Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.52 KB, 31 trang )

Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng
Nguyễn Phước Bảo Khôi

(VH-NN) Đặc trưng truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, luận văn cao học chuyên
ngành Văn học Việt Nam (Nguyễn Phước Bảo Khôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS. Trần Hữu Tá) là một trong những luận văn cao học xuất sắc nhất mới
được bảo vệ ngày 6/8/2011 ở Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH
và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM. Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp nhất trí cho
luận văn 9.8 điểm. Áp dụng phương pháp tự sự học vào một nhà văn quen thuộc:
Vũ Trọng Phụng, luận văn đã phát hiện ra những điểm mới lạ, thú vị, có tính đặc


trưng trong truyện ngắn của ông. VH-NN xin giới thiệu Mục 1 Chương 2 và Mục
lục của Luận văn.

1. KẾT CẤU TRẦN THUẬT :
Nhữ Bá Sĩ đã thể hiện sự quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX khi ông nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là
không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà không đóng, mở, kết cấu thì
cũng không thành văn chương”. [118, tr.154]
Mỗi tác phẩm văn học tồn tại trong một cấu trúc nghệ thuật nhất định bao gồm
nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng được tổ chức hợp lý,
nghệ thuật trong một hệ thống, một chỉnh thể nhằm biểu đạt những tư tưởng, tình cảm mà
nghệ sĩ muốn kí thác.
Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và
nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu là kiến trúc tác phẩm,
là toàn bộ tổ chức phức tạp của tác phẩm. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội
dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm. Khi đánh giá kết cấu một tác phẩm, phải xét
trong yêu cầu thể hiện nội dung của tác phẩm đó, xét hiệu quả mà tác phẩm để lại trong
lòng người đọc. Khảo sát kết cấu của tác phẩm chính là khảo sát cấu trúc của nó
Kết cấu tác phẩm không chỉ là mối liên kết các hiện tượng, con người. Mối quan


tâm lớn của nhà văn là sắp xếp tài liệu làm sao để cho cái chính yếu được nổi bật lên, cái
quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu tác phẩm thể hiện quá trình làm việc
căng thẳng, công phu của nhà văn với chất liệu cuộc sống từ đó để biểu hiện một chân lí
khái quát. Nó cũng phản ánh quá trình tư duy của nhà văn, quá trình vận động của tư duy
ấy. Tư tưởng sống động của nhà văn bao giờ cũng biểu hiện trong kết cấu và qua kết cấu.
Nói theo tác giả Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm và thể loại văn học) là : “Kết
cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, quan hệ hay quy tắc, phương pháp, mô hình đều


là yếu tố tạo thành văn bản, là thực tế không thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc
hiểu văn bản.” [117, tr.156]
Đến với truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng cũng vậy; việc tìm hiểu, khảo sát những
nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật thể hiện qua tác phẩm không thể bỏ qua yếu tố kết
cấu.
1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật :
1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian :
Trên phương diện kết cấu, một trong những loại hình mới mẻ mà truyện ngắn từ
đầu thế kỷ XX đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của
sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo trình tự diễn tiến của cốt truyện tự
nhiên theo thời gian tuyến tính. Các truyện này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết
thúc của cốt truyện tự nhiên. Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt
truyện là một đặc trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại. Sự đảo lộn trật tự thời gian của
các sự kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm nên kiểu kết cấu
này đã rất phổ biến ở truyện ngắn các giai đoạn sau.
Được sử dụng trong 13/41 số lượng truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, dạng kết
cấu này khiến chúng ta phải dành sự chú ý cẩn trọng cho nó. Một khi tác giả đã xóa đi
trật tự tuyến tính của thời gian, ắt hẳn ông muốn nhấn mạnh với người đọc một vấn đề
nào đó.
Trong truyện ngắn Nhân quả, ông đã để nhân vật người đàn ông hồi tưởng lại
những chuyện xưa cũ từ điểm nhìn ngày đám cưới trong thực tại. Dòng hồi tưởng đó gắn

