hán Việt (dành
cho học sinh các lớp 6-7-8-9) [41] do Lê Anh Xuân chủ biên cũng đã đặt vấn đề khảo sát
và nghiên cứu cụ thể về hệ thống từ ngữ Hán Việt trong SGK Ngữ văn mới nhưng cũng
chỉ dừng lại ở bậc THCS. Những công trình này là những bộ sưu tập, giải thích về từ Hán
Việt, bằng thao tác từ điển học, thống kê học, Lê Anh Tuấn, Trần Đại Vinh, Nguyễn
Trọng Khánh, Lê Anh Xuân... đã cung cấp một khối lượng lớn từ ngữ Hán Việt trong
SGK đã được giải thích, tạo tiền đề cho quá trình tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học
trung đại trong nhà trường.
Từ năm học 2003 - 2004 đến nay, theo chủ trương cải cách SGK do Bộ GD & ĐT và do
Phan Trọng Luận (Bộ cơ bản), Trần Đình Sử (Bộ nâng cao) chủ trì, SGK Ngữ văn 10, 11,
12 đã được cải biên và cập nhập khá nhiều vấn đề mới mẻ. Từ đó, một yêu cầu đặt ra là,
dạy học từ ngữ Hán Việt trong SGK Ngữ văn bậc THPT cần được chú ý ở những phương

diện nào, tiếp cận và lý giải ở những góc độ nào... Để giải quyết những vấn đề trên, Bộ
GD & ĐT giao cho khoa Sư phạm, khoa Ngữ văn các trường Đại học trên toàn quốc biên
soạn chuyên đề Từ Hán Việt với việc giảng dạy văn học và tiếng Việt ở trường phổ
thông và bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III (năm 2005) cho GV Ngữ văn các trường
THPT. Kết quả của đợt chỉ đạo này, năm 2006, các chuyên đề bồi dưỡng Từ Hán Việt


với việc giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT của Đặng Đức Siêu, Nguyễn Ngọc San
(Trường ĐHSP Hà Nội), Nguyễn Văn Khang (Viện Ngôn ngữ học), Trần Đại Vinh (Đại
học Huế), Nguyễn Ngọc Quang, Huỳnh Chương Hưng (Trường Đại học Quy Nhơn) và
Chu Trọng Thu (Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh),... đã ra đời và phục vụ kịp thời cho
quá trình cập nhận kiến thức về từ Hán Việt đối với GV, HS bậc phổ thông.
Nhìn chung, dạy và học từ ngữ Hán Việt ở trường phổ thông là vấn đề mang tính
cấp thiết trong giáo dục của nhà trường hiện nay. Tuy vậy, do những điều kiện khách
quan và chủ quan, vấn đề này chưa được triển khai một cách triệt để, do đó đã mang lại
những kết quả không như mong muốn. Từ những thành tựu và hạn chế trên, đề tài khoá
luận của chúng tôi bước đầu tìm hiểu và khái quát về từ Hán Việt trong một phạm vi nhỏ
(SGK Ngữ văn 10, Ban cơ bản) để từ đó khái quát những vấn đề mang tính chuyên sâu và
phương pháp, từng bước giúp cho bản thân - một GV tương lai và quý thầy cô giáo tháo
gỡ những khó khăn bất cập trong quá trình giảng dạy từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn
mới.
3. Đối tượng và phạm vi khảo sát, nghiên cứu
3.1. Trong nội dung nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chọn đối tượng để khảo sát,
phân tích và chú thích hệ thống từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn bậc Trung học phổ
thông. Ngoài ra, để tạo tính thống nhất trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn mở rộng
khảo sát, tìm hiểu, chú thích thêm các cụm từ Hán Việt như Ngữ điển cố, tên tác phẩm,
thành ngữ Hán Việt...
3.2. Phạm vi khảo sát: Do điều kiện hạn chế về thời gian, phạm vi khảo sát của chúng tôi
chỉ tập trung vào hệ thống từ ngữ Hán Việt xuất hiện trong các bài giảng về văn học cổ
điển Việt Nam trong SGK Ngữ văn 10 (Ban cơ bản), bao gồm tập 1 và 2 của Nxb Giáo

dục xuất bản năm 2009 [16].
3.3. Văn bản được chúng tôi lựa chọn để tiến hành so sánh đối chiếu là bộ SGK Văn học
10 của Nxb Giáo dục năm 1999. Kết quả thống kê chủ yếu dựa vào tài liệu [38] của TS.
Lê Anh Tuấn (ĐHSP Hà Nội).
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện quá trình tìm hiểu đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp tiếp cận cơ
bản sau:
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại: Thông qua văn bản SGK Ngữ văn 10 (Ban cơ
bản), chúng tôi sẽ thống kê, phân loại các từ ngữ Hán Việt như hệ thống từ đơn âm, song
âm, tên tác giả, tác phẩm, thuật ngữ khoa học theo từng đơn vị bài học.


4.2. Phương pháp đối chiếu, so sánh: Để có được cái nhìn trọn vẹn về hệ thống từ Hán
Việt trong SGK Ngữ văn 10 (Ban cơ bản), chúng tôi từng bước đối chiếu với từ ngữ Hán
Việt trong SGK Văn học 10 đã được Bộ GD & ĐT sử dụng trước đây [17].
4.3. Phương pháp phân tích và khái quát hoá: Trên cơ sở số lượng từ ngữ Hán Việt đã
thống kê được, chúng tôi từng bước phân tích nội hàm và khả năng sử dụng của nó trong
bài học để từ đó xây dựng một hệ thống các phương pháp giảng dạy và học tập.
4.4. Phương pháp chú thích: Để tạo điều kiện cho việc tra cứu từ ngữ, từ kết quả thống
kê, chúng tôi phân loại và chú thích nội dung cụ thể.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài của chúng tôi được
chia thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Từ Hán Việt và vấn đề chú giải từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn Trung
học Phổ thông
Chương 2.

Khảo sát, đánh giá từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn 10

Chương 3. Định hướng cho HS tiếp cận, tích luỹ và sử dụng từ Hán Việt trong SGK

Ngữ văn 10
CHƯƠNG 1.
TỪ HÁN VIỆT VÀ VẤN ĐỀ CHÚ GIẢI TỪ HÁN VIỆT
TRONG SGK NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. 1. Từ Hán Việt - Quá trình hình thành và khái niệm
1.1.1. Quá trình hình thành từ Hán Việt
1.1.1.1. Những vấn đề chung về từ Hán Việt trong ngôn ngữ tiếng Việt
Lịch sử Việt Nam đã trải qua bốn ngàn năm xây dựng và phát triển, trong đó, đất nước ta
đã có hơn một ngàn năm chịu ách đô hộ và cai trị của phong kiến phương Bắc. Dưới sự
tác động đó, dân tộc Việt Nam ít nhiều chịu sự đồng hóa của người Hán 漢 trên nhiều
phương diện và lĩnh vực khác nhau của đời sống: chữ viết, văn hóa, suy nghĩ, lối sống,
cách ăn ở, các phong tục tập quán… Mặc dù trong quá trình chịu sự tác động và đồng hóa
đó, dân tộc Việt đã có ý thức rất cao trong việc giữ gìn bản sắc, phong tục tập quán, lời ăn
tiếng nói riêng cho dân tộc mình nhưng vẫn không thể tránh khỏi những tác động, ảnh


