Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

GIỌNG điệu NGHỆ THUẬT của NHÀ văn BALZAC TRONG BA TIỂU THUYẾT TIÊU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.22 KB, 87 trang )

GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT CỦA
NHÀ VĂN BALZAC TRONG BA TIỂU
THUYẾT TIÊU BIỂU
THÁNG 9 15
Posted by giangnamlangtu

SV Trần Thị Thu Linh
Lớp ĐH3C1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sư PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN
“ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT CỦA NHÀ VĂN BALZAC TRONG BA TIỂU THUYẾT
TIÊU BIỂU”
Giảng viên hướng dẫn
Thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc
BỐ CỤC LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: GIỚI THIỆU VỀ GIỌNG ĐIỆU
Chương II: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN BALZAC.
Chương III: GIỌNG LẠNH LÙNG KHÁCH QUAN CỦA NHÀ VĂN TỰ NHẬN LÀ “THƯ
KÍ CỦA THỜI ĐẠI”.
Chương IV: GIỌNG TRÀO PHÚNG CHẾ GIỄU CỦA NGƯỜI Ở ĐỊA VỊ
HỘI.

CAO HƠN XÃ

Chương V: GIỌNG TRỮ TÌNH LÃNG MẠN, THẮM THIẾT TÌNH
NGƯỜI CỦA NGHỆ SĨ BALZAC.
Chương VI: ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÁP ĐẾN
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM.
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Balzac là một trong những tác gia có phần đóng góp đáng kể cho nền văn học hiện
thực Pháp thế kỉ XIX. Các tác phẩm của ông là sự phản ánh toàn diện, chân thực cuộc
sống của xã hội tư sản với những thói xấu không gì che đậy của giai cấp thống trị đương
thời. Đọc những công trình nghệ thụât đồ sộ mà nhà văn đã để lại cho đời, Engels trân
trọng gọi Balzac là “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực”.


Có đọc kĩ hiểu sâu tác phẩm của Balzac mới nhận thấy trong mỗi tác phẩm ông đều
lồng vào đó những nhận xét hết sức tinh tế. Ông tố cáo xã hội đương thời với bằng
giọng lạnh lùng khách quan của người tự nhận là “thư kí của thời đại”, ông mỉa mai
bằng câu nói trào phúng trước một xã hội mà đồng tiền là vạn năng, có đôi khi ta lại bắt
gặp trong văn Balzac những câu nói thắm thiết tình người.
Cảm hứng trong sáng tác luôn gắn liền với giọng điệu nhà văn. Mà giọng điệu thì có tác
dụng thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói
đến. Điều đó chứng minh rằng để nắm được cốt lõi vấn đề của một tác phẩm thì người
đọc cần nắm bắt chính xác giọng điệu của tác phẩm đó, bởi điều quan trọng của một nhà
văn là phải tạo ra tiếng nói của mình, phải có được nốt riêng độc đáo và người đọc nghe
được nốt riêng ấy.
Giọng điệu không chỉ mang nội dung tình cảm mà còn thể hiện thái độ của tác giả về đời
sống. Giọng điệu văn chương là một nhân tố cốt yếu tạo nên phong cách nghệ thuật, nó
cho phép ta hiểu sâu hơn sự phong phú của chủ thể sáng tạo. Giọng điệu vừa là một hiện
tượng nghệ thuật độc đáo của nhà văn vừa là một hiện tượng ảnh hưởng không nhỏ đến
các thời đại văn học. Do đó, chúng tôi thấy cần cảm nhận về giọng điệu nghệ thuật của
nhà văn Balzac để qua đó chúng ta thấy rõ hơn và cảm được sâu hơn về con người và
tác phẩm của ông.
Dù biết kiến thức và vốn sống bản thân còn nhiều hạn chế, nhưng vì khá hứng thú với
tác giả Balzac nói riêng- văn học phương Tây nói chung, tôi xin mạnh dạng đưa ra một

vài sự cảm nhận của mình về giọng điệu nghệ thuật của nhà văn Balzac. Rất mong nhận
được sự đóng góp và chỉ bảo của quí độc giả để luận văn ngày càng phong phú và hoàn
thiện hơn.
2. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ
Trong vòng 15 năm trở lại đây hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học nước ta được
phong phú thêm bởi những cách tiếp cận mới. Nào con người, không gian, thời gian, cấu
trúc, phương tiện biểu đạt ….Những tác phẩm văn chương vốn quen thuộc nhưng khi
được nhìn với góc độ mới bỗng phô bày thêm những phẩm chất, chiều sâu mà trước đó
ít khi được nhìn kĩ.
Từ xưa, các nhà lý luận phương Đông đã từng nhắc đến giọng điệu và phong cách nhà
văn qua các khái niệm gần gũi như hơi văn, khí văn, tình điệu… Nhưng nhìn chung các
nhà lí luận văn học và mĩ học trước thế kỉ XIX chưa đề cập trực tiếp và chuyên sâu vấn
đề giọng điệu trong văn chương.
Những bài nghiên cứu phê bình văn học ở nước ta trong vài thập niên qua cho thấy
giọng điệu cũng được nghiên cứu từ nhiều phía. Nhưng nhìn chung chưa có một công
trình dày dặn và độc lập về giọng điệu, mà nó thường được bàn đến khi tìm hiểu một tác
giả hoặc một giai đoạn văn học. Điều này cho thấy rằng việc nghiên cứu giọng điệu trong
văn chương ở nước ta mới chỉ lát được những viên gạch đầu.
Trong giới nghiên cứu văn học nước ta, Trần Đình Sử là người đầu tiên phân biệt hiện
tượng giọng điệu trong đời sống và giọng điệu trong nghệ thuật, coi giọng điệu văn
chương là một phương diện cấu thành hình thức của văn học. Theo Trần Đình Sử giọng


điệu “là sự biểu thị lập trường tư tưởng, cảm xúc chủ thể, là nguyên tắc lí giải và chiếm
lĩnh hiện thực”. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì nhận định “cảm hứng nào giọng
điệu ấy, nhưng cũng có thể ngược lại giọng điệu định hướng hình thành cảm hứng”. Còn
theo Nguyễn Đăng Mạnh thì giọng điệu là “một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách
nghệ sĩ”. Do chưa có tài liệu nào tập trung nghiên cứu giọng điệu như một đối tượng độc
lập nên ý kiến về giọng điệu còn tản mạn và chưa thành hệ thống.
Cho đến nay thì đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về giá trị nội dung và nghệ thuật

các tác phẩm của tác gia Balzac. Điển hình như Đặng Anh Đào với Ônôrê đờ Banzắc- một
thế giới bước đi (NXB Trẻ-2002), Đỗ Đức Dục với chủ nghĩa phê phán trong văn học
phương Tây (NXB KHXH 1981), Đặng thị Hạnh- Lê Hồng Sâm- Văn học lãng mạn và văn
học phương Tây thế kỉ XIX, gần nhất là tác phẩm Honore de Balzac Lão Goriot (NXB
ĐHQG HN 2001) do Lê Huy Bắc biên soạn. Nhìn chung các công trình này đã nghiên cứu
khá sâu về nội dung và về nghệ thuật cấu thành tác phẩm của Balzac. Nhưng đi vào việc
tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật của tác giả Balzac thì hầu như chưa có một công trình
nghiên cứu cụ thể.
Luận văn này tập trung nghiên cứu một vấn đề khá mới mẻ và có phần phức tạp nên
chắc hẳn sẽ gặp không ít khó khăn trong quá trình thực hiện. Để hoàn thành luận văn tôi
có dựa vào một số tài liệu của các tác gia kể trên và những tài liệu liên quan đến tác gia
Balzac được liệt kê cụ thể ở danh mục tài liệu tham khảo.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong thực tế, nhận diện chính xác giọng điệu của nhà văn trong tác phẩm không phải
là việc đơn giản. Nó cần tới trực cảm nhưng đồng thời cần cái nhìn lí tính để kiểm định và
phân tích sự cảm nhận ấy một cách cụ thể.
Luận văn này cố gắng nhận ra những giọng điệu nghệ thuật mà tác giả Balzac thừơng
xử dụng trong các tác phẩm của mình, từ đó tìm hiểu tác dụng của giọng văn trong việc
cấu thành tác phẩm, thái độ của tác giả đối với xã hội đương thời, giá trị của tác phẩm
trong nền văn học hiện thực Pháp nói riêng, nền văn học thế giới nói chung.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng chính là tiểu thuyết của nhà văn Balzac.
Để tiến hành khảo sát giọng điệu nghệ thuật của nhà văn Balzac, tôi đi sâu vào 3 tác
phẩm: Eugenie Grandet, Lão Goriot, Vỡ mộng.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Việc nghiên cứu giọng điệu văn chương không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn sự độc đáo của
các phong cách nghệ thuật mà hơn thế còn lí giải được tiến trình vận động của văn học.
Thông qua việc cảm nhận về giọng điệu nghệ thuật, luận văn này khai thác thêm một
nghệ thuật đặc sắc trong việc cấu thành tác phẩm của Balzac nói riêng, của văn học hiện
thực phê phán nói chung.

Qua giọng văn của tác giả ta thấy được thái độ của nhà văn đối với thời đại, thấy rõ nét
chân dung của cuộc sống qua những lời văn miêu tả khách quan, thấy được sự thốt nát
và sa đoạ về đạo đức của loài người qua những lời chế giễu sâu cay, nhưng đôi khi ta


cũng phải lắng lòng để nghe và hiểu những lời văn thắm thiết tình người mà tác giả nhắn
gửi.
Việc nghiên cứu giọng điệu văn chương ở nước ta vẫn đang ở những bước đầu. Những
nổ lực của chúng tôi trong việc cảm nhận giọng điệu của tác giả Balzac chỉ là những nổ
lực nhỏ bé trong quá trình tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm của ông .
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chủ yếu là phương pháp khảo sát và phân tích tư liệu.
Mục đích là chỉ ra những giọng điệu nghệ thuật thường được nhà văn sử dụng trong tiểu
thuyết. Từ đó đưa ra những cảm nhận về cách thức sử dụng giọng điệu nghệ thuật của
nhà văn.

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I: GIỚI THIỆU VỀ GIỌNG ĐIỆU
Chương II: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN BALZAC.
Chương III: GIỌNG LẠNH LÙNG KHÁCH QUAN CỦA NHÀ VĂN TỰ NHẬN
LÀ “THƯ KÍ CỦA THỜI ĐẠI”.
Chương IV: GIỌNG TRÀO PHÚNG CHẾ GIỄU CỦA NGƯỜI Ở ĐỊA VỊ CAO
HƠN XÃ HỘI.
Chương V: GIỌNG TRỮ TÌNH LÃNG MẠN, THẮM THIẾT TÌNH NGƯỜI CỦA
NGHỆ SĨ BALZAC.
Chương VI: ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÁP ĐẾN CHỦ
NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN TRONG NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM.
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT : GIỚI THIỆU VỀ GIỌNG ĐIỆU
Giọng điệu là một phương tiện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học. Đây
là thứ hình thức nghệ thuật mang tính quan niệm, nó là thước đo không thể thiếu để xác
định tài năng và phong cách độc đáo của một nhà văn, nhà thơ.
Giọng điệu vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một
âm hưởng nào đó, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và định
hình thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh thể giọng ấy mỗi yếu tố hiện
ra rõ hơn, đầy đủ hơn, thậm chí mới mẻ hơn.
Trong các tác phẩm nghệ thuật ưu tú, giọng điệu bao giờ cũng mang tính chất lượng, nó
là sản phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn. Giọng điệu văn chương là một hiện tượng
nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Nhưng thực tế là bên cạnh giọng điệu cá nhân còn
có giọng điệu thời đại. Giọng điệu cá nhân chịu sự quy định, ảnh hưởng của giọng điệu
thời đại mặt khác giọng điệu cá nhân góp phần làm phong phú thậm chí làm thay đổi cấu
trúc giọng điệu thời đại.


Giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một nhà văn tài năng bao
giờ cũng phải tạo được một giọng điệu độc đáo. Giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo,
giọng điệu góp phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn chương.