liền với tâm trạng phơi phới khi nhớ lại một quá khứ đào hoa lẫy lừng đã vùi chôn bao
đời con gái. Hắn đã chiếm đoạt, hắn đã khinh khi và giờ đây tràn đầy khao khát, mãn
nguyện với ý nghĩ cô vợ mới cưới “về phần tân tiết thì nắm chắc đến mười mươi”. Đảo
trình tự thời gian như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lột tả bản chất xấu xa của một gã trai


phóng đãng, bỉ ổi, sở khanh và giúp ta hiểu được niềm khao khát trinh tiết phụ nữ trong
hiện tại của hắn vì sao lại mãnh liệt nhường ấy để từ đó càng làm rõ được nỗi chua chát,
bẽ bàng của hắn ở cuối truyện.
Với truyện ngắn Người có quyền, tác giả lại kể về cuộc đời một nhân vật “văn
dốt, vũ dát, hai mươi bảy tuổi đầu còn ăn bám vào mẹ, cả ngày đi tìm mấy gia đình nhàn
cư bất thiện để gạ đánh cờ không tiền hay là chầu rìa tổ tôm”, nói tóm lại là dở ông dở
thằng. Nhưng ông không bắt đầu câu chuyện từ điều ấy mà khơi nguồn từ tâm trạng phớn
phở của nhân vật khi hôm nay anh ta đã được làm cha một đứa trẻ con – kết quả mối tình
của anh và “một người đàn bà góa chồng rất trẻ, cũng vui vẻ, nhí nhảnh…mà anh đã
chim”. Để nhân vật triết lí về hạnh phúc, sung sướng với thực tại trong sự hồi tưởng
ngược dòng về quá khứ, Vũ Trọng Phụng cho người đọc những bất ngờ : con người như
thế mà sao may mắn đến vậy? Nhưng không, đó chỉ là cách nhà văn che giấu cho một
tương lai gần rất bi kịch mà hợp lí : con là con người ta, nhân tình bấy lâu đầu ấp tay gối
đã lừa gạt và phũ phàng xua đuổi không thương tiếc. Lối trần thuật như vậy quả thật có
giá trị riêng của nó : không chỉ lí giải cho hoàn cảnh, tâm lí nhân vật trong thực tại và
chuẩn bị cho những bất ngờ phía trước; nó còn giúp ta hiểu rõ về nhân vật qua cái nhìn
ngược thời gian đầy ấn tượng.
Cách trần thuật đưa kết quả sự việc lên trước rồi lần lượt kể lại nhằm lí giải
nguyên nhân, truy tìm nguồn gốc cũng là kết cấu được sử dụng trong một số truyện ngắn
như : Phép ông láng giềng, Bẫy tình, Chống nạng lên đường, Tội người cô, Duyên không
đi lại, Cái hàng rào, Bà lão lòa, Gương …tống tiền, Lòng tự ái…
Truyện ngắn Bà lão lòa tái hiện cho ta ngay từ đầu thời khắc tăm tối, ê chề trong
phận sống nhờ của nhân vật cùng tên - là người cô họ của bác đánh giậm. Lần hồi sau
đó, tác giả đưa ta trở về với quá khứ khi bà lão còn giàu có, bà đã “giúp đỡ kẻ nghèo khó;

trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà” thế nhưng “đến khi gặp bà bước khốn
cùng thì chẳng ai thương cả”. Tác giả cũng cho ta biết rằng ngày trước bác đánh giậm
“đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà” nên bây giờ “đành cắn