hưởng sâu sắc của nền văn hóa Trung Hoa mà trước hết là ở phương diện văn hóa, tư
tưởng, sau đó là ở phương diện ngôn ngữ, chữ viết.
Về phương diện văn hóa, tư tưởng, giống như một số quốc gia khác ở khu vực châu
Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên… văn hóa Việt Nam cũng chịu ảnh
hưởng rất lớn từ Trung Hoa. Có thể nói, văn hóa Trung Quốc với nhiều đặc điểm đặc sắc,
đa dạng đã chi phối một phần lớn nền văn hóa Việt Nam từ cách sống, cách nghĩ của
những người dân thường cho đến bậc vua chúa Việt Nam ngày xưa và cho đến tận ngày
nay.
Về phương diện ngôn ngữ và chữ viết, cũng không nằm ngoài quy luật tác động cơ bản
đó. Văn hóa Việt Nam trong quá trình Hán hoá và chống Hán hoá, một số lượng lớn các
từ Hán đã được đưa vào ngôn ngữ nước ta và trở thành một phần của ngôn ngữ Việt. Chữ
Hán xâm nhập vào tiếng Việt đã hình thành nên hệ thống gọi là hệ thống từ Hán-Việt
bằng cách đọc những chữ Hán theo âm hiện có của tiếng Việt. Đó là sự tiếp biến. Ngoài
ra còn có các yếu tố Hán Việt cũng đã đóng góp làm phong phú cho ngôn ngữ giao tiếp

của người Việt, các từ Hán Việt vẫn chiếm một số lượng rất lớn trong chữ viết và tiếng
nói của người Việt ngày nay. Điều đó đã minh chứng cho sự ảnh hưởng rất sâu sắc và bền
chặt của nền văn hóa, ngôn ngữ Hán đến văn hóa và ngôn ngữ nước ta. Sự ảnh hưởng đó
kéo dài cho đến ngày nay.
1.1.1.2. Quá trình hình thành từ Hán Việt
Khảo sát các loại ngôn ngữ thông dụng trên thế giới như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng
Pháp... người ta vẫn có thể thấy không ít những từ ngữ vay mượn hoặc lấy nguồn gốc từ
các ngôn ngữ khác. Tiếng Việt của chúng ta cũng thế. Điều ta có thể dễ thấy nhất ở đây là
đường phân giới giữa hai lớp từ ngữ: lớp từ bản ngữ (còn gọi là lớp từ thuần Việt) và lớp
từ có nguồn gốc nước ngoài (còn gọi là lớp từ ngoại lai, trong đó có từ Hán Việt) [13;
10].
Dưới sự tác động mạnh mẽ của văn hóa Trung Hoa, tiếng Việt cũng có điều kiện tiếp xúc
với tiếng Hán từ lâu đời thông qua nhiều con đường và cách thức khác nhau. Khảo sát
nguồn gốc, chúng ta có thể chia quá trình du nhập của tiếng Hán và hệ thống từ tiếng Việt
thông qua hai giai đoạn chính: một là giai đoạn từ đầu Công nguyên đến đầu đời Đường
(đầu thế kỉ VIII); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế kỉ VIII – thế kỉ X) trở về sau. Hai lần
tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn gốc từ Hán mà như trước nay
vẫn quen gọi là từ cổ Hán Việt và từ Hán Việt [14; 10].
- Các từ cổ Hán Việt là những từ có nguồn gốc từ tiếng Hán được du nhập vào tiếng Việt
ngay từ đầu khi chữ Hán xâm nhập vào nước ta (đầu thế kỉ VIII), còn mang nhiều nét âm
vận của tiếng Trung Quốc trước đời Đường. Do có lợi thế đi vào tiếng Việt ngay từ đầu,
các từ này đã đồng hóa trong ngôn ngữ Việt, trở thành một phần “không thể thiếu” của hệ
thống từ tiếng Việt. Mặc dù có nguồn gốc Hán cổ nhưng các từ loại này đã trở thành từ


của tiếng Việt và người Việt Nam ai cũng có thể hiểu được nghĩa và sử dụng những từ
này như các từ thuần Việt khác, ví dụ như: chè, ngà, chén, chém, chìm, buồng, buồn,
buồm, mùi, mùa...
Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ từ Hán Việt du nhập vào Việt Nam tương đối sớm
nhưng lại bị ảnh hưởng của tiếng bản địa, khiến cho âm đọc của chúng bị thay đổi để phù

hợp với lối phát âm của người Việt. Nhóm từ này gọi là từ Hán Việt bị Việt hóa như: cận
漢 thành gần, sàng 漢 thành giường, can 漢 thành gan...
- Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào bộ phận tiếng Việt của chúng ta vào giai
đoạn đời Đường 漢 漢 thế kỉ VIII – thế kỉ X. Những từ này đã được người Việt đọc thành
âm chuẩn của chúng theo hệ thống ngữ âm của mình. Một bộ phận từ ngữ vẫn được gọi
là từ Hán Việt vì chúng bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc Hán mà là do người
Hán đã vay mượn từ trong một số ngôn ngữ khác, tiếp theo lại được người Việt phiên
thiết và đọc chúng theo âm Hán Việt như những từ khác. Ví dụ:
+ Từ có nguồn gốc Nhật Bản như: trường hợp 漢漢, nghĩa vụ 漢漢, kinh tế 漢漢, thủ tục 漢漢,
biện chứng 漢漢, xã hội 漢漢, phát triển 漢漢, nghiên cứu 漢漢, nông nghiệp 漢漢 …
+ Từ xuất phát từ tiếng Phạn (Sanskrit) như: Phật đà 漢漢, Niết bàn 漢漢, Di Lặc 漢漢, Thích
Ca Mâu Ni 漢漢漢漢…
+ Từ có nguồn gốc từ ngôn ngữ châu Âu như: Câu lạc bộ 漢漢漢, Anh Cát Lợi 漢漢漢, Mạc
Tư Khoa 漢漢漢, Nã Phá Luân 漢漢漢, Gia Nã Đại 漢漢漢…
Một số từ mang nguồn gốc Hán nhưng lại du nhập theo con đường khẩu ngữ của những
người nói phương ngữ tiếng Hán, nhóm này có số lượng không nhiều cũng không ảnh
hưởng đáng kể đến tiếng Việt, chẳng hạn như: xì dầu, mì chính, vằn thắn, xá xíu, số
dzách, sủi cảo…
Khi chữ Nôm ra đời, nó được sử dụng song song với chữ Hán, cho đến thế kỉ XVI, nó bị
thay thế dần bằng chữ Quốc ngữ. Và cho đến đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ chính thức
thay thế chữ Hán Nôm, và chữ Hán Nôm đã không còn được giảng dạy và học trong nhà
trường gần một thế kỷ. Vì vậy, chúng ta thấy rằng nếu sử dụng chữ Quốc ngữ và biết
thêm chữ Hán, chữ Nôm, thì chúng ta có thể hiểu rõ và dùng đúng tiếng Việt hơn. Đó là
nguyên nhân vì sao chúng ta cần duy trì việc dạy và học chữ Hán Nôm trong trường với
một số lượng nhất định những chữ Hán Nôm thông dụng (giống trường hợp của hai ngôn
ngữ Triều Tiên và Nhật Bản) khi đã chính thức dùng chữ Quốc ngữ.
1.1.2. Khái niệm từ Hán Việt và quá trình Việt hoá từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt
1.1.2.1. Khái niệm từ Hán Việt