I. KHÁI NIỆM
Thế nào là giọng? Theo Từ điển Tiếng Việt thì: Giọng là:1/ Độ cao thấp, mạnh yếu của lời
nói, tiếng hát. 2/ Cách phát âm của một địa phương. 3/ Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ,
biểu thì một thái độ, tình cảm nhất định. 4/ Gam đã xác định âm chủ.
Như vậy trong cuộc sống hằng ngày giọng được hình dung trước hết như một tín hiệu âm
thanh có âm sắc, trường độ, cao độ. Khái niệm giọng chủ yếu nói về người, gắn với

người, là giọng nói của người dùng trong ngôn ngữ giao tiếp của mỗi người. Không chỉ
tồn tại như một âm thanh, giọng nói của người còn hàm chứa thái độ của người nói,
chính ở đây người ta thường nói đến giọng điệu.
Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ biên soạn cho rằng giọng điệu là “giọng nói, lối nói
biểu thị một thái độ nhất định”. Như vậy “giọng” là yếu tố mang đậm tính vật lý trong khi
“giọng điệu” lại được nhìn từ góc độ tâm lý. Nhìn vào 2 định nghĩa về giọng và giọng
điệu, ta thấy định nghĩa giọng điệu trùng với nét thứ ba của định nghĩa về giọng. Vậy nên
trong thực tế giao tiếp, tùy vào hoàn cảnh, người ta thường đồng nhất hai khái niệm này.
Như vậy có thể nói có bao nhiêu hoàn cảnh giao tiếp, bao nhiêu nhân vật tham gia giao
tiếp thì có bấy nhiêu giọng điệu, ví dụ như: giọng khinh nhờn, bỡn cợt, chế giễu, trịnh
thượng, cung kính, vui sướng, thỏa mãn, chanh chua, hiền hậu…..Rõ ràng giọng điệu
thường thể hiện tâm tính con người, phản ánh tâm trạng của họ. Âm thanh giọng điệu
cũng phù hợp với nội dung cảm xúc, khi vui giọng vang rõ, khi buồn giọng lắng lại, thấp
xuống…
Trong cuộc sống giọng điệu thường mang tính nhất thời, khác với giọng điệu trong tác
phẩm văn học. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ cũng được tổ chức công phu, là kết
quả của một quá trình sáng tạo thực thụ. Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ
thuộc vào hệ thống không phải là ngẫu hứng.
Không chỉ hàm chứa cảm xúc, thái độ của người nói, giọng điệu còn thể hiện nghề
nghiệp, tuổi tác, giới tính của chủ thể phát ngôn. Giọng trẻ con khác giọng người lớn,
giọng người từng trải khác giọng người non nớt, giọng người ít học khác với giọng người
trí thức….
Giọng điệu như một hiện tượng nghệ thuật nhưng không nên tạo ra sự ngăn cách giả tạo
giữa giọng điệu trong đời sống với giọng điệu trong văn chương. Trong tác phẩm văn
học, giọng điệu cũng mang đặc tính âm thanh. Ngay cả khi đọc thầm một câu thơ, câu
văn, trong tâm trí người đọc vẫn vọng lên cái âm hưởng, thậm chí đường nét của âm
thanh. Chỉ có điều khi trở thành một hiện tượng thẩm mĩ, cấu trúc và cơ chế vận hành
của giọng điệu văn chương phức tạp hơn nhiều so với giọng điệu thường ngày.
“Giọng điệu” trong tiếng Việt là một từ ghép gồm 2 thành tố: giọng và điệu, nếu giọng
chủ yếu biểu thị âm thanh, khí lực của người nói thì điệu chủ yếu biểu thị đường nét, màu

sắc của giọng. Sự kết hợp giữa chúng không mang tính cộng sinh mà là sự kết hợp để
mang một nội dung khác, hoàn chỉnh. Giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của


chủ thể phát ngôn qua lời văn nghệ thuật. Không thể có giọng điệu nếu như không có
những rung động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước thân phận con người,
không chia sẻ với họ niềm vui và tình yêu trong cuộc sống.
Màu sắc cảm xúc trong văn học giúp ta nhận diện thế giới rõ hơn, đồng thời hình dung cụ
thể thái độ của nhà văn về đời sống. Trong nghệ thuật ngôn từ, giọng điệu không chỉ bộc
lộ qua âm thanh, nhịp điệu mà còn bộc lộ qua màu sắc, đường nét, hình ảnh.
Không phải lúc nào trong tác phẩm cũng chỉ có một giọng điệu thuần nhất. Việc phân
chia loại hình giọng điệu cũng khác nhau, xuất phát từ những tiêu chí khác nhau. Theo
cấu trúc thì có thể chia thành giọng chính và giọng phụ. Căn cứ vào sắc thái tình cảm thì
có thể nói đến giọng gay gắt hay tình cảm, trang trọng hay suồng sã, mạnh hay yếu,
kính cẩn hay châm biếm….Căn cứ vào dạng thức cảm hứng chủ đạo thì có giọng bi,
giọng hài, giọng anh hùng ca….Nếu chú ý khuynh hướng tư tưởng thì có các giọng:
thông cảm hay lên án, yêu thương hay tố cáo, khẳng định hay phủ định….Có khi từ cái
nhìn ngôn ngữ học chia thành giọng trần thuật, giọng nghi vấn, giọng cảm thán. Về cơ
bản giọng điệu bộc lộ các sắc điệu tình cảm của chủ thể phát ngôn.
II. PHÂN BIỆT GIỌNG ĐIỆU VỚI NGỮ ĐIỆU, NHẠC ĐIỆU, NHỊP ĐIỆU
Để làm nổi bật những nét riêng của giọng điệu cần phân biệt nó với các khái niệm như
ngữ điệu, nhạc điệu, nhịp điệu.
Giọng điệu khác với ngữ điệu. Ngữ điệu là một phạm trù của ngôn ngữ học còn giọng
điệu là một phạm trù của thi pháp học. Trong một phát ngôn, ngữ điệu thường thực hiện
các chức năng: phân biệt các kiểu thông báo, phân biệt các bộ phận của phát ngôn. Ngữ
điệu thường được chia thành: ngữ điệu cảm thán, ngữ điệu hỏi, ngữ điệu cầu khiến, ngữ
điệu liệt kê…..Nhiều khi ngữ điệu trực tiếp bộc lộ cảm xúc của người nói. Quan hệ giữa
giọng điệu và ngữ điệu là mối quan hệ chi phối và phụ thuộc. Mặc dù ngữ điệu có chức
năng biểu cảm: thân mật, trang trọng, mỉa mai, hài hước… nhưng rõ ràng đó là những
chức năng biểu đạt gắn với chuẩn ngôn ngữ chứ không nằm ở phạm vi bao quát như

giọng điệu.
Giọng điệu cũng khác với nhịp điệu. Nhịp điệu là sự lặp lại có tính chất chu kì, cách
khoảng hoặc luân phiên theo thời gian của các hiện tượng ngôn ngữ nhằm thể hiện sự
cảm nhận thẩm mỹ về thế giới trong sự vận động của nó. Trong văn xuôi nhịp điệu thể
hiện qua cách phân chia chương hồi, sự lặp lại các đơn vị câu và ngắt nhịp trong bộ phận
câu. Trong chỉnh thể văn học, nhịp điệu là một phương diện bộc lộ giọng điệu. Quan hệ
giữa giọng điệu và nhịp độ ở chỗ: nhịp điệu chịu sự chi phối của giọng điệu, giọng điệu
được bộc lộ qua nhịp điệu và ngữ điệu của câu văn.
Chúng ta cũng không nên đồng nhất giọng điệu với nhạc điệu. Chức năng cơ bản của
nhạc điệu (trong âm nhạc)là làm cho câu văn (ca từ) thêm hay, thêm réo rắt, trầm bổng.
Nhạc điệu được tổ chức nhờ yếu tố: ngắt nhịp, gieo vần, phối thanh….Nhạc điệu chịu sự
chi phối của giọng điệu.
Tóm lại, tất cả các yếu tố: nhạc điệu, ngữ điệu, nhịp điệu có liên quan chặt chẽ với giọng
điệu và nhìn chung, chúng là những thành tố góp phần tạo nên âm hưởng và giọng điệu
văn chương.


III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI TÌM HIỂU GIỌNG ĐIỆU VĂN CHƯƠNG
1. Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác giả
Trong tác phẩm có thể có những nhân vật giả tạo, dối trá, giọng tác giả có bổn phận vạch
trần sự dối trá đó.
Là sản phẩm mang tính cá biệt, độc đáo, kết tinh sự sáng tạo độc đáo của nhà văn, giọng
điệu là một phương tiện bộc lộ hình tượng tác giả. Nói cách khác, hình tượng tác giả, cái
nhìn của nhà văn thể hiện hết sức rõ nét qua giọng điệu.
GS. Trần Đình Sử, trong Dẫn luận thi pháp học cho rằng, hình tượng tác giả bộc lộ ở 3
điểm chính sau:
1Cái nhìn nghệ thuật
23-

Giọng điệu

Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng

Cả 3 phương diện này không hiện lên tách rời mà luôn hòa vào nhau như một sinh thể
toàn vẹn là tác phẩm.
Mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng và độc đáo. Khi đúng trước một đề tài, nếu cái nhìn,
thái độ của chủ thể khác nhau thì giọng điệu cũng khác nhau. Cái nhìn và giọng điệu có
những mặt giao thoa vì chúng là sự thể hiện chủ thể sáng tạo, giữa chúng có sự liên
quan mật thiết. Giọng điệu mang nội dung tình cảm, thể hiện thái độ của tác giả về đời
sống.
2. Phương thức biểu hiện chung của giọng điệu nghệ thuật
Tìm hiểu giọng điệu văn chương, vấn đề đầu tiên cần phải quan tâm là chú ý mối quan
hệ giữa chủ thể sáng tạo và khách thể được phản ánh. Vì giọng điệu gắn với đặc điểm
tâm hồn nghệ sĩ và đối tượng được miêu tả.
Giọng điệu còn chịu áp lực của thể loại. Mỗi một thể loại, do bản chất của nó, mang sẵn
trong mình những tiền đề để tạo ra giọng điệu phù hợp với nó. Như giọng điệu sử thi là
giọng điệu trầm hùng của lịch sử. Tiểu thuyết trái lại mang tính suồng sã, không chấp
nhận kiểu tôn ti cứng nhắc và bất biến của sử thi.
Đọc, tri giác một văn bản, người đọc tất sẽ cảm nhận được giọng điệu của nhà văn.
Tóm lại việc phân tích và nhận diện giọng điệu qua tác phẩm là yếu tố khá quan trọng khi
tìm hiểu giọng điệu nhà văn. Phân tích giọng điệu tác phẩm trải qua các thao tác cơ bản
như:
1Xác định tư thế của người nói và điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm
23-

Khảo sát nghệ thuật xây dựng lời văn để biểu hiện giọng điệu
Vai trò của hình tượng trong việc thể hiện giọng điệu

4Lý giải chức năng và vai trò giọng điệu trong chỉnh thể tác phẩm.
Tìm hiểu giọng điệu nhà văn cần xem xét mối quan hệ giữa nhà văn- bạn đọc, nhà văn
và thời đại, có như vậy mới nắm bắt được vẻ đẹp và tiếng nói đích thực của chủ thể sáng

tạo ẩn chứa sau các lớp ngôn từ và hình tượng nghệ thuật.
IV. NHỮNG GIỌNG ĐIỆU THƯỜNG THẤY TRONG TÁC PHẨM CỦA BALZAC
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có ba giọng điệu chính được Balzac sử dụng trong
sáng tác của mình là:


-

Giọng lạnh lùng khách quan (đây là giọng chủ đạo).
Giọng trào phúng chế giễu.