răng, vuốt bụng, nhắm mắt” nuôi bà trong lúc hoạn nạn với nỗi niềm biết bao “xót ruột
khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác”. Quay ngược thời
gian như vậy, nhà văn đã cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc đời bà lão lòa; đồng
thời ông cũng nhấn mạnh thái độ lên án, phê phán đối với cuộc đời này. Một quá khứ tử
tế, ăn ở phúc đức nhưng đổi lại chỉ là một hiện thực cay đắng : con trai ăn chơi, phá của
đến nỗi “bán ruộng, cầm nhà” khiến bà thành tật nguyền, nghèo khổ và đứa cháu họ vô
ơn bạc nghĩa đối xử với ân nhân của mình không ra gì. Hiện tại bà cụ chẳng gặp lành dù
ngày trước đã ăn ở rất hiền lành, hiện tại người ta vong ân dù quá khứ vốn chịu nhiều ơn
cứu giúp của bà – những đối nghịch thời gian đi kèm với nghịch lí cuộc đời khiến câu
chuyện cứ ám ảnh chúng ta mãi.
Không đi vào những nghịch lí thời gian như trên, một loạt tác phẩm đã đưa ra hiện
thực tha hóa hoặc bi đát rồi giúp người đọc đi tìm nguyên nhân trong quá khứ. Không đi
theo thời gian tuyến tính, những câu chuyện ngược dòng, đan xen hôm nay – ngày trước
khiến người đọc có thêm nhiều suy nghĩ.
Nhân vật Lê Vân trong truyện ngắn Gương … tống tiền giờ đây bệ rạc, chán đời,
phung phí tuổi trẻ khi “làm bạn với ả phù dung”, đến nỗi “từ một thiếu niên có tương lai
tốt đẹp” nay đã thành “kẻ bị xã hội khinh bỉ…, ma dại thân tàn”. Tất cả cũng chỉ vì nỗi
thất vọng trong tình yêu với Loan. Vì tình yêu, Lê Vân điên đảo cuộc đời, phá nát tương
lai. Và cũng bất ngờ thay, chính nhờ tình yêu cay đắng ngày xưa ấy Vân kiếm chác được
ít tiền duy trì tháng ngày “sống mòn” của mình. Khởi đầu nhân vật này khiến người đọc
có cảm xúc giận dữ nhưng vẫn còn chút xót xa nhưng càng về sau, qua cách trần thuật
giàu kịch tính của tác giả, ta chỉ còn một cảm giác khinh bỉ tận cùng dành cho Lê Vân.
Chống nạng lên đường và Tội người cô cũng trình bày cho ta thảm cảnh hiện tại
của hai nhân vật Hai Xuân và người cô ông chủ nhà. Hai Xuân chịu cảnh tật nguyền, phải
sống nhờ vào anh và hằng ngày chứng kiến cảnh vì một người làm nuôi cả nhà, vì thiếu

cơm mà anh của Xuân “mắng bố, gắt mẹ, chửi nồi, chửi rế, chửi đôi guốc đang đi mà
quai đứt, chửi xó nhà lắm muỗi vo vo...”. Tất cả cũng chỉ vì một buổi kéo xe Hai Xuân đã