Về thuật ngữ từ Hán Việt, từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau. Có thể tóm lược thành mấy nhóm quan điểm như sau:
Năm 1972, trong công trình Văn phạm Việt Nam (Giản dị và thực dụng), Bùi Đức Tịnh
đã nêu một cách hiểu đơn giản về từ Hán Việt như sau: “Có thể định nghĩa một cách giản
dị rằng tiếng Hán Việt là những tiếng Hán phát âm theo lối Việt. Ban đầu nó là những
chữ Hán mà khi học trong sách Trung Hoa, các nhà tri thức nước ta đọc trại đi theo
giọng Việt...” [43; 10]
Năm 1979, trong chuyên luận nối tiếng về tiếng Việt lịch sử, Nguồn gốc và quá trình hình
thành cách đọc Hán Việt, GS. TS. Nguyễn Tài Cẩn nêu lên tầm quan trọng và những điều
kiện lịch sử, văn hoá cho quá trình hình tên gọi, cách đọc từ Hán Việt. Tuy vậy, qua công
trình của mình, GS Nguyễn Tài Cẩn cũng chưa đưa ra cách định nghĩa cụ thể về từ Hán
Việt.
Năm 1998, Nguyễn Như Ý trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học đã cho rằng:
“Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, được nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt,
chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi
là từ Việt gốc Hán.” [43; 369]
Nhà Từ vựng học Nguyễn Thiện Giáp trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt (bản
in năm 1998) cũng khẳng định: “Các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt, gọi tắt là từ
Hán Việt” [18; 241 –242]
Xuất phát từ quan điểm lịch sử, Lê Đình Khẩn trong chuyên luận Từ vựng gốc Hán trong
tiếng Việt cũng thống nhất với quan điểm của Nguyễn Như Ý, ông khẳng định: “Từ Hán
Việt là lớp từ Hán mà tiếng Việt vay mượn từ đời Đường và dựa trên cơ sở âm đọc ở
Trường An là âm đọc chính thời bấy giờ…” [28; 60]
Nhìn chung, những định nghĩa đã nêu trên có những điểm giống và khác nhau. Như
chúng ta đã biết, tiếng Hán từ lúc ban đầu cho đến giai đoạn hiện nay về mặt ngữ âm đã
trải qua nhiều lần thay đổi.
Để có được cái nhìn tường tận về hệ thống âm đọc của từ Hán Việt, năm 2003, Nguyễn
Ngọc San trong Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm đã phân định như sau :
+ Đọc âm thượng cổ: là âm đọc chữ Hán từ thời Tiên Tần 漢漢, Lưỡng Hán 漢漢 cho
đến khoảng sau các đời Ngụy Tấn 漢漢.

+ Đọc âm Trung cổ: là âm đọc chữ Hán khoảng đời Đường 漢 cho đến trước thời
Trung nguyên âm vận 漢漢漢漢.


+ Đọc âm cận hiện đại: là cách đọc chữ Hán dựa vào Trung nguyên âm vận
khoảng đời Minh 漢 cho đến cách đọc theo âm Bắc Kinh 漢漢 ngày nay [34; 25].
Theo các soạn giả SGK Ngữ văn bậc THPT, nhất là quan điểm của Nguyễn Văn
Khang, “Từ Hán Việt là từ mượn của tiếng Hán, được đọc bằng cách đọc Hán Việt, viết
bằng chữ quốc ngữ. Cách đọc Hán Việt là hệ thống cách đọc của người Việt đối với chữ
Hán, được xây dựng trên cơ sở ngữ âm tiếng Hán thời trung đại (khoảng thế kỷ thứ
VII)...” và “ nhờ có hệ thống cách đọc Hán Việt mà trong tiếng Việt có một khối lượng
khá lớn các từ Hán Việt, ví dụ như: đông, tây, nam, bắc, động, tĩnh, hoà bình, kiến thiết,
bình minh...” [30; 50]
Tùy theo từng giai đoạn, các âm này khi du nhập vào nước ta đã chịu sự chi phối về
quy luật ngữ âm tiếng Việt và đã trở thành âm của người Việt. Do đó, theo quan điểm của
nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Quang và Huỳnh Chương Hưng trong chuyên đề Từ Hán
Việt với việc giảng dạy tiếng Việt và Văn học ở trường phổ thông trung học (Tài liệu
BDTX cho GV THPT chu kỳ III) đã nhận định rằng: “từ Hán Việt là lớp từ có gốc từ
tiếng Hán, về cơ bản được đọc theo âm thời Trung cổ chủ yếu là âm đời Đường. Riêng
âm đọc thượng cổ, có người gọi là âm cổ Hán Việt” [37; 12]
Về khái niệm ngữ Hán Việt, với tư cách là các tín hiệu thẩm mỹ trong văn bản văn học
Nôm, ngữ Hán Việt được chúng tôi xem xét dưới hình thức là các cụm từ (có nguồn gốc
Hán Việt trong cấu trúc) và có tính ổn định về mặt ý nghĩa, có tần số lặp lại khá cao và
trở nên quen thuộc với số đông trí thức và người sáng tác văn chương thời trung đại. Đó
là hệ thống các cụm từ là các thành ngữ, tục ngữ Hán Việt, các từ ngữ có nguồn gốc từ
điển cố Hán học, các từ ngữ có nguồn gốc từ thơ ca Trung Hoa.
Với tính chất là tín hiệu ngôn ngữ cơ bản trong các tác phẩm văn học cổ điển, các đơn vị
ngôn ngữ mang phong cách khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, các khái niệm Hán Việt, nhân
danh, thư danh, địa danh Hán Việt... được chúng tôi xem xét như những đơn vị ngôn ngữ
được lựa chọn để chú thích và phân tích.

1.1.2.2. Quá trình Việt hoá từ Hán Việt trong tiếng Việt
Việc du nhập và phổ biến từ ngữ Hán vào nước ta đã trải qua một thời gian dài, có tính
liên tục. Lúc đầu mang tính tự phát, về sau mang tính tự giác. Do tiếng Việt và tiếng Hán
giống nhau về đặc điểm loại hình (cả hai đều là ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính) nên việc
tiếp nhận tiếng Hán ở ta có phần thuận lợi. Chịu sự tác động mạnh mẽ của lớp từ Hán vào
ngôn ngữ của dân tộc, từ Hán Việt trong tiếng Việt có những cách biểu hiện riêng biệt,
thay đổi so với gốc Hán; đó là quá trình Việt hóa tiếng Hán về mặt âm đọc, ý nghĩa và
phạm vi sử dụng.
Tuy vậy, ông cha ta đã tiếp nhận tiếng Hán trên tinh thần chủ động sáng tạo, phù hợp với
quy luật ngữ âm của tiếng Việt đồng thời cũng phù hợp với phong tục tập quán của người


Việt. Theo tài liệu khảo sát của các soạn giả Nguyễn Ngọc Quang, Huỳnh Chương Hưng
[37], chúng ta có thể xem xét ở các phương diện sau:
- Đảo vị trí:
Hán: 漢 漢 Ngữ ngôn

Việt: Ngôn ngữ

漢 漢 Thích phóng

Phóng thích

漢 漢 Cư dân

Dân cư

- Đảo yếu tố :
Hán: 漢 漢 漢 漢 An phận thủ kỷ Việt: An phận thủ thường
漢 漢 漢 漢 Cửu tử nhất sinh