Giọng trữ tình lãng mạn.
CHƯƠNG II: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN BALZAC
I. CUỘC ĐỜI
Honore de Balzac là một tác gia quan trọng của nền văn học Pháp thế kỷ XIX.
Balzac sinh ngày 20 tháng 5 năm 1799 ở Tua, vào thời kì mà chính quyền cách mạng tư
sản đã lập nên chế độ Đốc chính- một nhãn hiệu mới nhưng cũng là thời kì thoái trào của
Cách mạng .
Cha của Balzac, một nhà tư sản phất lên sau những phi vụ buôn bán thời cách mạng,
cũng đã hai lần chỉnh lại họ của mình: nguyên là Banxa- một dòng họ nông dân- sau đổi
thành Balzac, cuối cùng gắn thêm một tiểu từ Đờ (có nghĩa là thuộc dòng quý tộc). Mẹ
ông xuất thân trong một gia đình tư sản giàu có tại Pari.
Balzac có chỗ xung khắc với gia đình ngay từ nhỏ, có lúc ông tự nói mình như một “đứa
con không mẹ”, vì mẹ ông chỉ yêu thương người em trai của ông- con riêng của bà.
Từ năm lên 8 đến năm 14 tuổi Balzac được theo học tại một trường giáo hội, ít được về
thăm nhà và chỉ được gặp mẹ hai lần. Cậu bé Balzac sớm phải chịu kỷ luật nội trú khắc
nghiệt, sớm làm quen với cuộc sống khép kín, nghiêm túc.
Năm 1814 Balzac theo gia đình dọn về Pari, ông vẫn tiếp tục học nội trú.
Tháng 9-1816 ông tốt nghiệp trung học. Cuộc sống xa người thân tạo cho ông thói quen
suy tư độc lập, dù khó khăn đến mấy ông vẫn kiên cường giữ vững niềm tin, chính điều

này giúp ông có được nghị lực phi thường để có thể làm việc không mệt mỏi trong sự
nghiệp sáng tác sau này.
Balzac còn va chạm với gia đình về vấn đề công danh sự nghiệp. Ngày 4/11/1816, Balzac
ghi tên vào học giai đoạn đầu của trường Luật và sau 3 năm học tập ông đã có bằng cử
nhân luật học hai phần. Gia đình đề ra cho Balzac một kỉ luật chặt chẽ. Cha ông yêu cầu
sau khi tốt nghiệp phần luật lí thuyết tại đại học Sarbone cần phải tốt nghiệp phần luật
thực hành. Gia đình ông hi vọng đứa con trai của mình sẽ làm nghề công chứng. Thế là
ông được đưa đi tập sự tại một văn phòng đại lý tố tụng và công chứng. Trong thời kì này
ông tiếp tục học khoa luật. Những ngày tập sự tại văn phòng ông đã chứng kiến khá
nhiều những bi kịch gia đình và “những hành động tội phạm không gì trừng phạt”- tất cả
điều đó về sau sẽ là những tư liệu quý giá trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Ngay thời bấy giờ Balzac đã ôm mộng triết học và văn chương. Ông vừa học luật vừa
theo các giờ giảng triết học, văn học, sử học ở trường đại học Sorbone. Ông từng viết
mấy bài luận văn về triết học. Sự hứng thú đối với triết học có thể nói đã quán xuyến cả
cuộc đời ông.
Tháng 4-1814, ông rời khỏi nơi tập sự, buông bỏ nghề pháp luật, bắt đầu cuộc đời lao
động nghệ thuật cần cù và đạm bạc trong gian gác xép nghèo ở phố Lu-di-ghi-e (Pari) với
hoài bão “được nổi tiếng và được yêu”
Khi 30 tuổi, trải qua 10 năm thử bút, Balzac vẫn chưa thành công. Song với nghị lực phi
thường ông vẫn xông vào sự nghiệp sáng tác. Mười năm không tên tuổi không hẳn là


mười năm uổng phí của Balzac. Bước đường không may mắn đó đã là “trường học thực
tế” của nhà văn, nhờ đó mà ông nắm được cái bản chất nhất của xã hội tư sản để đưa nó
vào văn học một cách sinh động và sắc nét.
Không thành công về văn học lại phải sống trong cảnh nghèo túng, chẳng bao lâu sau
Balzac đành tạm gác bỏ nghề văn để lao vào việc kinh doanh làm giàu. Thế là hết đi làm
nghề xuất bản lại làm chủ nhà in, rồi cả kinh doanh đúc chữ. Nhưng Balzac sinh ra chẳng
phải để kinh doanh buôn bán, tính toán tiền nong cho nên ông chỉ toàn lỗ vốn, nợ nần
chồng chất.

Năm 1828 ông từ bỏ thương trường với số nợ trên mười vạn quan để quay về với giấc
mộng văn chương. Vốn kinh doanh không còn nhưng vốn sống thật giàu có, chặng
đường thất bại trong kinh doanh lại cung cấp cho Bazac một kho tư liệu kinh nghiệm và
phong phú về xã hội tư bản. Suốt cuộc đời mình, lúc nào Balzac cũng chuyên cần sáng
tác. Hằng ngày ông phải làm việc 18 tiếng đồng hồ. “Làm việc! Bao giờ cũng làm việc!
Chong đèn thâu đêm nối tiếp từ đêm này qua đêm khác, từ ngày này qua ngày khác”.
Balzac đã mắc phải bệnh tim, ông uống càfe rất nhiều, ông rất cần nghỉ ngơi nhưng thật
sự ông dành rất ít thời gian cho công việc này.
Năm 1847 ông đã cảm thấy được sự suy nhược của cơ thể và cố gắng thực hiện nguyện
vọng cuối cùng của mình là kết hôn với bà Hanska (họ đã giao du với nhau từ năm
1832).
Đầu năm 1850, dù bệnh khá nặng nhưng ông vẫn cố gắng đến Ukraine để cử hành hôn
lễ. Sau khi trở về Pari tứ chi của ông bị sưng phù, đùi bị hoại tử và ngày 18-8-1850 ông
từ trần khi mới 51 tuổi, ông ra đi trong một đêm cô đơn giống như khá nhiều nhân vật
của ông .
Ông được chôn ở nghĩa địa Petơ Lasedo, ông được chôn giữa những ngày mưa gió và
người ta kể lại rằng những người đào huyệt phải lấy chân dậm lên quan tài để nó khỏi
nổi lên giữa hố nước. Đám tang không đông đảo, bề thế, không tương xứng với con
người đã tạo nên cả một thế giới trong “Tấn trò đời”. Tuy nhiên đã có bài điếu văn của
Hugo tiếc thương thiên tài mà hậu thế sẽ thừa nhận.
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1. 1.
Khái quát
Balzac không thuộc loại tài năng văn chương phát lộ từ tuổi thiếu niên như Hugo hoặc
Musset, mà với ông “thiên tài là một sự cố gắng liên tục”- như ông từng định nghĩa. Bởi
lẽ cho tới năm xấp xỉ tuổi 30, trải qua 10 năm thử bút Balzac vẫn chưa thành công. Năm
1820, chành trai trẻ trình làng vở kịch mang tên “Cromwell”, mọi người đều nhận định
tác phẩm đó thật khô khan và vô vị, một vị viện sĩ được mời tới cho rằng: “… tác giả làm
việc gì cũng được, trừ đeo đuổi văn chương”.
Từ năm 1818 đến 1828 là giai đoạn mò mẫn của Balzac, ông viết gần 10 quyển tiểu

thuyết nhưng chưa tạo nên một tên tuổi.
Tác phẩm Những người của Đảng Chouans (Les Chouens) được ông hoàn thành vào năm
1829 mới thật sự là tác phẩm mở màn cho cả bộ “Tấn trò đời” (La Comèdie, còn được
dịch là “Kịch vui nhân gian”) vĩ đại.


Năm 1829 đến năm 1835 là giai đoạn đầu trong việc sáng tác bộ “Tấn trò đời”. Bộ “Tấn
trò đời” gồm hơn 90 tác phẩm “cung cấp một bộ lịch sử hiện thực tuyệt vời của xã hội
Pháp, đặc biệt là xã hội thượng lưu tại Pari” (Engels). Balzac đã đề xuất một cách rõ ràng
là ông muốn làm “thư kí” cho xã hội Pháp, để hoàn thành một nhóm tác phẩm miêu tả
nước Pháp vào thế kỉ XIX”.
Năm 1845 Balzac đã phác thảo đề cương của bộ “Tấn trò đời”. “Tấn trò đời” dự định là
143 tác phẩm, đã hoàn thành 97 tác phẩm trong thời gian từ 1829-1848. Sau đây là
thống kê một số tác phẩm tiêu biểu trong bộ “Tấn trò đời”.

PHẦN I: KHẢO LUẬN PHONG TỤC
1/ Những cảnh đời tư.
Gôpxêch nhà con mèo chơi bóng (1830); Người đàn bà ở tuổi ba mươi (1831); Đại tá
Sabe (1832); Lão Goriot I (1834); Lão Goriot II (1835); Lễ cầu hôn của kẻ vô thần (1836);
Bêatrix (1839); Nàng nhân tình hờ (1841); Kí sự của đôi vợ chồng trẻ (1842); Onôrin
(1843); Môđextow Minhông (1844).
2/ Những mảnh đời tỉnh lẻ.
Cha xứ ở Tua (1832); Ơgiêni Grangđê (1833); Bông huệ nơi thung lũng (1835); Căn
phòng chứa đồ cổ I (1836); Ảo mộng tiêu tan I (1837); Cô gái già (1838); Căn phòng
chứa đồ cổ II (1839); Ảo mộng tiêu tan II (1840); Uyêcxuyn Miruôt (1841); Cô gái khua cá
(1842); Ảo mộng tiêu tan III (1843).
3/ Những cảnh đời Pari.
Xarazin (1831); Nữ công tước Đơ Langgie (1834); Cô gái mắt vàng (1835); Faxino Can
(1836); Xeza Birôtô (1837); Những viên chức (1837); Nhà ngân hành Nucingen (1838);
Vinh và nhục của người kĩ nữ I (1839); Mặt trái của lịch sử hiện đại I (1842); Một tay buôn

bán (1845); Chị Bett (1846); Ông anh họ Pông (1847); Vinh và nhục của người kĩ nữ II
(1847); Vinh và nhục của người kĩ nữ III; Mặt trái của lịch sử hiện đại II; Những người tiểu
tư sản.
4/ Những cảnh đời chính trị.
Một giai đoạn của thời kì khủng bố (1830); Macca (1841); Đại biểu ở Acxi (1847).
5/ Những cảnh đời nhà binh.
Những người Suăng (Les Chouens)(1829); Mối đam mê nơi sa mạc (1830);
6/ Những cảnh đời nông thôn.
Người thầy thuốc ở nông thôn (1833); Người cha xứ nông thôn I (1838); Người cha xứ
nông thôn II (1839); Những người nông dân I (1844); Những người nông dân II (hoặc
Nông dân).

PHẦN II: KHẢO LUẬN TRIẾT HỌC
Thuốc trường sinh (1830); Kiệt tác chưa ai biết tới (1831);
Miếng da lừa (1831); Quán đỏ (1831); Gia đình Marana
(1832); Lui Lambe (1833); Đi tìm cái tuyệt đối (1834);
Menmôt quy thiện (1835); Đứa con bị nguyền rủa (1836);
Maximilia Đôni (1839); Về Catơirin đơ Mêđixix (1841)


PHẦN III: KHẢO LUẬN PHÂN TÍCH

Sinh lí học hôn nhân (1829); Những nỗi phiền hà của cuộc sống vợ chồng (1845).
“Tấn trò đời” đã có một công lao lớn trong việc phản ánh việc giai cấp tư sản đã thay thế
cho giai cấp quý tộc để phát triển lịch sử; phản ánh lịch sử suy vong của giai cấp quý tộc;
miêu tả từng màn thảm kịch xoay quanh việc tiền bạc. “Tất cả đều bị tiền bạc quyết
định” phản ánh chân thật tình trạng kinh tế thời bấy giờ.
Hơn thế nữa với bộ “Tấn trò đời” Balzac đã đặt nền tảng cho chủ nghĩa hiện thực, đề ra
những nguyên tắc mỹ học cho chủ nghĩa hiện thực; xây dựng nhân vật theo nguyên
tắc “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”, cá thể hóa ngôn ngữ….

Balzac viết khoẻ vô cùng: bản thảo đầu của “Lão Goriot” được ông hoàn thành trong 3
ngày đêm, hay tiểu thuyết “Chị họ Bett” được viết trong 6 tuần lễ; thời kì 1831-1835,
mỗi năm ông hoàn thành 6-7 tác phẩm. Balzac viết nhanh mà không viết ẩu, ngay đến
những người không ưa ông cũng phải công nhận Balzac đã nêu gương sáng về nhà văn
có trách nhiệm, có lương tâm. Không tác phẩm nào mà ông không sửa chửa lại nhiều
lần, bởi ông rất chú ý gọt giũa lời văn, và ông khuyến khích người viết văn luôn làm một
thứ “tổng vệ sinh văn học”.
Đó là tất cả những gì còn lại của người có khi tự nhận là “một tên khổ sai bằng bút mực,
một gã đi bán tư tưởng thật sự”, có khi tự cho mình có thể vượt qua Napoléon “hoàn
thành những thứ gì mà người không thể hoàn thành bằng lưỡi kiếm”. Và sự thật thì cái
“đế chế” mà Balzac trị vì- thế giới của Tấn trò đời- còn tồn tại mãi đến ngày nay, trong
khi đế chế của Napoléon chỉ tồn tại trong 20 năm.
2. GIỚI THIỆU 3 TIỂU THUYẾT TIÊU BIỂU

EUGENIE GRANDET
Lão Grandet là thợ đóng thùng ở thị trấn Saumur nhờ “đục nước béo cò” mà phất lên
sau cách mạng 1789. Lão mua với “giá rẻ như cho” những cánh đồng nho- tài sản bán
đấu giá, lão buôn vàng, đầu cơ tích trữ rượu vang và trở thành một tay tư sản giàu xụ
nhưng lại hết sức keo kiệt. Chính bản thân lão cùng vợ lão, cô con gái độc nhất- Eugenie,
mụ quản gia Nanon phải chịu thiếu thốn mọi bề. Lão nắm giữ tất cả chìa khóa hòm tủ
trong nhà, hằng ngày lão đích thân phát từng mẩu bánh, từng viên đường cho vợ con.
Cruchot và Des Grasims là hai gia đình có thế lực ở Saumur thường tới lui bợ đỡ lão,
hòng giành nhau cô gái thừa kế triệu phú Eugenie. Nhưng lão thì chẳng bao giờ lo nghĩ
đến hạnh phúc của con.
Em trai lão Grandet ở Pari bị phá sản, trước khi tự tử gửi con là Charles về Saumur nhờ
lão cưu mang, nhưng lão lại vội tống khứ thằng cháu đi Ấn Độ để giữ nợ cho y sau này tự
trả. Thời gian ngắn ngủi ở Saumur, giữa Charles và Eugenie nảy nở một mối tình.
Eugenie giấu cha đem số vàng của mình tặng người yêu làm vốn kinh doanh. Khi lão biết
chuyện liền giam con gái vào buồng kín chỉ cho nước lã và bánh mì lạt. Bà Grandet vì
đau buồn mà mất. Sợ vợ chết con đòi chia gia tài lão buộc phải giảng hòa với con. Sau

khi lão mất thì chỉ còn Eugenie sống bơ vơ với một hi vọng là chờ người yêu trở về.