bị xe hơi chẹt phải đến nỗi đành cưa chân thành tật nguyền. Cả một số phận con người rẽ
sang bước ngoặt tăm tối trong một tích tắc oan trái của quá khứ. Bên cạnh đó, tác giả còn
để cho nhân vật hồi tưởng lại ngày xưa nghèo khổ mà vui vẻ khi sau mỗi ngày làm việc
mệt nhọc được trở về nhà, “đến chĩnh nước ngửa cổ “tu” một hơi nước lã thật dài xong
thở đánh “hà à à”một cái rất khoái chí rồi cầm mảnh mo vừa quạt vừa bước vào nhà
ngơ ngác nhìn xem bố mẹ đã thổi chín cơm chưa, để liệu dọn mâm bát”, một ngày xưa
thân ái với cảnh “mâm cơm dọn xong, nó chỉ còn chờ anh Cả cho nó đi làm về là cùng
ngồi vào, tuy bữa nào cũng chẳng hơn gì bữa nào, chỉ rặt cà, tương, dưa muối mà thằng
Xuân ăn thấy rất ngon”. Thế nhưng quá khứ ấy chỉ là thoáng chốc còn hiện tại đau đớn
khố khổ khốn nạn mới kéo dài chưa biết đến đâu. Khởi đầu với hiện thực phũ phàng, cay
đắng rồi sống lại với quá khứ giản dị mà tươi đẹp, câu chuyện đã khiến chúng ta thêm
ngậm ngùi buồn đau cho số phận con người.
Mở đầu truyện ngắn Tội người cô là hình ảnh một “bà già chít khăn vuông, chống
gậy” đang “lom khom bước lên thềm gạch, rón rén đến gần cửa sổ” mà trông vào khung
cảnh tiệc tùng bên trong “tòa nhà tây hai tầng, một tòa nhà có vẻ kiêu hãnh vô cùng”. Từ
sự ngạc nhiên của nhân vật “tôi”, người bạn đã kể lại nguyên nhân vì sao bà già - “chính
là cô ruột của chủ nhân tòa nhà ấy” – lại phải chịu cảnh cô đơn, hắt hủi. Ngược về quá
khứ, tác giả cho ta biết được bà cô ấy là một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, ở vậy và sống
cùng cháu ruột, đã từng rất thương và quan tâm đến cháu, hết lòng vì cháu mình. Bà cô
“vẫn đi trông nom bà vợ ông cháu mình những khi đi xa, trẩy hội” và cũng chính bà
“trong cái đêm cháu dâu bất thình lình trở dạ, trời mưa như bão” nhưng “vẫn khoác áo
tơi ton tả ra đi, vượt mấy cánh đồng để tìm bà đỡ”. Thế nhưng cũng vì quá thương đứa
cháu bé, bà đã ẵm cháu đi chơi cả buổi chiều, lại cho cháu ăn kẹo bột đến nỗi “thằng bé
đến đêm thấy trở, thấy nôn rồi khóc lên ngằn ngặt”, “phải nhịn bú mãi đến chiều hôm
sau”. Và sau này vì “bà chiều cháu quá một hôm đưa dao cho cháu để cháu cứa đứt cả
tay” nên đã bị cha mẹ nó đuổi ra khỏi nhà. Rồi từ đó người cô tội nghiệp ấy “phơ mái tóc

hoa râm ra giữa nắng, ngồi nhìn chồng bánh đa, mấy củ khoai, mấy quả chuối bày trên
cái mẹt một cách buồn rầu, mỗi khi thấy tiếng dép của khách qua đường lại ngước mắt


lên nhìn một cách đau đớn như muốn van lạy khách mua cho…” nhưng “vẫn chẳng rứt
tình quên được cháu, mỗi khi thấy bố mẹ nó chè chén vì nó là bà lại chống gậy tìm đến,
lần nào cũng chỉ đứng ngoài cửa kính ghé mắt nhìn vào”. Cũng trong câu chuyện quá
khứ ấy, chúng ta biết bố mẹ đứa trẻ tuy giàu có nhưng hiếm muộn, đã bốn năm trời
“mang hương hoa lễ khắp các chùa cầu tự” để có được mụn con nên thương quí nó cũng
là hợp lí. Nhưng thương yêu con đến độ để bảo vệ nó mà đành đoạn đuổi cả cô ruột ra
đường tự mưu sinh thì thật vô lí. Tình thương với tình thương không thể có sự mâu thuẫn,
nhưng nếu một bên là yêu thương hết mình không nghĩ ngợi còn bên kia lẫn trong tình
thương là toan tính, lạnh lùng, tàn nhẫn, vong ân thì quả thật không thể nào tồn tại chung
được với nhau. Mượn lời người bạn để hiểu được một quá khứ lắm nỗi và một cuộc đời
đáng thương, truyện ngắn này thật đúng với nhan đề của nó : thật tội cho người cô; chỉ vì
cái “tội” yêu thương đến dại khờ, hi sinh đến mê muội mà phải chịu cảnh cô độc, ghẻ
lạnh đớn đau.
Cái hàng rào - một truyện ngắn được cho là một đoạn của tiểu thuyết Bởi không
duyên kiếp (tức Dứt tình) - cũng được thuật lại với kết cấu đảo trình tự thời gian. Đoạn
đối thoại khá gay cấn giữa hai nhân vật - Phong và Tiết Hằng - ở đầu tác phẩm đã dần
chuyển sang chuyện quá khứ để giúp ta hình dung ra phần nào cơ sự của ngày hôm nay.
Chuyện của ba năm về trước, hai người yêu nhau nhưng đã không đến được với nhau vì
mẹ Phong “kịp lúc đoạn tang” đã cải giá với cha của Tiết Hằng. Sự tình ai oán, éo le này
khiến Phong xót xa nghĩ rằng “sự thành hôn, cuộc gắn bó giữa mình với Hằng sẽ là một
bài văn khôi hài cho miệng thế”. Vì vậy, anh đã rứt áo ra đi, bỏ lại Tiết Hằng “đứng rũ
rượi, dựa vào một cột đèn ở ga”. Để rồi sau đó, Tiết Hằng lấy một người chồng theo sự
sắp đặt của cha và chịu cảnh góa bụa chỉ sau ít năm ngắn ngủi. Về phần Phong, anh “lên
thượng du, sống cái đời mây rừng gió núi, coi sóc việc thầu đốn rừng lim của cha để lại
cho” và sống trong nỗi “lo buồn, áy náy, hối hận” trước cảnh đời của người tình cũ. Quá
trình nhân vật Phong từ “một cậu học trò yếu ớt nhưng có một trái tim bọc sắt” hóa