Thập tử nhất sinh

漢 漢 漢 漢 Nhất lộ bình an

Thượng lộ bình an

- Thay đổi ý nghĩa:
漢 漢 Hách dịch : Hán: đẹp rực rỡ

Việt: Cậy quyền thế ra oai

漢 漢 Bồi hồi

Việt: Bồn chồn

: Hán: đi đi lại lại

漢 漢 Đinh ninh: Hán: Dặn dò

Việt: Yên trí, tin rằng

- Chuyển đổi màu sắc tu từ :
漢 漢 Dã tâm

: Hán: Lòng ham muốn Việt: Xấu, lòng dạ không tốt

漢 漢 Khốn nạn: Hán: Khó khăn
漢 Tống


: Hán: Tiễn, đưa

Việt: Xấu, lòng dạ xấu xa
Việt: Xấu, đuổi đi

- Rút gọn: thừa trần thành trần (trong trần nhà), lạc hoa sinh thành lạc (trong củ lạc, còn
gọi là đậu phộng)...
- Đặc biệt là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có
trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ sĩ diện, phi công (dùng 2 yếu tố
Hán-Việt) hay bao gồm, sống động (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt).
Số lượng từ Việt gốc Hán chiếm một tỉ lệ lớn trong tiếng Việt (khoảng 70%), cho nên khi
muốn tìm hiểu sâu sắc các từ này, chúng ta cần tìm hiểu, phân tích các từ nguyên, từ


nghĩa của từ ngữ Hán. Một khi đã nắm và hiểu rõ được các từ Hán, chúng ta sẽ hiểu một
cách dễ dàng các từ tiếng Việt có mang gốc tiếng Hán [29; 10].
Theo các nhà nghiên cứu, tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt rất lớn nhưng đại đa
số những từ đó đều đã được Việt hóa. Do vậy, dù vay mượn tiếng Hán nhưng tiếng Việt
vẫn giữ được bản sắc riêng của mình, trong khi tận dụng một cách tối đa những thành tựu
ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình. Sáng tạo ra từ mới mà chỉ có trong kho từ
vựng tiếng Việt, có thể liệt kê thêm như: Sản xuất, sĩ diện, luận án…..
Nhìn chung, từ Hán Việt và những yếu tố phát sinh sau quá trình hình thành từ Hán Việt
có ảnh hưởng vô cùng to lớn và sâu sắc đến ngôn ngữ tiếng Việt. Trong ngôn ngữ giao
tiếp hằng ngày của người Việt Nam hiện đại, số lượng từ ngữ tiếng Hán hay mang nguồn
gốc Hán chiếm một tỉ lệ vô cùng lớn. Mặc dù chữ Hán, chữ Nôm đã được thay thế bằng
chữ Quốc ngữ và không còn được đưa vào giảng dạy một cách chính thống trong các
trường học phổ thông nhưng nó vẫn được sử dụng rộng rãi một cách vô thức. Mặc dù có
thể nhiều người không hiểu nghĩa chính xác nhưng vẫn sử dụng từ Hán Việt trong lời ăn
tiếng nói hằng ngày, điều đó chứng minh sự tồn tại lâu bền và không thể thay thế của các
từ Hán Việt trong kho từ vựng Việt ngữ.

1.2. SGK Ngữ văn THPT - nhìn từ góc độ sử dụng từ Hán Việt
1.2.1. Cải cách SGK Văn học - nhìn từ góc độ sử dụng từ Hán Việt
1.2.1.1. Hệ thống SGK Văn học các cấp trong Trường phổ thông nói riêng và SGK phổ
thông nói chung đã được cải cách những bước cơ bản, đã đạt được những thành tựu khả
quan. Từ năm học 1981- 1982, chúng ta chuyển sang hệ phổ thông 12 năm, thay vì
chương trình 10 năm cũ đã không phù hợp với đòi hỏi của tình hình thực tế. Trong những
năm gần đây, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước lại đặt ra cho ngành
giáo dục những mục tiêu cao hơn trong việc biên soạn hệ thống SGK.
SGK môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là bộ phận hết sức quan trọng, chi phối
mạnh mẽ đến quá trình dạy và học trong nhà trường, rèn luyện những kỹ năng cần thiết
trong tồn bộ hướng tiếp nhận vốn tri thức phổ thông; là chìa khoá để bước vào các cấp
học cao hơn, cũng như lập nghiệp sau này. Chính vì vậy, để có được bộ SGK Ngữ văn
mang tính hệ thống, thừa tiếp theo tuyến dọc, có tính chi phối với các môn học khác theo
tuyến ngang, đòi hỏi các soạn giả phải có tầm phổ quát cao, liên đới chặt chẽ, logic từ lớp
bé lên lớp lớn, khả năng tiếp cận theo biểu đồ đi lên một cách hợp lý, chuẩn xác và khoa
học.
1.2.1.2. Trong quá trình xác định mục đích và yêu cầu tuyển chọn hệ thống SGK bộ môn
Ngữ Văn ở bậc THPT, các soạn giả đã rất chú trọng đến tính chất chuyển tiếp, nội dung,
nghệ thuật, ngôn ngữ. Trong đó, bộ phận từ HánViệt có ý nghĩa và giá trị không nhỏ.


Như đã nói, hệ thống từ Hán Việt đã chiếm tỷ lệ khá lớn trong vốn từ tiếng Việt. Hơn
nữa, chúng có vai trị hết sức trọng yếu trong hoạt động của tiếng Việt trên mọi lĩnh vực
đời sống, xã hội. Khi tìm hiểu hệ thống từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn phổ thông, nhà
biên soạn SGK đã không đưa vào tiêu chí khảo sát những trường hợp sau:
Thứ nhất: Lớp từ đã hoà nhập vào tiếng Việt lần tiếp xúc trước thế kỷ thứ VIII, thứ IX
(thường gọi là từ cổ Hán Việt), như: chè (trà), tìm (tầm), mùa (vụ), mùi (vị) v.v...
Thứ hai: Do sự chi phối của ngữ âm tiếng Việt, một bộ phận từ Hán Việt theo xu thế Việt
hoá về mặt ngữ âm; từ đó hình thành các từ Hán Việt Việt hoá. Số lượng từ này mờ hẳn
nguồn gốc Hán Việt của chúng và hồ trộn vào tiếng Việt. Do đó, trong thực tế không mấy

ai coi những từ này có nguồn gốc Hán, dạng như: gan, gương, ghi...
Thứ ba: Lớp từ có yếu tố Hán Việt được hình thành trong kho từ vựng tiếng Việt, thường
kết hợp với một hoặc hai yếu tố thuần Việt, ví dụ như: học trị, nhà giáo, cây cối, chung
cuộc...
Ngoài ba trường hợp trên, theo quan điểm của chúng tôi, lớp từ Hán Việt trong lần tiếp
xúc thứ hai (thế kỷ VIII, IX) chưa được Việt hoá cao và một số từ thuộc phương ngữ
tiếng Hán cũng thâm nhập vào tiếng Việt, song đọc khác với âm Hán Việt, chẳng hạn như
mì chính, âm Hán Việt là vị tinh. Tựu trung tất cả các từ dù mượn từ những nguồn gốc
khác nhau qua con đường Hán hoá và đọc theo âm Hán Việt đều được xác định là đối
tượng khảo sát.
1.2.2. Số lượng từ Hán Việt trong SGK Văn học phổ thông
Thực trạng từ Hán Việt trong hệ thống SGK văn phổ thông đặt ra những vấn đề cần phải
quan tâm đúng mức mà không thể coi nhẹ. Theo khảo sát và thống kê của Lê Anh Tuấn,
Trần Đại Vinh, Nguyễn Trọng Khánh... số lượng từ Hán Việt xuất hiện trong sách Ngữ
văn ở các lớp thuộc THCS và THPT khá đồng đều. Tỷ lệ từ HánViệt ở mức cao được sử
dụng trong một lớp phổ thông trên dưới hai ngàn lần. Ngay trong một lớp, cùng một tập
sách, chúng cũng được sử dụng dàn đều trong các bài. Một điều dễ nhận thấy là số lượng
từ Hán Việt ở các bài văn xuôi nhiều hơn so với văn vần; trong các tác phẩm văn học
nước ngoài (qua dịch thuật) nhiều hơn trong các tác phẩm văn học Việt Nam. Đặc biệt có
những bài tới 300 từ Hán Việt xuất hiện 426 lần. Bài Dế mèn phiêu lưu ký (Ngữ văn 6,
tập 1) có 372 từ Hán Việt, xuất hiện 489 lần [42; 43].
Trong thực tế, số lượng xấp xỉ 5.000 từ Hán Việt trong hệ thống SGK bộ môn Ngữ văn
phổ thông [39; 19] quả là không nhỏ. Từ thực tế đó, đặt cho các soạn giả có hướng và
giải pháp cụ thể cho mỗi bài, mỗi tập và cả hệ thống.