Sau bảy năm sống ở Ấn Độ, Charles kiếm được số tiền lớn và biến chất. Trên đường về
Pari hắn đính hôn với một cô gái quý tộc xấu xí nhằm chen chân vào xã hội thượng lưu
và quên hẳn mối tình thơ mộng với Eugenie. Mặc dù bị phụ bạc nhưng Eugenie vẫn đứng
ra trả nợ giùm Charles, sau đó kết hôn với một người nàng không yêu. Năm 33 tuổi
Eugenie phải sống cuộc đời góa bụa.
Tác phẩm “Eugenic Grandet” là một trong những tác phẩm được Balzac “viết hoàn mỹ
nhất”. Thành tựu quan trọng nhất của tiểu thuyết này là đã tạo dựng được một điển hình
keo kiệt bủn xỉn- lão Grandet. Balzac đã phơi bày tính chất tham lam, xem tiền như
mạng sống của giai cấp tư sản. Hình tượng Grandet là hình tượng sinh động của giai cấp
tư sản sùng bái tiền bạc như một thứ tôn giáo. Tác phẩm phơi bày sức mạnh nghiệt ngã
của đồng tiền, chính nó đã hủy hoại tâm hồn con người, giết chết những tình cảm thiêng
liêng nhất và có thể biến con người thành ác thú.
Tiểu thuyết còn miêu tả quá trình phất lên của giai cấp tư sản sau cuộc đại cách mạng
Pháp, nói lên đặc điểm về việc vơ vét tiền để phát tài của giai cấp tư sản trong những
điều kiện lịch sử mới.
LÃO GORIOT( LE PÈRE GORIOT)
Lão Goriot là một tư sản sa sút phải đến sống trong nhà trọ của mụ Vauqueur ở ngoại ô
Pari. Sớm góa vợ, lão dồn tình thương vào hai cô con gái là Anastasie và Delphine. Lão
hết sức chiều chuộng con và tìm mọi cách để cho con được hạnh phúc, bao nhiêu tiền
của lão đều bỏ ra nhằm lo cho con có được tấm chồng giàu sang. Nhưng các cô con gái
và các chàng rể chẳng hề yêu thương lão mà chỉ xem lão như một con bò để vắt sữa. Khi
lão hết tiền thì các con không dòm ngó tới lão.
Cùng ở nhà trọ của mụ Vauqueur còn có Rastignac- dòng dõi quý tộc tỉnh lẻ sa sút, lên
Pari học trường luật mong tìm đường tiến thân. Vautrin- tên tù khổ sai vượt ngục thay
đổi họ tên trốn tránh tại quán trọ bày cách làm giàu độc ác bẩn thỉu cho Rastignac.
Nhưng Rastignac lại muốn tiến thân theo lời khuyên của người chị họ là làm quen và trở
thành tình nhân của Delphine, mong lợi dụng người này để bay nhảy trong giới thượng

lưu xã hội.
Chẳng lâu sau, lão Goriot vì đau buồn chuyện vợ chồng con cái lục đục đâm ra ốm nặng,
chủ yếu vì thất vọng: bao nhiêu công sức đổ vào hai đứa con gái mà vô hiệu. Lúc này lão
đã hết tiền để giúp con. Các con lão chẳng thèm quan tâm. Lúc hấp hối lão kêu gào thảm
thiết với một ước vọng là gặp con lần cuối những họ vẫn thờ ơ. Lão mất, Rastignac và
anh bạn sinh viên y khoa Bianchon góp tiền chôn cất lão. Hai cô con gái, hai chàng rể
đều không đến đưa cha vào nghĩa địa. Khi đắp xong nắm đất cuối cùng lên mộ lão
Goriot, Rastignac quay về phía thủ đô Pari lúc ấy đã lên đèn và ném lời thách thức: “Bây
giờ chỉ còn ta với mày”. Và đến ăn tối tại nhà Delphin- những kẻ mà anh khinh bỉ! Điều
đó cho thấy anh sẵn sàng hoà nhập với những kẻ ấy.
Lão Goriot rõ ràng là nạn nhân của đồng tiền tư bản. Tiền là mục tiêu cao nhất, quan hệ
bố con có nghĩa lý gì khi mà quan hệ ấy không giúp cho lũ con bất hiếu có thêm một
đồng tiền nào nữa.


Tác phẩm miêu tả quá trình trưởng thành của những nhà tư sản quý tộc có tham vọng,
đồng thời phê bình, đả kích quan điểm đạo đức của giai cấp tư sản, vạch trần dục vọng
của con người tràn ngập khắp xã hội hiện thực. Tác phẩm cũng phản ánh sự hiểu biết sâu
sắc của Balzac đối với những mối quan hệ trong hiện thực. Tiểu thuyết thông qua sự thất
bại trên tình trường của phu nhân tử tước nói lên sự thay đổi lịch sử trong giai đoạn thế
lực phong kiến ngóc đầu dậy, sau khi đã bị giai cấp tư sản thay thế.

VỠ MỘNG (LES ILLUSEONS PERDUES)
Lão Nicolas Séchard từ công nhân trở thành chủ nhà in, khi về già lão bán lại doanh
nghiệp cho con trai là David Séchard. Nhưng David lại ham mê sáng chế bột giấy hơn
việc quản lý nhà in, để mặc cho bọn tư sản Cointet trong vùng cạnh tranh ráo riết .
David có người bạn là Lucien Chardon, nhà nghèo, sống với mẹ và chị. David lấy chị của
Lucien và giao nhà in cho nàng.
Bà quý tộc De Bargeton sính văn chương tỏ ra đam mê chàng thi sĩ Lucien. Để được tự
do yêu đương, bà bỏ chồng và rủ Lucien trốn lên Pari.Đến Pari, bà lại bỏ rơi Lucien.

Thế là Lucien bơ vơ, chàng đem văn thơ đi dạm các nhà xuất bản thì bị từ chối. Bấy giờ
phía cộng hòa phía tả có nhóm Darthez gồm nhiều loại trí thức (triết gia, nghệ sĩ, nhà
văn, khoa học, chính trị gia) sống có lí tưởng, miệt mài sáng tạo, phát minh với những
điều gay go. Nhóm có Michel Chrestien, một người mang chí lớn “mong thay đổi bộ mặt
thế giới” đánh đổ nhà nước tư bản, xóa chiến tranh, đã từng có mặt ở chiến lũy cách
mạng những năm 1830 và hi sinh 1832 ở Xanhmer. Đó là một nhà chính trị sắc sảo và
đầy dũng khí. Những người này rủ Lucien gia nhập, nhưng vì không quen với đời sống
của đám thanh niên nghèo nên Lucien đã bỏ đi theo tay nhà báo Lousteau gian xảo,
tham gia vào làng báo tư sản với triết lí “ca ngợi hoặc chửi bới bất kì ai miễn là được cấp
nhiều tiền”. Rồi sau quen được cô đào trẻ Coralie.
Lucien mượn lời trên báo để trả thù bà Bacgiơtông. Bà phản công bằng cách vờ lôi kéo
Lucien về phía bảo hoàng, Lucien tráo trở bỏ ngay báo chí cộng hòa và công kích bạn bè
cũ. Chẳng bao lâu bọn quý tộc lại bỏ rơi Lucien.
Lucien xuống dốc rất thảm hại, phải giả tên anh rể David làm hối phiếu để xoay tiền, tình
hình không khá hơn. Sau khi cô tình nhân Coralie mất thì anh cũng chẳng còn gì đành
thất thiểu lội bộ về quê.
Ở quê nhà, sau khi Lucien đi thì David tiếp tục nghiên cứu bột giấy, khi gần thành công
thì bị bọn Cointet dựa vào những tờ hối phiếu giả do Lucien làm mà nhẫn tâm cướp
không phát minh của David. David không có tiền thanh toán hối phiếu phải trốn chạy.
Lucien lại vô tình tiết lộ chỗ ấn nấu của David nên David đã bắt buộc phải bán phát minh
cho họ.
Lucien buồn bã định tự vẫn thì gặp ngay tên Vautrin, vừa vượt ngục đội lốt cố đạo rủ đi
với hắn lên Pari. Lucien mượn tiền của Vautrin trả nợ cho David. Ra khỏi tù vợ chồng
David đành chọn cuộc sống âm thầm nơi thôn quê.
*******


Cếu nói : cả pho “Tấn trò đời” đều thấm mùi hôi tanh của đồng tiền thì ở tiểu thuyết “Vỡ
mộng”, hơn đâu hết mùi hôi tanh đó nồng nặc đến kinh người. Balzac đã nhìn thấu cơ
cấu kinh tế của thời đại mà điểm nổi bật là sự cạnh tranh tư bản chủ nghĩa tàn bạo và

David là một nạn nhân bi đát. Balzac còn vạch trần bộ mặt xấu xa của các đảng phái
chính trị, luôn kèn cự lẫn nhau vì tiền tài và địa vị. Bên cạnh đó ông còn phơi ra ngoài
ánh sáng cái hậu trường đen tối của hoạt động văn học nghệ thuật như xuất bản, sân
khấu, văn chương và nhất là báo chí- điểm vinh quang mà cũng là “mối điên cuồng” của
thời đại.

CHƯƠNG III: GIỌNG LẠNH LÙNG KHÁCH QUAN CỦA NHÀ
VĂN TỰ NHẬN LÀ “THƯ KÍ CỦA THỜI ĐẠI”
I. TIỂU THUYẾT EUGENIE GRANDET
1. Lão Grandet- một điển hình của giai cấp tư sản.
Tiểu thuyết “Eugenie Grandet” xoay quanh cuộc đời và số phận 3 nhân vật: lão Grandet
giàu có keo kiệt, cô gái thánh thiện Eugenie và tên bạc tình đáng nguyền rủa- Charles.
Là một nhà văn hiện thực, Balzac đã đứng ra kể cho chúng ta nghe những gì tồn tại
trong xã hội tư bản, thế nào là tình thương, thế nào là tiền bạc. Từng trải trong xã hội đó,
Balzac hiểu rõ bản chất thối nát của nó. Balzac có thái độ lạnh lùng khách quan khi miêu
tả quá trình làm giàu của lão Grandet bởi lẽ một con người chỉ sống vì tiền và chết cũng
vì tiền như lão Grandet không phải là xa lạ với Balzac. Trong thế giới nhem nhuốc và hôi
tanh mùi tiền ấy, lão Grandet chỉ là một thành viên, và còn nhiều nhiều lão Grandet nữa
nếu xã hội ấy còn tồn tại.
Lão chọn được một người vợ vừa mang lại cho lão những khoảng tiền thừa kế đáng kể
(nhờ đó lão có của để tham gia đấu giá những cánh đồng nho sau cách mạng 1789 và
trúng thầu rất rẻ), lại vừa là một nội trợ chí tình, hết mực ngoan đạo và tế nhị để cho
chồng vét hết tiền tiết kiệm của mình đồng thời biết tránh hỏi chồng những xu nhỏ.
Balzac chẳng lấy làm lạ mà thẳng thắn nhận xét “già cả như thế mà còn rụt rè e sợ mặt
chồng”. Điều đó chứng tỏ bà Grandet hoàn toàn toàn phụ thuộc vào chồng và khổ sở vì
cảnh sống phụ thuộc ấy. Nói thế chẳng phải Balzac lạnh lùng đâu mà bởi ông chẳng thể
làm gì thay đổi được số phận của những con người đáng thương ấy nên đành khách
quan mà nhận xét, trong sự lạnh lùng dường như ẩn chứa sự cảm thông, chia sẻ. Tính tự
trọng âm thầm dại dột ấy, cốt cách ứng xử cao thượng ấy là điểm nổi bật trong thái độ
xử thế của bà, nhưng “Grandet không hề biết đến và luôn luôn xúc phạm”