thành “cái thân thể vạm vỡ lẩn trong một bộ quần áo đi săn mũ da cáo, giầy ống, áo tơi
nhưng có trái tim đa cảm của đàn bà” đã được tác giả diễn tả sinh động, khéo léo, chân


thực qua cách trần thuật đan xen, lồng ghép quá khứ và thực tại, nhưng chiếm phần lớn
vẫn là chuyện của quá khứ. Và cuộc đối thoại gay cấn đầu tác phẩm đã có một điểm
dừng, dù xót xa, bất ngờ. Dĩ nhiên để đi đến được kết thúc này phải trải qua một quá trình
dẫn dắt sống động ngược dòng thời gian để lí giải cho hiện tại, đan xen bao nỗi niềm
trong quá khứ để thể hiện rõ sự đời lắm khi ngang trái.
Những truyện ngắn trên là minh chứng tiêu biểu cho lối trần thuật đảo trình tự
thời gian của Vũ Trọng Phụng. Xét ở khía cạnh kết cấu trần thuật, cách kể chuyện này ít
nhiều cũng đã hình thành nên một nét đặc sắc cho truyện ngắn của tác giả.
1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện” :
Trong bài viết “Sự di chuyển của kết cấu truyện lồng truyện và kiểu truyện khung
trong

văn

học

từ

Ấn

Độ

sang

Đông


Nam

Á”

(trích

từ

trang

web

www.khoavanhocngonngu.edu.vn), tác giả Nguyễn Ngọc Bảo Trâm cho ta biết được kết
cấu truyện lồng truyện ở góc độ một thủ pháp văn chương đã xuất hiện rất sớm trong lịch
sử văn học thế giới. Nói một cách đơn giản đây là thủ pháp để lồng ghép một câu chuyện
độc lập (có liên quan hoặc không về mặt nội dung) vào tác phẩm chính trong quá trình
diễn tiến của tác phẩm. Có thể thấy biểu hiện xa xưa của nó trong sử thi Odyssey của Hy
Lạp (thế kỷ VIII trước công nguyên) khi người anh hùng Ulysses tự kể lại những chuyện
phiêu lưu của mình trong bữa tiệc. Từ thời cổ đại, kết cấu truyện lồng truyện đã được văn
học Ấn Độ sử dụng triệt để để tạo nên hai thiên sử thi đồ sộ nhất trong lịch sử nhân loại
là Mahabharata (thế kỷ V trước công nguyên) và Ramayana (khoảng thế kỷ IV-III trước
công nguyên).
Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong truyện là một
lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây rõ nét, mà tác phẩm đầu
tiên cần kể tới là truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện Thầy
Lazarô Phiền có tới hai chuyện: chuyện thứ nhất là của nhân vật “tôi” kể cho bạn đọc
nghe về cuộc gặp gỡ giữa bản thân và thầy Phiền, chuyện thứ hai là chính thầy Phiền đã


kể lại chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe từ việc thầy đã lấy được một người vợ

đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi ngờ và tìm cách giết vợ ra sao, và những ăn năn dằn
vặt của thầy …).
Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những tác phẩm có kết cấu truyện lồng trong
truyện như vừa nêu trên là những câu chuyện trong một truyện không tách rời mà luôn
được đan cài vào nhau rất linh hoạt, tự nhiên, cho người đọc những ấn tượng về sự chân
thực của chuyện được kể, kéo họ lại gần với thế giới nghệ thuật của tác phẩm hơn, đồng
thời tạo sự sinh động cho truyện.
Mặt khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự luân phiên
điểm nhìn, góp phần làm cho nhân vật (nhất là thế giới nội tâm của nó) được xem xét
dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên hơn. Đó chính là thế mạnh của
kết cấu truyện lồng trong truyện, góp phần tạo dựng cho truyện một nghệ thuật trần thuật
hiện đại.
Như đã nêu trên, kết cấu “truyện lồng trong chuyện” không phải một dạng kết cấu
mới lạ đối với loại hình tự sự. Và kết cấu này đã đi vào truyện ngắn Vũ Trọng Phụng với
những giá trị riêng của nó. Lỡ lời, Cái ghen đàn ông, Một cái chết, Lấy vợ xấu, Sống để
mà lo, Bà lão lòa, … là những truyện ngắn được kết cấu theo dạng thức như vậy.
Với trường hợp Cái ghen đàn ông, Một cái chết và Lấy vợ xấu, tác giả thường
lồng một câu chuyện khác vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật. Xen vào cuộc gặp gỡ
giữa nhân vật “tôi” và người bạn trong truyện ngắn Một cái chết là cảnh một ông lão ăn
mày “vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá chống nạng
lê vào” xin bố thí. Trong khi nhân vật “tôi” gắt ầm lên đuổi đi thì người bạn đã “đứng
dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu” rồi kể lại một chuyện “đuổi ăn mày … đã
được mục kích” biến thành tấn kịch rất đỗi bi thương. Đó là chuyện Thằng Hợi, con thầy
cai lấy thuế chợ, chủ nơi trọ học của người bạn tác giả. Qua câu chuyện xót xa với hai cái
chết thương tâm : một của người ăn mày bị cha Hợi xua đuổi, một của Hợi như một sự


day dứt – tác giả đã đưa ra một bài học về lẽ đời thật sâu sắc. Từ chuyện đuổi ăn mày,
“những chuyện rất thường”, “tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa”, Vũ
Trọng Phụng đã thể hiện rõ nét tấm lòng thương cảm sâu sắc của mình.

Trong truyện ngắn Cái ghen đàn ông, lẫn trong câu chuyện giữa Giao Đài, Lê Văn
Thư và mấy người bạn là chuyện đời bi đát của vợ chồng giáo Hiển ; và trong Lấy vợ xấu
thì giữa lúc chuyện trò giữa hai người bạn cũ – nhân vật “tôi” và anh Doãn – anh Doãn đã
kể về mối duyên giữa anh và vợ mình, “một người đàn bà có cái nhan sắc của một người
đàn ông không đẹp giai”.
Chuyện nhà anh giáo Hiển là một minh chứng đầy thuyết phục cho lí lẽ mà nhân
vật Giao Đài đưa ra : “Người ta chẳng nên thật thà, nhất là những khi người ta yêu
nhau” vì tác dụng của thật thà với hạnh phúc khi yêu là “phá hoại chứ chẳng kiến thiết
bao giờ”. Sự thật thà quá mức đã giết chết vợ giáo Hiển trong xót xa, tủi cực. Lòng ghen
tuông mù quáng, vô lí của giáo Hiển đã lên đến cực điểm đến nỗi quên hết cả nghĩa vợ
chồng, thậm chí quên cả tình người vốn xem trọng “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tác giả đã
mượn lời nhân vật Giao Đài mà nói rằng : “Cái ghen của anh Hiển có một thứ thế lực ở
tâm giới anh đến nỗi khiến anh hóa ra tầm thường, hóa ra đê hèn, hóa ra "bất thành
nhân dạng"”. Nêu ra một trường hợp lạ kì, nghịch dị để làm rõ cho một ý nghĩa rất vô lý
nhưng cũng không phải không có lý, tác giả khiến người đọc không khỏi băn khoăn dù đã
đọc xong câu chuyện.
Phần nhân vật Doãn, anh kể lại chuyện gặp gỡ của vợ chồng mình cho người bạn
nghe nhằm minh họa cho quan niệm : vợ chồng là duyên số. Gặp nhau trên một chuyến
tàu từ Lào Cai về Hà Nội cách đây hai năm, anh Doãn và vợ mình đến với nhau từ một ý
nghĩ vẩn vơ của anh. Và thế là anh đã chuyện trò cùng người phụ nữ ấy, rồi dần dần đến
với nhau, gắn bó vì cô ấy đã mang trong bụng đứa con của anh và đã rất thành thực khiến
anh phải mủi lòng, đành dẹp mộng “lấy được cô gái đẹp nhất Hà Thành” để sánh duyên
cùng “cô gái xấu xí nhất Bắc Kì”. Câu chuyện về anh Doãn nghe cũng vô lí, khó tin như