Qua khảo sát của tác giả Lê Xuân Thại (bậc THCS) và Đặng Đức Siêu (bậc THPT), số
lượng từ dùng trong các sách rất đa dạng và phong phú mà chủ yếu là lớp từ tích cực.
Những từ này thường rơi vào các trường hợp sau:
a. Các từ đồng âm, ví dụ: chư quân (các ông, các ngài); chư quân (quân đội chư hầu);

thiên tư (lệch theo tình cảm riêng) (sách Văn học Lớp 7) và thiên tư (tính chất sinh ra vốn
có) (sách Văn học Lớp 11)...
b. Các từ liên hệ đến điển tích, điển cố, phong tục xưa, những từ ít xuất hiện, như: thu
không, tang hải, can qua, thảm đạm, lữ thứ...
c. Các câu cách ngôn, thành ngữ Hán Việt, như: thành hạ yêu minh, phu quí phụ vinh,
quần tam tụ ngũ, nhất nhật tại tù, thâm sơn cùng cốc...
d. Mục tiểu dẫn, các soạn giả dùng không ít từ Hán Việt, gây trở ngại lớn đến sự nhận
thức của HS, vừa khó hiểu, xin nêu một số thí dụ: vong quốc, toả chiết, tài văn, ai hồi,
nhũng lạm, sinh thú, hợp tố, phiêu kỵ, đàm tâm, chủ lưu v.v.
1.3. Vấn đề chú thích và dạy học từ Hán Việt trong nhà trường
1.3.1. Tình hình chú thích từ Hán Việt trong SGK Văn học
1.3.1.1. Như đã trình bày, tiếng Việt và tiếng Hán như đã nói đều là những ngôn ngữ có
lịch sử lâu đời, sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ này đều bắt đầu khi phong kiến nhà Hán
của Trung Quốc bắt đầu xâm chiếm nước ta. Trong quá trình đồng hoá và chống đồng
hoá của dân tộc Việt chúng ta, tiếng Việt đã tiếp nhận một khối lượng từ ngữ rất lớn để bổ
sung vào kho từ vựng Việt ngữ. Hiện tượng tiếp nhận này diễn ra qua nhiều con đường
khác nhau, chủ yếu là bằng con đường khẩu ngữ, tiếp xúc trực tiếp với người Hán ở giai
đoạn đầu, đến đời Đường 漢 đến Minh Thanh 漢漢 và các giai đoạn sau, tiếng Việt đã tiếp
nhận các từ ngữ Hán một cách có hệ thống qua con đường truyền thống bằng sách vở. Từ
hiện tượng lịch sử trên, trong tiếng Việt đã hình thành nên một cách đọc các từ ngữ gốc
Hán theo âm của người Việt và mang một nội hàm văn hoá khá phức tạp. Do đó, vấn đề
lựa chọn phương thức chú giải phù hợp với đối tượng HS bậc THPT là một vấn đề khá
nan giải đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ.
1.3.1.2. Qua khảo sát các công trình nghiên cứu của Phan Ngọc [33], Đặng Đức Siêu
[35], Lê Xuân Thại [38], Lê Anh Tuấn [39], Trần Đại Vinh [41], chúng tôi nhận thấy, các
soạn giả của bộ SGK Văn học bậc phổ thông đã chọn ra được một hệ thống khá phong
phú từ Hán Việt cần thiết để chú giải. Nguyên văn chú giải trong các phần chú thích, tiểu
dẫn của bài học đảm bảo yêu cầu ngắn gọn và dễ hiểu, thể hiện tính sư phạm, chuẩn mực
và phổ biến trong ý đồ truyền đạt nội dung giảng dạy.



Tuy nhiên, nhìn từ góc độ sử dụng từ và tu từ phong cách, bộ phận từ Hán Việt vẫn đặt ra
một trở ngại khá lớn đối với HS các cấp phổ thông trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Về
mặt hình thức, hầu như các bài khoá đều có phần chú giải, trong đó chủ yếu tập trung chú
giải từ Hán Việt. Song, so với yêu cầu thực tế cũng cần bàn thêm tính hợp lý của vấn đề
lựa chọn phương pháp và nội dung chú giải. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong nội
dung và phương thức chú giải các từ ngữ Hán Việt trong SGK và SGV Văn học vẫn còn
khá nhiều từ khó bị bỏ sót, không được chú tâm đến. Cụ thể như sau:
a. Những từ khó mà các soạn giả đã bỏ qua như sau:
- Lớp 10: lâu đài (Bài 9), tài chính (Bài 9), bổ nhiệm (Bài 9), Sĩ quan (Bài 14), phù sa
(Bài 16), vĩ tuyến (Bài 38), tập kết (Bài 55)...
- Lớp 10: bi kịch (tr.37), bác ái (tr.67), bản thổ (tr.55), chỉ nhân (tr.96), chí thiện (tr.121),
dạ đài (tr.155)...
- Lớp 11: bút nghiên (tr.84), can qua (tr.38), can trường (tr.184), cổ động (tr.185), chước
(tr.245), dương gian (tr.270), ý tưởng (tr.270)...[42; 88]
b. Chú giải thừa, thiếu hoặc tính chuẩn xác chưa cao.
- Chưa chính xác, vídụ: từ Khách sạn (b.7) (lớp 4): chú giải là khách sạn Luých, đáng ra
phải trả lời là Khách sạn là gì? Từ Bàn hoàn (lớp 4): chú giải là nhiều lo lắng, không yên
lặng, băn khoăn không nỡ dứt ra. Hai ví dụ trên cho thấy lời chú giải không có sức thuyết
phục, không chuẩn xác.
- Hiện tượng chú giải trùng lặp một từ có cùng văn cảnh. Ở đây xuất hiện tình trạng tính
hệ thống, chuyển tiếp chưa cao, ví dụ: Từ tuyệt vọng: hết hẳn hi vọng (lớp 6), hết mong
ước, hết hẳn hy vọng (lớp 6, tr.66), hết hẳn hi vọng, còn mong mỏi gì được nữa (Lớp 6,
tr.129). Từ tung hoành: 3 lần (lớp 5 và 7); trầm ngâm, dũng sĩ, hoa văn, tập quán, bồ
liễu... (đều chú giải 2 lần).
- Khi chú giải, tách các từ trong câu thơ, văn, nhưng bỏ sót những từ quan trọng: bài 19
(lớp 9) có câu: “Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh 漢漢漢漢漢漢漢”, bỏ qua từ lưu đắc không
chú giải. Đáng ra sau khi chú giải từng từ, phải dịch thơ sát nghĩa cho HS dễ hiểu. Câu
“làm quan bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn” (lớp 8), “hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn câu”
(lớp 9). Trong 2 ví dụ trên nếu không chú giải xỉ, thể nữ là gì, HS làm sao có thể nắm bắt