Cả gian nhà ấy chỉ có mỗi một ngọn nến, mà khi cần thì “Grandet cầm nến đi ra, để mặc
vợ con và mụ ở ngồi lại với ánh lửa lập lòa của lò sưởi”. Bằng sự khách quan, Balzac cho
ta thấy rõ bản chất keo kiệt của lão Grandet, đáng sợ ở chỗ lão là đại diện cho một xã hội
kim tiền, có bao nhiêu người như lão thì sẽ có bấy nhiêu con người đáng thương như vợ
lão, con gái lão và mụ Nanon
Balzac dường như hiểu quá rõ tính cách của nhân vật này bởi thế trước những hành
động ích kỷ, nghĩ cho riêng mình của lão, Balzac không lấy làm ngạc nhiên. Chứng kiến
để rồi miêu tả sinh động nhân vật Grandet, Balzac sử dụng một giọng điệu khá là khách


quan, không nói thêm nói bớt cho nhân vật tí nào, mà đó là bản chất của lão, tự thân lão
thể hiện thói keo kiệt của mình. Với giọng điệu lạnh lùng ta dễ nhận ra thái độ phủ nhận
xã hội tư sản của Balzac, đó là một xã hội mà đồng tiền là thứ quyền lực cao nhất. Bởi
càng giàu có thì trái tim Grandet càng khô quắt lại, lão “dè xẻn đến cả cử động” của
mình, lão đếm từng miếng đường, cái bánh trong bữa ăn. Ngôi nhà không ánh sáng,
không lửa ấm như chìm ngập trong tập quán keo bẩn của lão gia trưởng Grandet.
Lão Grandet không thích tốt bụng với ai, người nhà, bà con, hay khách khứa cũng chẳng
là gì. Lão chẳng bao giờ nghĩ đến người xung quanh dù chỉ một lần, đối với lão “đời là
một công việc làm ăn” thế nên lão chỉ để cho trái tim xúc động khi mà có đủ lí lẽ để tin
rằng sự xúc động ấy“không tốn kém”.
Grandet không là một tên keo kiệt bình thường mà là tên keo kiệt đặc biệt, với những
nét riêng không giống bất kỳ tên keo kiệt nào trong văn học. Mỗi chi tiết Balzac sử dụng
đều giàu sức biểu hiện, vừa có tính khái quát cao vừa có nét riêng biệt, độc đáo như chi
tiết “ông đã mang cây đèn duy nhất trên bàn đi để đọc thư mà không cần chú ý đến
khách và cuộc vui của họ”. Chi tiết này vừa nêu rõ tính keo kiệt vừa thể hiện thói thô lỗ
không cần điếm xỉa tới ai. Chi tiết được thể hiện với một giọng điệu bình thản, hiển nhiên
có phần lạnh lùng của Balzac càng làm ta hiểu hơn về lão phó thùng bạc triệu này
Grandet là một con người rất thực tế, từ việc thuê “một Nanon hộ pháp”, đến những thủ
đoạn trong kinh doanh, Grandet cao tay đến mức lão thường tự làm như người dốt, nói
năng lúng ta lúng túng, nhức đầu rối trí, để đối thủ của lão mất cảnh giác mà để lộ mưu

cơ. Lão nói với con “quả thật những đồng êquy sống và bò trườn lúc nhúc như con
người, chúng đi chúng lại chúng vã mồ hôi, chúng sinh sản”. Lão đã khởi đầu với 200
đồng và kết thúc ở 17 triệu. Grandet là hiện thân của vị thần hiện đại duy nhất mà người
ta tín ngưỡng, vị thần tiền với tất cả quyền uy của thần.
Balzac cũng phơi bày sự thoái hóa đạo đức của Grander, hậu quả của việc kinh doanh tư
bản chủ nghĩa. Grandet làm chủ một tài sản khổng lồ, nhưng lão cũng bị chính tài sản đó
làm chủ. Lòng tham vô hạn đã khiến lão mất đi những tình cảm thông thường của loài
người, những tình cảm thiêng liêng nhất- tình vợ chồng, tình cha con, tình anh em, tình
chú cháu.
Tác giả nhiều lần cố ý so sánh Grandet với loài vật. “Ông Grandet vừa giống một con hổ,
vừa giống một con trăn: ông biết cách nằm, cách thu hình lại, rình miếng mồi rất lâu và
nhảy ra vồ đúng lúc, rồi há mõm túi tiền ra nuốt chửng một đống vàng, xong, lại nằm im
lìm như một con trăn đang tiêu hóa, thản nhiên, lạnh lùng, có cách thức”, hay lão vồ cái
hộp vàng trong tay con gái như “con cọp vồ một em bé ngủ”, mắt lão thao tháo
như “mắt rắn thiêng trong thần thoại”, dân Saumur không ai không bị “những vuốt thép
trơn bóng” của lão cấu xé một lần.
Sự tàn nhẫn, vô tâm của Grandet làm cho người khác phải sợ hãi. Tuy đã quen nết trơ
như đá của một người trưởng khế, nhưng ông Cruchot cũng thấy lạnh sau xương sống,
khi nghĩ rằng“ông em ở Pari đã kêu cứu vô hiệu quả với ông anh triệu phú này”. Grandet
còn là một tên tư sản keo kiệt độc ác. “Ông ta viết con tính lên tờ báo đăng tin người em
chết, bên tai, tiếng than vãn của người cháu nghe rất rõ ràng, tuy ông không chú ý”


Những người thân thiết nhất của lão cũng không là gì nếu làm tổn thương tiền vàng của
lão. Trong việc Eugenie tặng vàng cho Charles, số vàng ấy lão đã tặng cho con thì con có
quyền sử dụng thế nhưng với lão thì chẳng qua là đem tiền ở hòm này bỏ sang hòm
khác. Khi phát hiện ra mất số vàng thì lão lồng lộn, tưởng như có thể giết cả vợ và con
mình. Mẹ con Eugenie thật tội nghiệp nhưng Balzac buộc phải dùng lời nói khách quan
để miêu tả thái độ hoảng sợ của họ, như vậy mới làm rõ được bản chất khát vàng của lão
già keo kiệt. “Hai mẹ con Eugenie nghe thấy thế vội chuồn về phòng riêng và tót lên

giường nhanh nhẹn như những con chuột hoảng sợ vội rút vào hang”.
Vợ của người giàu nhất thị trấn này phải có trạng thái như sau khi trót bao che việc làm
của con. “Người đàn bà tội nghiệp ấy nằm trằn trọc như em học sinh không học bài lo
sáng hôm sau sẽ nhìn thấy vẻ mặt dữ tợn của thầy giáo. Bà sợ quá quấn chăn kín mít để
đừng nghe thấy gì”
Cô con gái bé bỏng cũng không thoát khỏi móng vuốt của cha mình. “Một ngày đã trôi
qua, một ngày trọng đại, nó sẽ tác động sâu sắc đến cuộc đời của cô tiểu thư thừa tự
giàu sụ mà nghèo xơ ấy. Giấc ngủ của cô từ nay sẽ không say mê cũng không trong sáng
như xưa nữa”.
Sinh ra và lớn lên trong lòng xã hội tư sản, Balzac thừa hiểu biết về cái xã hội tráng lệ
mà cũng thối tha này, xã hội mà tiền bạc là chuẩn mực để đánh giá mọi thứ tình cảm
trên đời, thì tránh sao khỏi việc ông phủ nhận xã hội ấy. Khi mà “những kẻ đức hạnh và
am hiểu sự đời cũng đắn đo tính toán như kẻ gian tà” thì buộc lòng Balzac phải lột bỏ bộ
mặt xấu xa, giả dối của xã hội ấy, chỉ cho chúng ta bản chất của chúng, đó là tinh thần
trong văn Balzac và cũng là đích hướng tới của chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Trên tinh thần phê phán ấy, giọng văn của Balzac không thể ủy mị. Bởi không chủ trương
cải tạo xã hội bằng tình thương như Hugo nên Balzac phải chọn cho mình một giọng điệu
khá lạnh lùng, lạnh lùng như bản chất xã hội ấy và có như vậy mới thể hiện một cách
chân thực sự xấu xa đầy rẫy trong xã hội. Phải khách quan mà nhận xét, phải bóc trần sự
thật, những sự thật mà từ lâu bị cái phù hoa tráng lệ, cái văn minh giả tạo che lấp. Phải
nhìn thẳng và nói thẳng sự thật, sự yếu đuối sẽ không cho ta sức mạnh bóc trần sự thật.
Và Balzac đã làm được như vậy, ông nhận định một cách chính xác về khái niệm “người
biển lận”- một loại người đầy rẫy trong xã hội tư sản- “quyền lực của con người ta làm
bằng thời gian và sự kiên trì. Người biển lận luôn luôn đem quyền lực của con người phục
vụ bản ngã. Hắn chỉ dựa vào hai tính nết: tính tự kỷ và tính vụ lợi”. Có lẽ vì vậy những
nhân vật biển lận được thể hiện khéo trên sân khấu bao giờ cũng làm cho công chúng
chú ý không biết ngần nào.
Ngay với Grandet, Bazac dù đã quá quen thuộc tính nết của lão, nhưng rồi cũng phải
thốt lên một câu khách quan rằng “Grandet quả có cái gì khác thường thật”. Phải chăng
vì “cũng như tất cả những người biển lận khác, ông ta luôn luôn thấy thèm đánh một

nước bài gì với lũ người, để lùa tiền của chúng một cách hợp pháp. Buộc được người ta
đem của nộp cho mình, như thế không phải là biểu thị quyền lực của mình hay sao?
Không phải là giành vĩnh viễn cái quyền khinh thị những kẻ cam chịu xé xác vì quá yếu
hèn trên quả đất này hay sao? Ôi, ai hiểu được cái hình tượng con cưù non nằm bình yên


dước chân Chúa? Đó là biểu hiện cảm động nhất về những kẻ bị thiệt thòi trên cõi đời,
đồng thời là biểu tượng của tương lai họ, tóm lại đó là sự đau khổ, sự yếu hèn được biểu
dương. Con cừu non ấy người biển lận để yên cho nó béo mập lên, rồi hắn ta nhốt nó lại,
giết nó, nấu thịt nó, ăn thịt nó và khinh rẻ nó. Thức ăn của bọn biển lận là tiền bạc và sự
khinh người”
Mọi hoạt động, suy tính của lão Grandet này chỉ nhằm một lý tưởng cao nhất đời lão
là “riêng mình không phải bỏ ra một đồng xu nhỏ nào”.
2. Tiểu thư Eugenie Grandet- sự ngập ngừng của Balzac
Một người như lão Grandet nhận được thái độ lạnh lùng của Balzac là điều dễ hiểu,
nhưng với nhân vật Eugenie, người mà Balzac lấy làm ưu ái khi xây dựng thì đôi khi tác
giả cũng khách quan miêu tả quá trình phát triển tâm lý của nhân vật. “Người cha và
người con gái đều kiểm kê tài sản của mình, cha để mang vàng đi bán, con để đổ vào
biển ái nguồn ân”.
Tính cách Eugenie phát triển, cùng với sự thức tỉnh của tình yêu, trong nàng hình thành
những nét tâm lý mới. Vốn phục tùng và giản đơn, nàng bắt đầu có nhận xét và phản
ứng.“Nghe cha nới một cách phù phàng về nỗi đau mất bố của Charles, Eugenie rùng
mình. Từ giờ phút ấy nàng bắt đều xét đoán cha mình”
“Hắn sẽ đi Ấn Độ, cô sẽ không bao giờ gặp lại hắn”. Lời phán quyết của cha không dập
tắt tình yêu trong nàng. Từ cái nhìn “bình tĩnh” khi lấy lại đĩa đường, thái độ “gan
góc” đưa nho mời cha và Charles đến việc tặng vàng, bảo vệ kỷ vật của người yêu, sự
chống đối của nàng quyết liệt dần. Sự nhảy cảm khiến nàng sắc sảo không ngờ. Đương
đầu với Grander trong vụ túi vàng, nàng “lạnh lùng” trước sự tra hỏi, “thản nhiên” khi bị
quát mắng, và “kiêu hãnh”chịu phạt giam. Điều đó khiến lão già Grandet phát khùng mà
thừa nhận “gan lì hơn cả cha”. Thực tế là tác giả đã giảm bớt giọng lạnh lùng khách