được nội dung hai câu trên.
1.3.2. Những nguyên tắc chú giải từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn
Từ thực tế chú giải trong hệ thống SGK Văn học phổ thông, thiết nghĩ có thể định ra
những nguyên tắc sau đây:


a. Chọn đúng, đủ và cần những từ xuất hiện trong các bài.
b. Chuẩn xác, ngắn gọn, dễ hiểu và phù hợp với tư duy lứa tuổi.
c. Nghĩa gốc, nghĩa phái sinh, nghĩa cộng tác và nghĩa văn cảnh.
d. Có tính hệ thống, chuyển tiếp và khoa học từ cấp thấp lên cao.
Bên cạnh các nguyên tắc đã nêu trên, theo chúng tôi chúng ta cần phải chú trọng đến kỹ
năng phân tích và hướng dẫn phân tích từ ngữ Hán Việt từ kinh nghiệm tự thân của HS.
Trong quá trình giao tiếp khẩu ngữ và tiếp xúc với hệ thống tác phẩm văn học ở nhà
trường phổ thông, HS tự thân vận động phát triển kỹ năng giải thích từ ngữ riêng của
mình. Đây là yêu cầu cơ bản giúp cho HS có thể biện giải, cắt nghĩa thế giới nghệ thuật
những tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam, Trung Hoa trong SGK Ngữ văn THPT.
Tóm lại, để có được bộ SGK chất lượng tối ưu, là thước vàng khuôn ngọc cho HS các cấp
phổ thông, đòi hỏi công sức không ít của các soạn giả. Chỉ nhìn từ góc độ từ Hán Việt
cũng đã đặt ra nhiều “nút rối” cần tháo gỡ. Thực tế nhiều năm nay, vốn hiểu biết về từ
Hán Việt được thẩm thấu qua người dạy và người học văn ở bậc phổ thông vừa thiếu lại
vừa yếu. Tin rằng trong tương lai không xa, hệ thống SGK nói chung và sách văn nói
riêng cần được biên soạn, cải cách, nâng cao chất lượng, từng bước đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà.
Tiểu kết chương 1
Từ Hán Việt là một hệ quả lịch sử của cuộc giao lưu văn hoá ngôn ngữ Việt - Hoa qua
hàng ngàn năm lịch sử. Từ ngữ Hán Việt là một bộ phận quan trọng gắn bó chặt chẽ với
tiến trình lịch sử của bản ngữ, góp phần tích cực làm cho tiếng Việt thêm phong phú,
chuẩn xác, đủ khả năng đáp ứng mọi yêu cầu do cuộc sống văn hóa xã hội phát triển đề
ra.
Tuy nhiên, xét từ góc độ từ vựng - phong cách, đây là lớp từ ngữ, xét về mặt phong cách

hoàn toàn khác với phong cách của hệ thống từ ngữ Việt. Nếu như hệ thống từ ngữ Việt
mang tính chất cụ thể, trực cảm thì từ Hán Việt lại mang tính chất cổ kính, trang nhã,
tránh gây ấn tượng ghê rợn, trừu tượng, gợi hình ảnh của thế giới ý niệm, khái quát.
Việc chú giải và dạy học từ Hán Việt trong nhà trường phổ thông là vấn đề cấp thiết,
phức tạp hiện nay, nhất là đối với bộ sách Ngữ văn ban cơ bản. Để quy trình này đạt được
kết quả tối ưu, GV và HS cần phải được trang bị một hệ thống kiến thức chuẩn, cơ bản về
từ ngữ Hán Việt. Do đó, quá trình sưu tập, hướng dẫn GV, HS tiếp cận, lý giải hệ thống từ
ngữ Hán Việt trong giờ Ngữ văn là một thao tác quan trọng cần được phát triển.
CHƯƠNG 2.


KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ TỪ NGỮ HÁN VIỆT
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 (BAN CƠ BẢN)

2.1. Cơ sở khảo sát từ ngữ Hán Việt trong SGK Ngữ văn 10
Như đã trình bày, từ Hán Việt là một bộ phận ngôn ngữ quan trọng cần được xem
xét, phân tích và chú giải. Bên cạnh đó, hệ thống từ Hán Việt được khảo sát trong khoá
luận này bao gồm từ đơn, từ ghép. Bên cạnh đó, nhằm mục đích cung cấp thêm một khối
lượng tri thức về tác gia, tác phẩm, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát thêm hệ thống danh
từ riêng (nhân danh, địa danh, thư danh, hiệu danh, quốc danh...). Tuy nhiên, để hình
thành một hệ quy chiếu cơ bản, một hệ thống các tiêu chí phân loại, cũng như những nhà
nghiên cứu đi trước, tác giả khoá luận cũng xin trình bày sơ bộ về từ Tiền Hán Việt, từ có
yếu tố Hán Việt và danh từ riêng Hán Việt. Những nội dung được trình bày trong chương
mục này là những vấn đề phức tạp và còn tranh luận, do đó, chúng tôi chỉ tìm hiểu những
nét khái quát và cơ bản nhất.
2.1.1. Vấn đề nhận diện từ Tiền Hán Việt
Trong quá trình sử dụng ngôn ngữ, chúng ta cần phải phân biệt từ Hán Việt với
những từ mượn gốc Hán không đọc theo cách đọc Hán Việt. Đó là những từ mượn gốc
Hán được mượn vào tiếng Việt trong giai đoạn chưa có sự xuất hiện cách đọc Hán Việt
(từ thượng cổ đến trước thời Vãn Đường 漢漢). Có người gọi lớp từ này là tiền Hán Việt

hoặc cổ Hán Việt. Sau đây là một số ví dụ về từ tiền Hán Việt:
Chè có cách đọc Hán Việt tương đương là Trà 漢.
Chữ có cách đọc Hán Việt tương đương là Tự 漢.
Đuổi có cách đọc Hán Việt tương đương là Truy 漢.
Chém có cách đọc Hán Việt tương đương là Trảm 漢.
Muộn có cách đọc Hán Việt tương đương là Vãn 漢.
Buồng có cách đọc Hán Việt tương đương là Phòng 漢. [38; 45 - 56]
Ngoài từ tiền Hán Việt ra, trong tiếng Việt còn có một số ít từ mượn gốc Hán được
mượn theo con đường khẩu ngữ (nói một cách chính xác hơn là mượn theo cách phát âm
địa phương của Trung Quốc) như: mì chính, vằn thắn, sủi cảo...
2.1.2. Yếu tố Hán Việt và từ có yếu tố Hán Việt