quan khi tả Eugenie, ông dùng khá nhiều lời văn lãng mạn trân trọng nhân vật này. Về
sau khi tính cách của cô thay đổi nên nhà văn mới đổi sang giọng lạnh lùng, thế nhưng
Balzac vẫn còn sự ngập ngừng.
Cuối cùng nàng không phải là người chiến thắng, cái thế giới của Grandet đã nghiền nát
giấc mơ yêu đương hạnh phúc của nàng, ảnh hưởng của nó còn len lỏi con người nàng,
chi phối tính cách của nàng. Dẫu xót thương và yêu mến Eugenie vô hạn nhưng Balzac
vẫn lạnh lùng chỉ ra sự thật đáng buồn. “Tối tối cái sân chầu của Eugenie vẫn đủ mặt bá
quan” như hệt bảy năm về trước, với Eugenie thì việc “được tôn nữ hoàng dần dà làm
nàng quen đi”, cái thói quen làm con người tê liệt. Sau những tháng năm chờ đợi những
gì còn lại với cô là cảnh đổ vỡ hoàn toàn và ghê gớm. Eugenie mất cả niềm tin tưởng,
nàng nói với kẻ cầu hôn mình “Thưa ông chánh án, tôi biết ông lấy tôi vì cái gì”
Một người thánh thiện như Eugenie quả là hiếm hoi trong xã hội tư bản, nhưng xã hội ấy
có để yên cho những con người hiền lành ấy không, hay nó buộc Eugenie trở thành
người đồng lõa với nó. Dẫu rất thương nhân vật nhưng Balzac đành lạnh lùng chứng kiến
nhân vật của mình đi vào ngõ cụt.
Eugenie trong sáng trở thành vật hy sinh cho quá trình tha hóa của đồng tiền, số phận
đau buồn của nàng là sự hy sinh cho túi tiền của Grandet và Charles. Eugene cô đơn


giữa những vòng vây, những âm mưu, những toan tính tham lam và tàn nhẫn của giai
cấp tư sản, đây không phải là trường hợp bất thường mà là cảnh muôn đời diễn ra trong
khắp xã hội tư sản. Thế nên “cái quả tim cao quý chỉ đập vì tình thương yêu lại mắc vào
vòng tính toán danh lợi của người đời, tiền bạc đã truyền hơi lạnh qua con người ấy và
làm cho một người đàn bà hoàn toàn tình cảm đâm ra nghi ngờ các thứ tình cảm”
3. Charles – con người chạy theo tiền tài, chìm trong ước mơ danh vọng
Một nhân vật nữa được Balzac miêu tả với thái độ lạnh lùng bởi tác giả phần nào dự
đoán trước những việc y làm, đó là chàng công tử Pari xinh đẹp, phong nhã- Charles,
nhưng sau những năm nổi trôi, miền đất Ấn Độ đã nhào nặn lại cho Charles một hình
thức mới, một đạo đức mới, không còn dáng vẻ yếu đuối, khờ khạo của ngày xưa
nữa. Chàng đã chiụ sự giáo dục kinh khủng của cái xã hội thượng lưu. Ở xã hội ấy, “bằng

tư tưởng, bằng lời nói, trong một buổi tối người ta phạm nhiều tội ác bị trừng trị từ xưa tới
nay trong các phiên tòa đại hình: ở xã hội ấy, những câu hóm hỉnh giết chết những tư
tưởng lớn lao nhất, ở xã hội ấy chỉ có những người nhận xét đúng mới là người cừ, mà ở
đây nhận xét đúng nghĩa là không tin gì cả, không tin tình nghĩa, không tin người, không
tin cả đến sự việc, về sự việc thì họ muốn đặt để ra gì tùy ý”. Ở đây, muốn nhận xét
đúng, phải “nhấc túi tiền của bạn mỗi buổi sáng xem thử nặng nhẹ, phải biết khôn khéo
đặt mình lên mọi biến cố, phải biết lâm thời không khâm phục một cái gì cả, không khâm
phục những tác phẩm nghệ thuật, không khâm phục những hành động cao quí, cho mọi
việc ở đời đều do một động cơ duy nhất là quyền lợi cá nhân”.
Bản chất xã hội là thế phải đâu Balzac bôi đen cuộc sống, không có chút chủ nghĩa nhân
đạo nào. “Chàng đã bị tiêm nọc độc ích kỷ mà chàng không biết. Cái mầm kinh tế học
chính trị học riêng của Pari lâu nay ngấm trong cơ thể chàng, sẽ tức tốc nảy nở, đâm hoa
kết quả khi chàng không còn làm người khách xem nhàn rỗi, mà trở thành người diễn
viên trong tấn trò đời”
Giờ đây “Kiên quyết làm giàu bất chấp thủ đoạn, hắn giống như những người vội vã sống
cho xong cảnh đê hèn”. Với suy nghĩ ấy “Charles xây dựng cơ đồ một cách rực rỡ và
chóng vánh”. Gã cũng chạy theo công việc làm ăn, chạy theo tiền và chìm đắm trong
dục vọng. “Tim hắn đã đông đặc lại, co nhỏ lại, khô héo”. Charles bỏ quên Eugenie bởi
một lý do đơn giản quá mức “ tiền đã giết chết tình”.
*******
Là bức tranh xã hội rộng lớn “Eugenie Grandet” phản ánh chân thật con đường tư sản
hóa của giai cấp quý tộc Pháp. Tác phẩm thể hiện sâu sắc nhận xét của Mac và
Engels. “Giai cấp tư sản đã biến phẩm cách con người thành một giá trị trao đổi tầm
thường, giai cấp tư sản đã xé toạc bức màn tình cảm phủ lên trên những quan hệ gia
đình và biến những quan hệ ấy thành ra chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần”.
Lạnh lùng miêu tả quá trình thoái hóa của đồng tiền đâu phải là lỗi của Balzac. Qua tác
phẩm ta nhận thấy rằng, Balzac là người xuất sắc hiểu biết sâu xa về mối quan hệ thực
tại.
II. TIỂU THUYẾT LÃO GORIOT



1. Quán trọVauquer- Pari thu nhỏ
Câu chuyện này diễn ra chủ yếu tại nhà trọ Vauquer, một xó xỉnh trong lòng đại dương
Pari mênh mông, nơi tàng ẩn của những kẻ bị cơn bão cuộc đời xô dạt hay những kẻ ẩn
nấp chờ cơ hội xông ra cuộc sống. Những con người thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác
nhau tập hợp tại đây: sinh viên, công chức, quý tộc phá sản, tù khổ sai …..rất nhiều hạng
người nữa nhưng“Pari đẹp đẽ này không biết đến những gương mặt nhợt nhạt vì những
đau khổ tinh thần hay thể xác nào đó. Pari là một đại dương thực thụ. Bạn hãy ném vào
đó một chiếc máy dò, bạn sẽ không bao giờ đo nỗi độ sâu của nó đâu! Bạn hãy đi vòng
quanh khắp lượt, hãy miêu tả nó! Dù bạn có thận trọng khi đi qua nó, mô tả kỹ nó, dù
những nhà thám hiếm đại dương có đông đúc và hứng thú đến đâu, vẫn luôn bắt gặp ở
đó một nơi khai sinh, một hang động chưa ai biết đến, những hoa, những viên ngọc trai,
những con quỷ, một vài thứ kì lạ khó tin, bị lãng quên bởi những thợ lặn tài tử. Nhà trọ
Vauquer là một trong những nơi quỷ quái lạ lùng đó”. Lời giới thiệu mới lạnh lùng làm
sao. Xã hội Pari hiện lên qua lời giới thiệu ấy tuy chưa rõ nét nhưng ta phần nào hình
dung được những ung nhọt, thối nát bên trong nó. Thật đáng sợ khi biết rằng nhà trọ này
là Pari thu nhỏ.
Những người cư ngụ trong nhà trọ ấy vốn không có nhiều tiền. Điều đó chẳng có gì lạ khi
quán trọ ấy chẳng có vẻ gì sang trọng. Đáng lưu ý là những khách trọ ở đây cũng nghèo
về tình cảm.“Mỗi người đều có một sự dửng dưng trộn lẫn với việc không tin tưởng đối
với những kẻ kia, do các cảnh ngộ riêng tư của mỗi người. Nó cho thấy sự bất lực trong
việc chia sẻ nỗi đau của họ”. Tất cả đều “tỉnh bơ đi trên đường phố trước một người mù,
nghe kể chuyện về một người bất hạnh không chút cảm xúc và nhìn thấy ở cái chết giải
pháp cho vấn đề nghèo khổ, điều đó làm cho họ lạnh lùng trước cả cảnh hấp hối kinh
hoàng nhất”.
Trên đây là lời giới thiệu sơ lược của Balzac về xã hội Pari, về quán trọ của bà Vauquer và
về tình cảm con người trong xã hội ấy. Không dài dòng không triết lý, Balzac nói rất
ngắn, rất khẽ thế nhưng thật ngậm ngùi. Là nhà văn hiện thực ông lên tiếng tố cáo xã hội
tư sản, tố cáo thời đại mà đồng tiền là cán cân công lý. Trong cái thế giới quỷ quái ấy con
người chỉ biết sống cho riêng mình, họ thờ ơ với tất cả, thản nhiên với tất cả. Dẫu sao thì

trên đây cũng chỉ là lời khái quát, còn cụ thể ra sao chắc phải đi sâu vào tác phẩm ta
mới hiếu hết ý nghĩa những lời nhận xét lạnh lùng này của Balzac.
2. Vautrin- người phát ngôn của Balzac
Tiểu thuyết Lão Goriot là một tác phẩm không kém phần quan trọng trong việc đánh dấu
bước phát triển mới trong sự nghiệp sáng tác của “bậc thầy chủ nghĩa hiện thực”. Trong
tiểu thuyết này lần đầy tiên Balzac nảy ra ý nghĩ vẽ lên toàn bộ bức tranh xã hội rộng lớn
trong cả pho “Tấn trò đời” của ông. Và cũng lần đầu tiên ông có sáng kiến xây dựng
những nhân vật “tái xuất hiện” ở nhiều tác phẩm khác trong bộ “Tấn trò đời”. Vautrin và
Rastignac thuộc vào những nhân vật tái xuất hiện đó, có thể xem đây là hai nhân vật loại
trung tâm của “Tấn trò đời”.
Vautrin chỉ đóng vai phụ trong tác phẩm này nhưng hắn biết rõ hơn ai hết cái động cơ
của xã hội tư sản là đồng tiền. Hắn từng truyền giáo lý bẩn thỉu cho những thanh niên


non trẻ như Rastignac nhằm biến họ thành tay chân của hắn. Trong những lần đầu nhân
vật này xuất hiện, Balzac đã kín đáo nhận xét về hắn, bằng giọng khách quan ta thấy
nhà văn đã cảnh báo cho mọi người về đạo đức của hắn. Đây không phải một người
lương thiện. “Những người hời hợt nông cạn như bọn thanh niên trẻ tuổi bị lôi cuốn vào
vòng xoáy của cuộc sống ở Pari, hoặc là những người già kia thờ ơ với những gì không
trực tiếp đụng chạm tới họ thì không nói làm gì, chứ những người sâu sắc hơn hẳn sẽ
không dừng lại ở cảm giác e ngại mà Vautrin gây ra cho họ. Ông ta biết hoặc đoán biết
được công việc của những người ở xung quanh mình trong khi đó thì không gì có thể
xâm nhập vào ý nghĩ cũng như công việc của ông ta”.
Nói đến ý nghĩa xã hội của tiểu thuyết này, của bộ “Tấn trò đời” không thể bỏ qua vai trò
của nhân vật Vautrin, nhất là cái bài học vào đời đáng sợ mà hắn truyền cho chàng
thanh niên Rastignac trong quán trọ của mụ Vauquer. Những câu như “cậu còn quá trẻ
để hiểu rõ Pari. Sau này cậu sẽ hiểu được đây là nơi gặp gỡ của những con người đầy dục
vọng”. Thật vậy, Pari là nơi gặp gỡ của những con người đầy dục vọng, hai cô con gái
của lão Goriot mãi đeo bám vào bậc thang của xã hội thượng lưu, chàng sinh viên luật
cũng đua đòi lên cho được bậc thang ấy, mụ chủ quán cũng mong rời bỏ quán trọ tồi tàn,