Yếu tố Hán Việt là yếu tố gốc Hán, một âm tiết, phát âm theo cách đọc Hán Việt, dùng để
cấu tạo từ. Mỗi yếu tố Hán Việt tương đương với một chữ Hán. Yếu tố Hán Việt có thể
chia thành hai loại:
- Yếu tố Hán Việt được dùng độc lập với cương vị từ, mỗi yếu tố là một từ của
tiếng Việt như: hoa 漢, quả 漢, đông 漢, tây 漢, nam 漢, bắc 漢, bút 漢, lợi 漢, hại 漢, thắng 漢,
bại 漢,…
- Yếu tố Hán Việt không được dùng độc lập với cương vị từ mà chỉ là một thành tố
cấu tạo từ như: sơn 漢 (núi), hải 漢 (biển), thiên 漢(trời), địa 漢 (đất), mã 漢 (ngựa), hoàng 漢
(vàng), hắc 漢 (đen), độc 漢 (đọc), tiếu 漢 (cười), khán 漢 (xem), thính 漢 (nghe),…
- Khi tiếp nhận từ Hán Việt, chúng ta tiếp nhận cả chỉnh thể từ gốc Hán tức là tiếp
nhận tất cả các thành tố cấu tạo từ (các yếu tố Hán Việt). Như vậy, khi trong tiếng Việt đã
có sẵn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị rồi thì yếu tố Hán Việt tương ứng chỉ giữ cương
vị yếu tố cấu tạo từ.
- Cũng có trường hợp trong tiếng Việt đã có sẵn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị
từ nhưng vẫn tiếp nhận yếu tố Hán Việt đồng nghĩa với cương vị từ do nhu cầu về phong
cách, ví dụ:
漢 Lệ (rơi lệ)


- Nước mắt

漢 Nguyệt (bóng nguyệt)

- Trăng

漢 Bạch (bạch sư phụ)

- Thưa, bẩm

Ngoài hiện tượng đồng nghĩa giữa yếu tố Hán Việt và yếu tố phi Hán Việt, còn có
hiện tượng đồng nghĩa giữa các yếu tố Hán Việt. Đáng chú ý là những cặp yếu tố Hán
Việt đồng nghĩa do các biến thể ngữ âm của cách đọc Hán Việt đối với một chữ Hán. Các
biến thể ngữ âm đó có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Do kiêng huý tên của vua chúa hoặc họ hàng thân thích vua chúa và người có thế
lực như:
漢 Nghĩa à Ngãi, do kiêng tên Hoằng Nghĩa Vương 漢漢漢 Nguyễn Phúc Thái 漢漢漢
(tình ngãi, Quảng Ngãi)
漢 Nhậm à Nhiệm, do kiêng tên tự của Tự Đức 漢漢 là Hồng Nhậm 漢漢 (nhiệm vụ,
trách nhiệm, Ngô Thời (Thì) Nhiệm 漢漢漢)
- Do sự phát triển của ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ:


漢 Thu (thu phục, thu thập) à thâu (thâu phục, thâu nhập)
漢 Chu (chu sa) à châu (châu phê)
Về vấn đề nghĩa của yếu tố Hán Việt, trước hết cần phải làm sáng tỏ một điều: Có
phải tất cả mọi yếu tố Hán Việt đều có nghĩa? Có người khẳng định tất cả mọi yếu tố Hán
Việt đều có nghĩa. Thực tế không phải như vậy, có một số ít yếu tố Hán Việt tự thân nó
không có nghĩa. Ví dụ:

漢 Mã



漢 não

trong từ Mã não 漢漢

漢 Bồ



漢 tát

trong từ Bồ tát 漢漢

漢 Lưu



漢 ly

trong từ Lưu ly 漢漢

漢 Câu, 漢 lạc



漢 bộ


trong từ Câu lạc bộ 漢漢漢

Những yếu tố như tỳ, bà, bồ, đào, mã, não, lưu, ly nếu tra các từ điển Hán, ta sẽ
không thấy giải thích nghĩa của từng yếu tố. Bồ và tát cũng đều không có nghĩa mà là
những yếu tố dùng để dịch tắt bodhi-sattva trong tiếng Phạn cổ. Các yếu tố câu, lạc, bộ
trong tiếng Hán đều có nghĩa nhưng thực chất các yếu tố này dùng để phiên âm từ Club
trong tiếng Anh, còn nghĩa của các yếu tố thì chẳng dính dáng gì mấy đến nghĩa của từ
này. Do đó, có thể nói rằng: phần lớn yếu tố Hán Việt đều có nghĩa. So sánh nghĩa của
yếu tố Hán Việt và nghĩa của yếu tố Hán trong tiếng Hán, chúng ta thấy rằng có một số
nghĩa của yếu tố Hán không được tiếp nhận trong yếu tố Hán Việt tương ứng.
Cũng so sánh nghĩa của yếu tố Hán Việt với nghĩa của yếu tố Hán, chúng ta thấy rằng có
một số nghĩa trong yếu tố Hán Việt không có trong yếu tố Hán tương ứng. Đó là sự phát
triển nghĩa của yếu tố Hán Việt. Ví dụ:
- 漢 Phi có hai nghĩa mới:
+ (Ngựa) chạy rất nhanh: ngựa phi
+ Phóng dao: phi dao
- 漢 Tống có thêm nghĩa mới là “đuổi đi”.
- 漢 Thính có thêm nghĩa mới là “rất nhạy trong cảm giác âm thanh”: tai rất thính.
Một số yếu tố Hán Việt nguyên chỉ tính chất, có thêm nghĩa mới chỉ mức độ cao
như: ác 漢 (diện ác), tệ 漢 (xấu tệ), kinh 漢 (đẹp kinh).


Một số yếu tố Hán Việt từ nghĩa chỉ sự vật, có thêm nghĩa mới chỉ tính chất như:
thánh 漢 (thánh thật), sĩ 漢 (đừng có sĩ, khác với Sỉ 漢: xấu hổ).
Đáng chú ý là hiện tượng một số yếu tố Hán Việt được dùng với cương vị từ, mang
nghĩa chuyên biệt hoá khái niệm so với nghĩa của yếu tố Hán tương ứng. Ví dụ:
- Một số yếu tố Hán Việt chỉ tính chất, có thêm nghĩa chuyên biệt hoá, cụ thể như
sau:
Lục 漢 vốn nghĩa là “màu xanh nói chung”, có thêm nghĩa mới là “một loại màu
xanh, xanh lá cây” (xanh lục).

Bạch 漢 vốn nghĩa là “trắng”, có thêm nghĩa mới là “trắng toàn một màu” (trắng
bạch, sáng bạch).
Bạc 漢 vốn nghĩa nghĩa là “mỏng”, có thêm nghĩa mới là “không có tình nghĩa trọn
vẹn” (bạc đãi, phụ bạc) [Dẫn lại theo 36; 193 - 194]
- Một số yếu tố Hán Việt chỉ loại sự vật có thêm nghĩa mới chỉ một tiểu loại của sự
vật đó như:
Bố 漢 vốn nghĩa là “vải”, có thêm nghiã là “một loai vải thô” (vải bố).
Côn 漢 vốn nghĩa là “gậy”, có thêm nghĩa mới là “một loại gậy để đánh võ, múa võ”
(đánh côn, múa côn).
Thủ 漢 vốn nghĩa là “cái đầu”, có thêm nghĩa mới là “cái đầu gia súc đã giết thịt”
(thủ lợn, thịt thủ).
- Một số yếu tố Hán Việt chỉ hoạt động có thêm nghĩa mới chỉ cái cụ thể của hoạt
động đó như:
Đả 漢 vốn nghĩa là “đánh”, có thêm nghĩa mới là đánh về mặt tinh thần (đả cho nó
một trận).
Tẩu 漢 vốn nghĩa là “đi”, có thêm nghĩa là “chuồn” (nó tẩu mất rồi).
Cùng với những từ tiền Hán Việt, hệ thống từ vay mượn từ gốc Hán qua con đường
khẩu ngữ, chúng tôi không đưa vào trong diện khảo sát và phân tích. Đối với yếu tố Hán
Việt, nếu hoàn chỉnh về nghĩa, chúng tôi sẽ xem xét chúng với tư cách là những từ đơn
đơn âm, từ đơn đa âm. Trong những trường hợp khác, đặc biệt là những từ có yếu tố Hán
Việt như: Lớp trưởng, hoa sen, khen thưởng... và những vấn đề về ý nghĩa và sự thay đổi


sắc thái nghĩa của hệ thống yếu tố Hán Việt như đã trình bày không nằm trong phạm vi
khảo sát của khoá luận.
2.1.3. Vấn đề danh từ riêng trong Hán văn
Trong các tài liệu khảo sát về Ngữ pháp phổ thông tiếng Việt, các nhà nghiên cứu đã
phân biệt danh từ chung và danh từ riêng. Danh từ chung là danh từ dùng để gọi những
sự vật thuộc cùng một loại, danh từ riêng là những danh từ dùng để làm tên riêng để gọi
tên từng sự vật, đối tượng riêng lẻ. Đối với người Việt, đó là:

Những tên chỉ người, tên cá nhân, dân tộc,... Ví dụ: Nguyễn Trãi, Việt Nam, Nguyễn Du,
Hoàng Đức Lương...
Những tên chỉ nơi chốn, núi, sông, hồ, tỉnh,... Ví dụ: (núi) Tản Viên, (sơng) Hồng, (tỉnh)
Nghệ An,...
Những từ ngữ chỉ công trình xây dựng và công trình văn hoá. Ví dụ: (chùa) Dâu, (cầu)
Long Biên,...
Những từ ngữ chỉ các cơ quan, tổ chức xã hội,... Ví dụ: Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ
Giáo dục và Đào tạo,...
Những từ ngữ chỉ từng thời kì, từng sự kiện lịch sử,... Ví dụ: (thời kì) Lí–Trần, Cách
mạng Tháng Tám, Hội nghị Paris... [36; 44]
Trong chuyên luận Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại (1975), khi bàn về
vấn đề danh từ trong ngôn ngữ, Nguyễn Tài Cẩn đã khẳng định: “Bất kì nhân danh hay
địa danh, tên sách báo hay tên gọi tổ chức, tên gọi thời đại, danh từ riêng bao giờ cũng
có đặc điểm là chỉ dùng để gọi tên của một sự vật duy nhất, cá biệt. Chính đặc điểm này
là đặc điểm đã làm cho danh từ riêng khác hẳn với các danh từ còn lại cả về mặt ý
nghĩa, cả về mặt đặc trưng ngữ pháp...” [43; 70]. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với
hệ thống danh từ riêng trong tiếng Hán. Lê Trí Viễn, Đặng Đức Siêu trong giáo trình Cơ
sở Ngữ văn Hán Nôm (1982) cũng thống nhất với quan điểm trên, các tác giả cho rằng:
“Danh từ riêng trong tiếng Hán bao gồm: tên người, tên đất, tên thuỵ hiệu, tước vị, tên
tác phẩm, tên các thể loại văn bản Hán văn...” [36; 44], cụ thể như:
Nhân danh: Nguyễn Trãi, Trần Quốc Tuấn, Bùi Kỷ, Hoàng Đức Lương, Nguyễn Nghiễm,
Nguyễn Khản, Trần Trí, Sơn Thọ...
Địa danh: Thường Tín, Hà Tây, Chí Lăng, Tốt Động, Tiên Điền, Thăng Long, Đông Đô,
Đông Quan, Tam Ngô, Ngũ Hồ...
Thư danh: Quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Dư địa chí, Đoạn Trường
Tân Thanh, Truyền kỳ mạn lục...


Tước hiệu, thuỵ hiệu, miếu hiệu: Hưng Đạo đại vương, Hưng Nhượng vương, Tán
Trù bá, Trần Thánh Tông, Lê Thánh Tông...

Niên hiệu, thời kỳ: Nguyên Phong, Hồng Đức, Lý Trần, Lê Sơ...
Hệ thống danh từ riêng đã chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng số từ ngữ Hán Việt
mà chúng tôi thống kê được. Tuy nhiên, xét từ góc độ âm tiết, những từ này đều có 02 âm
tiết trở lên nên rất dễn nhầm lẫn với cụm từ, đoản ngữ. Trong mục này, chúng tôi trình
bày sơ lược một vài điểm cơ bản để tạo cơ sở cho việc nhận xét, phân tích, chú giải từ
Hán Việt.
2.2. Khảo sát, thống kê từ Hán Việt trong SGK Ngữ văn 10
2.2.1. Hệ thống từ đơn và từ ghép trong SGK Ngữ văn 10
Như đã nói, từ Hán Việt cũng được xem là loại từ vay mượn của các ngôn ngữ
khác để biểu thị những sự vật hiện tượng, đặc điểm, tính chất, trạng thái ... một cách khái
quát và trừu tượng. Do đó, hệ thống này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong
hệ thống văn bản, SGK Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
Từ mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát
một số bài học trong bộ SGK Ngữ văn 10 (Tập 1, 2) và kết quả thu được như sau:
BẢNG 1:

BẢNG THỐNG KÊ TỪ ĐƠN VÀ TỪ GHÉP

TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 (BAN CƠ BẢN)
Tập 1

Tập 2

Từ
Số lượng

%

Số lượng


%

Đơn

62

47

69

53

Ghép

313

38

510

62

Số lượng từ đơn và ghép thống kê được ở đây, chủ yếu tập trung ở các bài giảng về
văn học trung đại. Tuy chưa thật đầy đủ và chính xác nhưng kết quả thống kê cũng cho
thấy, hệ thống từ đơn và ghép được phân bố khá đồng đều ở các bài học trong tập 1 và 2
của bộ sách. Chúng ta có thể phân tích cụ thể hơn ở biểu đồ sau:


2.2.2. Từ Hán Việt trong SGK Văn học 10 và Ngữ văn 10
Để có được một cái nhìn khách quan hơn về hệ thống từ Hán Việt trong hai bộ sách

cũ và mới, căn cứ vào tài liệu của Lê Anh Tuấn [39], chúng tôi tiến hành lập bảng so sánh
để tìm hiểu quá trình phát triển vốn từ Hán Việt qua SGK của các tác giả biên soạn. Số
liệu thống kê này, như đã trình bày, chúng tôi chủ yếu khảo sát qua mấy bài học về văn
học trung đại. Cụ thể như sau:
BẢNG 2:

TỪ HÁN VIỆT TRONG SGK VĂN HỌC 10 (BỘ CŨ)
VÀ SGK NGỮ VĂN 10 (BAN CƠ BẢN - BỘ MỚI)

SGK Ngữ văn 10 (bộ cũ)

SGK Ngữ văn 10 (bộ mới)

Từ đơn

Từ ghép

Từ đơn

Số lượng %

Số lượng %

Số lượng

%

Số
lượng


%

1

43

13

295

87

62

17

313

83

2

55

10

478

90


69

12

510

88

Tập

Từ ghép

Số lượng từ đơn và từ ghép trong hai bộ sách này có tỷ lệ không đồng đều nhau. Vấn đề
đạt ra ở đây là, tỷ lệ của sai biệt đó đã phản ánh điều gì? Theo chúng tôi, về cơ bản, sự
gia tăng số lượng từ ghép đã góp phần mở rộng thêm khả năng bao quát, khái quát và hệ
thống khái niệm mang tính trừu tượng mà từ Hán Việt đã đảm nhận trong các bài học của
02 bộ sách được khảo sát. Qua các biểu đồ so sánh chúng ta sẽ thấy rõ được vai trò của
chúng:


×