bản thân Vautrin muốn kiếm một số tiền lớn để sang Mỹ làm lại cuộc đời….. Mỗi người
một tham vọng và họ gặp nhau tại quán trọ này.
Vautrin là người phát ngôn, nhưng đằng sau ấy là giọng của Balzac. Rất nhiều câu nói
của Vautrin làm ta suy nghĩ, nhất là thái độ bất mãn của hắn đối với xã hội này, cách
nhận xét ấy là của một tên tù vượt ngục hay là của một con người đã từng sinh ra,
trưởng thành, trải qua sống gió của xã hội tư sản như Balzac. Những lời nhận xét về con
người tham vọng trong xã hội tư sản rất sắc sảo. “Những kẻ đó thường có một ý định nào
đó nhưng lại không biết thực hiện nó như thế nào. Họ chỉ khát một thứ duy nhất được lấy
từ một nguồn nước nhất định mà thường lại là nước tù đọng. Để uống được thứ nước đó,
họ bán vợ, bán con, bán luôn cả tâm hồn họ cho quỷ dữ. Đối với kẻ này thì nguồn nước
đó là cờ bạc, là thị trường chứng khoán, là bộ sưu tập tranh hoặc côn trùng, âm nhạc,
còn với kẻ khác lại là một phụ nữ biết làm các kiểu loại bánh kẹo. Với những kẻ này dù
cậu có tặng họ tất cả đàn bà trên thế giới này thì họ cũng chẳng cần. Họ chỉ muốn có
người phụ nữ biết thỏa mãn dục vọng của họ mà thôi”.
Pari là thế giới mà giai cấp quý tộc làm chủ, là thế giới của kẻ có tiền. Tiền là thang điểm
đánh giá đạo đức con người. “Những người đi xe đến đây đều được coi là những người
danh giá. Còn những ai đi bộ đến đều bị coi là quân lưu manh”.
Bài học đầu đời bẩn thỉu nhưng là những sự thật, là vấn đề thời sự. “Giàu có nhanh
chóng là một vấn đề mà trong lúc này năm mươi nghìn thanh niên trẻ tuổi dự định sẽ
đạt được”. Để vượt qua năm mươi nghìn thanh niên khác thì Rastignac phải làm đúng
những gì Vautrin chỉ dạy. “Người ta phải theo ánh hào quang của các bậc anh tài hoặc sự
khéo léo trong lừa lọc mua chuộc. Cần phải thâm nhập vào đám đông người đàn ông
như một loạt đạn đại bác, hoặc len lỏi vào đó như một bệnh dịch. Thành thực chẳng để
làm gì cả. Chúng ta phục tùng quyền lực của bậc anh tài, chúng ta căm ghét hắn, chúng
ta ra sức vu khống hắn, bởi vì hắn ta không chia sẻ với chúng ta, nhưng chúng ta vẫn


phải phục tùng vì chúng luôn tồn tại. Nói tóm lại, chúng ta quỳ gối ngưỡng mộ hắn khi
chúng ta không thể chôn vùi hắn dưới bùn đen”.Rastignac có thể làm theo lời giáo huấn
ấy không? Sợ rằng không thuyết phục được chàng thanh niên trẻ, Vautrin nhấn mạnh “Ở

Pari một người quân tử là một người im lặng, và từ chối chia sẻ”.Thật đáng sợ, người
quân tử mà thế ư?
Làm giàu theo cách thối tha nhất, Vautrin không ngần ngại phô bày những thủ đoạn
kiếm tiền dơ bẩn cho chàng trai nhằm dẫn dắt chàng vào đạo quân ăn cướp của mình,
trở thành đồng bọn, tay chân cho mình. “Để làm giàu vấn đề là phải đánh những quả
lớn; nói một cách khác là lừa đảo. Nếu như trong hằng trăm nghề muốn làm, ngươi gặp
mười người đàn ông chớp nhoáng trở nên giàu có thì cả mười tên đều bị công chúng gọi
là những tên kẻ cắp. Hãy rút ra bài học cho mình đi, đời là vậy ! Điều đó chẳng đẹp hơn
gì cái bếp bẩn thỉu bốc mùi, nếu đôi bàn tay có bị nhơ bẩn vì sự ăn vụng thì phải biết rửa
sạch khi xong việc. Cái đó là một đạo lý trong thời kỳ hiện nay”. Đạo lý trong giai đoạn
này ư? Nếu đó được xem là đạo lý thì chắc rằng xã hội ấy chỉ hợp với loài vật mà thôi.
Nhưng tiếc rằng đó lại là xã hội của con người, con người thượng lưu! Lời văn thật đáng
sợ nhưng chẳng thể nói khác sự thật, Vautrin khẳng định lần nữa những gì mình vừa
nói. “Ta nói với ngươi như vậy về thiên hạ, bởi thiên hạ đã dạy ta như thế, ta rất biết điều
đó”.
Thoát sao khỏi thế giới khủng khiếp ấy, bao nhiêu thủ đoạn, bao nhiêu cách kiếm tiền
được phơi bày qua giọng văn lạnh lùng của Balzac. “Có nhiều cách để săn: kẻ này săn
của hồi môn, kẻ khác lại săn cái loại hối phiếu có giá trị thanh toán, lại có kẻ câu tư
tưởng của người khác hoặc ngược lại tự bán những gì mình vốn có. Những kẻ nào trở về
với cái túi đầy tiền thì sẽ được xã hội thượng lưu chào mừng, cổ vũ và đón nhận”.
Xã hội này chỉ dung nạp những kẻ có tiền, tiền là tất cả, đạo đức chẳng đáng đồng xu,
tình người chỉ là thứ xa xỉ, Pari này nhận vào hàng ngũ của nó những kẻ chỉ biết đến
tiền. “Nếu những nhà quý tộc cao ngạo trên thế giới từ chối một nhà triệu phú bỉ ổi vào
hàng ngũ của họ, thì chính Pari sẽ chìa tay ra đón nhận, sẽ ăn tối và cụng ly để chúc
mừng những chiến công mà hắn đã đạt được”.
Bài học của Vautrin khó nuốt thật. Sợ chàng sinh viên luật cân nhắc giữa thủ đoạn này
với luật pháp đã học được. Vautrin dặn dò “hãy bỏ qua con người và hãy nhìn tấm lưới
xem qua đó người ta có lọt ra khỏi Bộ luật được không. Bí mật của những tài sản lớn
không có nguyên nhân rõ rệt chính là một tội ác đã được quên đi bởi lẽ nó không để lại
dấu vết gì”.

Balzac không xa lạ với xã hội này, ông mượn lời của Vautrin để tố cáo nó, để mọi người
thấy bản chất của giới tư sản, một xã hội chỉ biết đến hình thức bên ngoài chứ chẳng cần
sự lương thiện bên trong. “Hầu như tất cả thanh niên đều bị khuất phục bởi một quy luật
với vẻ bề ngoài khó hiểu. Giàu hay nghèo, họ không bao giờ đủ tiền để trang trải những
nhu cầu cuộc sống, trong khi đó họ luôn luôn tìm thấy những điều cần thiết cho kiểu
cách của họ. Cho đi tất cả những cái đạt được, họ keo kiệt với tất cả những cái họ cần
phải có và hình như họ muốn rửa nhục những cái mà họ không có bằng cách tiêu xài


lãng phí những cái họ có thể có. Như vậy để thấy rõ vấn đề một sinh viên chú trọng đến
chiếc mũ của mình hơn là đến quần áo”
Ý đồ của Vautrin là đánh đổ những băn khoăn của Rastignac, thế nên y triết lý về đạo
đức.“Tính vô tâm của những kẻ ích kỷ ở Pari là mỗi buổi tối họ đều cần đến những miếng
mồi khác nhau để xâu xé mổ xẻ”. Sau đó y nêu lên những tội ác không được đưa ra ánh
sáng để kết luận lương tâm chỉ có trong tưởng tượng. Muốn sống trong xã hội này thì
hãy vứt bỏ lương tâm đi và tập giả dối. “Tình yêu ở Pari khác hẳn với những nơi khác, ở
đây không một người đàn ông hay một người phụ nữ nào lại khờ khạo phô trương tình
cảm của mình ở những nơi công cộng, nơi mà ai cũng tỏ ra tế nhị khi bộc lộ các gọi là
tình cảm vô tư, trong sáng của minh, một người phụ nữ không được chỉ hài lòng với quan
hệ tình cảm và ham muốn dục vong mà họ còn có rất nhiều nghĩa vụ phải thực hiện và
hàng nghìn điều đáng tự hào mà cuộc sống tự tạo nên. Ở trong xã hội đó tình yêu chủ
yếu giống sự khoe khoang, bịp bợm thật phung phí, trơ trẽn và xa xỉ”.
Những câu nói phũ phàng về xã hội làm tê liệt Rastignac. Bài học của Vautrin thì đã kết
thúc nhưng dư âm của nó thì vẫn ngân vang trong trí óc chàng trai trẻ. Balzac mượn lời
Vautrin để nói về xã hội tư sản này và ông đã nói rất chính xác. Balzac, người thư kí của
xã hội Pháp tuy đặc tả về những cái xấu, cái ác trong tác phẩm nhưng không vì thế mà
ông mất niềm tin vào con người. Cái nhìn của ông về con người rất sâu sắc.
Dầu xã hội trong Lão Goriot dần hư hỏng nhưng không hẳn tắt ngấm ngọn lửa tình
người. Balzac đã khẳng định những phẩm chất cao đẹp của con người ở một giọng điệu
khác, giọng điệu lãng mạn và phần sau ta sẽ tìm hiểu. Ở giọng điệu lạnh lùng này, ta chỉ

xem xét những câu văn mang tính ghi nhận, chép lại sự thật xã hội từ người thư kí
Balzac.
3. Bà tử tước – người thầy thứ 2 của chàng sinh viên trẻ
Bài học ấy không được Rastignac chấp nhận. Chàng tìm con đường tiến thân khác, nhẹ
nhàng và có phần danh giá hơn. Chàng tìm đến một bà giáo dạy phép thanh lịch, không
ai xa lại đó là người bà con xa của chàng, bà tử tước Beauseant. Không phụ lòng dạy
bảo của bà, chàng Rastignac, một con người vốn có tấm lòng trong sáng, lương thiện
dần thay đổi. “Chàng đã nghiên cứu được bộ luật của riêng Pari mà không có một trường
nào dạy cả. Nếu thuộc và ứng dụng nó tốt thì sẽ đạt được mọi điều mà mình mong
muốn”.
Bà tử tước không hoạt động trong giới tư sản, bà là một phụ nữ quý phái, có giành được
chút thiện cảm của Balzac. Về phương diện nào đó bà cũng là nạn nhân của thế giới độc
ác này. Thế nhưng bà không giúp anh xa rời nó mà giúp anh thích nghi. “Hãy đối xử với
cuộc đời này đúng với bản chất của nó”
Người đàn bà từng yêu và đã bị tình yêu chân thật làm tổn thương ấy giờ hiểu ra lẽ đời
và truyền lại kinh nghiệm ấy cho chàng trai trẻ. “Cậu càng tính toán lạnh lùng cậu càng
đi đến đích trước. Đánh không thương tiếc, cậu sẽ được thiên hạ sợ. Chỉ chấp nhận
những người đàn ông và những người đàn bà như những con ngựa đưa thư mà cậu sẽ để
mặc cho nó mệt lử qua mỗi trạm nghỉ tiếp sức thôi, cậu sẽ đến được đỉnh cao của dục
vọng. Hãy nhìn xem, cậu sẽ chẳng là gì ở đây nếu không có một người phụ nữ quan tâm


đến cậu. Người phụ nữ mà cậu cần phải trẻ trung, giàu có và rộng lượng. Nhưng nếu cậu
có tình cảm thực sự hãy giấu nó đi như một tài sản, đừng bao giờ để tài sản đó bị nghi
ngờ, anh bạn sẽ mất tất cả đây. Cậu sẽ không còn là kẻ tàn nhẫn nữa nếu cậu trở thành
nạn nhân! Nếu cậu chưa bao giờ yêu, hãy giữ lại thành bí mật của mình, đừng giao nó
trước khi biết rõ về người mà cậu muốn mở trái tim mình. Để cố giữ tình yêu này trước
khi nó không còn tồn tại nữa, cậu nhớ hãy học cách đề phòng cái thế giới này”.
Lời dạy của bà dẫu không trâng tráo như bài học của Vautrin nhưng cũng giúp tố cáo cái
xã hội tư sản đểu giả. Con người muốn sống lương thiện cũng không được, phải sống nhỏ

nhoi, sống tàn nhẫn. Bạn sẽ trở thành nạn nhân nếu bạn nghĩ đến người khác. Đó là lối
sống duy nhất nếu muốn tồn tại ở thế giới này. Bài học cuộc đời đã có cách giải. Muốn
vào đời phải nhuộm đen lương tâm đi, bán linh hồn đi đã. Và bà tử tước còn trao cho
Rastignac chiếc chìa khóa vàng mở của vào xã hội thượng lưu, đó là nàng Delphin.
4. Chàng sinh viên dần sa ngã bởi những bài học kinh khủng
Những giáo huấn của Vautrin, của bà tử tước không ít thì nhiều dần ngấm vào trí
óc chàng trai trẻ. Balzac khách quan miêu tả sự thay đổi ở con người ấy. “Trí tưởng
tượng bay đến tận đỉnh cao xã hội Pari, đã nhồi vào tư tưởng chàng hàng nghìn tư tưởng
xấu xa, mở rộng tầm nhìn và nhận thức cho chàng. Chàng sống trên đời như thể chàng
là luật pháp và là luân lý nhưng không có hiệu lực của giới giàu có”.
Chàng đã ngẫm ra một chân lý “của cải là sức mạnh”. Và Rastignac quyết định mở hai
chiến hào song song “ở tình yêu và học vấn để tiến đến sự giàu sang, vừa là một tiến sĩ
khoa học vừa là con người hợp thời, nhưng chàng vẫn còn quá ngây thơ! Hai con đường
đó không bao giờ đồng hướng mà nhất lại là ở con người của Eugéne”. Nhận định này
của Balzac thật chính xác, làm sao đạt được cả hai điều ấy. Tình yêu và danh vọng chỉ đi
chung trên con đường được trải bằng những đồng tiền vàng, chàng chưa nhuộm đen
lương tâm mà đã muốn có những thứ được đặt ở đỉnh cao trong xã hội. Con đường làm
giàu của chàng sẽ rất khó khăn bởi chàng mới hiểu về xã hội qua lý thuyết, khi nào
chứng kiến tận mắt, khi nào là nạn nhân của nó chàng mới thành công được.
“Cuộc sống ở đất thị thành Pari là những trận chiến liên miên không dứt”. Biết là vậy
nhưng mơ ước bước vào thế giới thượng lưu vẫn rực cháy trong tim chàng sinh viên
nghèo. Balzac tỉ mỉ miêu tả chàng trong niềm vui nhận được tiền trợ cấp của gia
đình. “Khi nghe thấy những tiếng sột soạt của tiền trong túi thì chàng sinh viên nghèo
như thấy mình đang được dựa vào một cái cột thần kỳ. Chàng bước đi kiêu hãnh và vững
vàng hơn trước, chàng đã có một điểm tựa cho chiếc đòn bẩy của cuộc đời mình. Chàng
nhìn vào điểm tựa đó, chàng cảm thấy mọi hoạt động của mình trở nên linh hoạt
hơn”.“Chàng như con chim tìm lại được đôi cánh đã mất của nó”. Chỉ với từng ấy tiền
cũng đủ cho chàng bay bổng trong giấc mơ, “Pari đã hoàn toàn thuộc về chàng”.
Muốn làm người lương thiện trong một xã hội thối nát không phải là dễ. Từ một người có
tình cảm chàng dần thay đổi. “Chàng nhìn thế giới như một đại dương đầy bùn, trong đại

dương ấy người đàn ông sẽ bị ngập sâu đến cổ, nếu nhúng chân vào đó, ở đó toàn là
những tội ác ti tiện”. Và chàng nhận thấy “Ba biểu hiện lớn của xã hội: sự phục tùng, sự
vật lộn và sự nổi loạn, tức là gia đình, xã hội thượng lưu và Vautrin”.


*******
Trong tiểu thuyết Lão Goriot, Balzac đóng vai trò của một nhà khoa học chuyên nghiên
cứu về con người tư sản, có khi nhà văn trực tiếp lên tiếng, khi lại nhờ nhân vật trong tác
phẩm nói hộ mình những nhận định hết sức sắc sảo về những con người tư sản ấy. Bằng
giọng lạnh lùng Balzac chỉ rõ bản chất của xã hội thượng lưu. Nơi ấy tiếp nhận mọi con
người bẩn thỉu, mọi loại người xấu xa. Đạo đức, lương tâm, nhân cách chẳng đáng một
xu. Hãy học những giáo lý từ Vautrin, bà Beauseant, bạn sẽ nhanh chóng bước vào xã
hội của những con người quý tộc, ngồi trên những cỗ xe lộng lẫy, với những phu nhân
xinh đẹp. Balzac biết về con người tư sản một cách cặn kẽ. Hiểu chúng, miêu tả chúng,
lột bộ mặt giả dối của chúng để chúng ta nhận dạng, để chúng ta sợ hãi mà tránh xa.

III. TIỂU THUYẾT VỠ MỘNG
1. Xã hội Pari- nơi chỉ chiếu cố đến kẻ giàu có
“Vỡ mộng”- một trong những tác phẩm tiêu biểu của “Tấn trò đời”, được viết từ 1837đến 1843, gồm 3 quyển. Hiện thực được phản ánh trong cuốn tiểu thuyết rất phong phú.
Tiểu thuyết “Eugenie Grandet” chỉ thể hiện những biến cố trong một gia đình tư sản ở
tỉnh lẻ. Sự việc trong tiểu thuyết “Lão Goriot” có phức tạp hơn, diễn ra trong khung cảnh
rộng hơn, ngoài quán trọ Vauquer còn có các phòng khách của giới thượng lưu Pari. Còn
“Vỡ mộng” thì bao gồm cả cuộc sống tỉnh lẻ và cả ở Pari, phản ánh nhiều mối quan hệ
nhiều loại người khác nhau như: quý tộc, tư sản, nhà văn, nhà báo, nhà xuất bản, nhà
khoa học, diễn viên, nhà cách mạng dân chủ….Vậy nên, “Vỡ mộng” là bức tranh đầy đủ
nhất, duy nhất trong đó tác giả bao quát được xã hội ở thời đại mình.
Chủ đề tác phẩm cũng mang tính khái quát lớn. Tác phẩm nêu lên sự tan vỡ của các lý
tưởng trước thực tế tư sản tàn nhẫn. Trong tiểu thuyết, Balzac đã thâu tóm được tâm
trạng con người ở thế kỉ XIX và nội dung cơ bản của hầu hết tác phẩm văn học thế kỉ này.
Tài năng và cảm hứng của nghệ sĩ, trí tuệ và nghị lực của nhà nghiên cứu, nhiệt tình của

tuổi trẻ, những ước mơ về vinh quang, hạnh phúc, phát minh, sáng tạo….đều biến thành
con số không. Những năng lực, những tham vọng được thức tỉnh sau cách mạng tư sản,
những sản phẩm cao nhất của bước phát triển tư sản bị chính nền tảng xã hội tư sản hủy
diệt.
Balzac viết tiểu thuyết này khi ông bước vào giai đoạn sáng tác già dặn nhất. Thế nên
khi so với “Miếng da lừa” hay “Eugenie Grandet” thì rõ ràng chủ nghĩa hiện thực ở
Balzac trong “Vỡ mộng” đã cao hơn, sâu sắc hơn, nhạy bén hơn. Một mặt nó đã thoát
khỏi về căn bản ảnh hưởng ban đầu của chủ nghĩa lãng mạn với những yếu tố hư ảo,
quái đãn, có khá nhiều trong “Miếng da lừa”. Mặt khác mức độ điển hình hóa, khái quát
hóa xã hội của nó đã vượt hẳn “Eugenie Grandet”.
Bằng giọng lạnh lùng, người thư kí của thời đại viết lại cho người đọc trang sử xã hội
mình đang sống. Trước hết về chính trị “thời đó đầu óc đảng phái gây nên những mối
căm thù nghiêm trọng hơn nhiều so với ngày nay. Ngày nay lâu dần cái gì cũng nhụt đi
vì tình thế căng thẳng quá. Ngày nay sau khi vùi dập quyển sách của một người, giới phê
bình lại bắt tay với hắn. Kẻ nạn nhân phải hôn người đã hi sinh hắn, nếu không sẽ phải


ăn đòn của sự giễu cợt. Nếu từ chối nhà văn sẽ mang tiếng là khó chơi, khó tính, đầy tự
ái, khó gần hay mang oán, mang thù. Ngày nay, khi một tác giả bị kẻ phản bội đâm vào
lưng, khi anh ta tránh thoát cạm bẩy của sự giả dối đê hèn, chịu đựng những đối xử tàn
tệ nhất, thì anh ta liền được nghe bọn sát nhân chúc tụng anh, bày tỏ ý muốn được anh
quý mến, thậm chí được kết thân với anh. Cái gì cũng miễn thứ được, biện bạch được ở
thời đại mà người ta đã biến đức hạnh thành thói xấu, cũng như người ta đã đề cao một
số thói hư thành nết tốt.
Ở thời đó, nếu người ta nhớ lại đối với một số nhà văn bảo hoàng và một số nhà văn tự
do, thì“phải có cam đảm mới dám gặp nhau trong cùng một rạp hát. Người ta thường
nghe thấy những lời lẽ khiêu khích đầy căm hờn. Những con mắt nhìn nhau ghê gớm
như những súng lục đã lắp đạn, chỉ một tia lửa nhỏ đủ làm nổ phát súng khai chiến. Ai
mà chẳng bất chợt nghe kẻ bên cạnh lên tiếng chửi rủa khi họ thấy bước vào một số
người đặc biệt làm mồi cho sự đả kích của đảng nọ, đảng kia. Bấy giờ chỉ có hai đảng,

bọn bảo hoàng và bọn tự do, bọn lãng mạn và bọn cổ điển”.
Pari kì bí lắm! Đến Pari là một chuyện, sống được trong xã hội ấy lại là chuyện khác.
Điểm nổi bật, thu hút con người khi mới đặt chân đến Pari là vẻ hào nhoáng, tráng lệ của
nó. Sự lộng lẫy đến choáng ngợp. “Ở Pari, những khối lượng chiếm đoạt sự chú ý của
người ta trước hết: vẻ tráng lệ của những cửa hiệu, bề cao của các tòa nhà, sự nhộn nhịp
của ngựa xe những trái ngược đầy rẫy giữa sự xa hoa cùng cực và sự nghèo khổ cùng
cực làm người ta sửng sốt hơn hết”.
Ở nơi phồn hoa ấy, con người trở nên nhỏ bé, chẳng còn chút ảnh hưởng. Thế giới xung
quanh thay đổi hoàn toàn vị trí của họ. “Những người được trọng vọng ở tỉnh nhỏ, và ở
đó cứ một bước chân đi lại gặp một bằng chứng về tầm quan trọng của mình, họ chẳng
chịu được cảnh thấy mình đột nhiên và hoàn toàn bị tiêu ma giá trị. Là một nhân vật tai
mắt ở địa phương mình và chẳng là cái gì ở Pari, đó là hai trạng thái cần có bước quá độ,
và những ai bước đột ngột quá từ trạng thái nọ sang trạng thái kia thường sa vào tình
thế chưng hửng”.
Balzac lạnh lùng chỉ ra quy tắc sống còn trong xã hội thượng lưu. “Trong cái xã hội này,
những điều nhỏ nhặt trở thành to lớn, một lời nói, một cử động đủ làm cho kẻ mới xuất
đầu lộ diện tiêu ma. Giá trị chủ yếu của những phong cách thanh lịch và cái tư thái của
xã hội thượng lưu là tạo nên một toàn bộ nhịp nhàng trong đó mọi cái đều hài hòa với
nhau đến mức chẳng có cái gì là chướng cả”.
Theo Balzac “xã hội ngày này mời tất cả con em của nó dự chung một buổi tiệc, đã thức
tỉnh tham vọng trong họ ngay khi họ mới bước vào đời. Xã hội làm cho tuổi trẻ mất tính
chất đáng yêu và làm hư hỏng hết tình cảm rộng rãi để xen vào đó mọi tính toán”.
Người thư kí của thời đại không chỉ khách quan ghi lại lịch sử, chính trị mà còn ghi nhận
những cái gọi là trào lưu đang thịnh hành trong xã hội thời ấy. “Thời bấy giờ thịnh hành
một hội của đám thanh niên cả giàu lẫn nghèo gọi là bọn ăn chơi, hết thẩy đều vô công
rồi nghề, họ thật sự sống một cách vô lo đến lạ lùng. Ăn dữ, uống lại còn dữ hơn. Hết
thảy đều sài phí tiền bạc và tìm kiếm những trò đù hết sức cợt nhã cho cuộc sống, chẳng



×