chuyện vợ chồng anh giáo Hiển ở trên nhưng lại xảy ra như một dẫn chứng sinh động cho
những điều phi lí khác khó cắt nghĩa đang mặc nhiên xuất hiện trong cuộc đời.
Cũng không thể không nhắc đến truyện ngắn Bà lão lòa, một trong những truyện
ngắn đầu tay xuất sắc của Vũ Trọng Phụng. Trong diễn tiến cuộc đời cơ cực của bà lão tội
nghiệp chịu cảnh tật nguyền sống nhờ nhục nhã bỗng xuất hiện ba câu chuyện nhỏ về

những hành động nhân đức của một người phụ nữ : thấy người ăn mày lụ khụ đến xin ăn
bị mấy con chó “nhảy xổ ra cắn xa xả”, bà đã “quát thằng nhỏ ra mắng chó, dắt ông ăn
mày vào thết một lưng cơm”; trước gia cảnh bác nhiêu B. vợ chết, nhà bị hỏa hoạn, đàn
con nheo nhóc, đói kém, bà đã “cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc” đem cho; và cuối
cùng trước cảnh đau xót của một người phụ nữ phải bán con để mong cứu chồng bệnh liệt
giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng, bà cũng đã cho năm đồng về lo thuốc men cho chồng
mà không phải bán con. Đến cuối cùng Vũ Trọng Phụng mới cho ta biết hóa ra đó chính
là bà lão lòa tội nghiệp bây giờ. Ba câu chuyện nhỏ về sự phúc đức để góp phần làm rõ
một nghịch lí : bà đã từng rất tử tế với người không ruột thịt thân thích, bà đã từng động
lòng trắc ẩn trước bao số phận vật vờ tận đáy cuộc đời; song giờ đây, người thân thích
ruột rà không mảy may động lòng xót xa cho thân già tật nguyền cô độc của bà, nhẫn tâm
tàn tệ với bà hơn cả với người dưng nước lã, đay nghiến chà đạp lên thân phận sống nhờ
đầy nghịch cảnh bà đang phải chịu. Trần thuật với kết cấu “truyện lồng trong truyện”, Vũ
Trọng Phụng đã dựng lên sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và thực tại, giữa thiện tâm và
ác tâm, giữa vị tha và ích kỉ để phê phán sự bội bạc, bất nhân của người đời và tố cáo cái
nghèo làm nhân cách con người dần thảm hại như nó.
Mỗi một truyện ngắn có kết cấu “truyện lồng trong truyện” dường như đều mang
trong đó một nghĩa lí nào đó mà tác giả muốn đem lại cho người đọc. Lồng ghép những
mảnh đời vào câu chuyện, tác giả không chỉ làm đa dạng hóa kết cấu trần thuật mà phần
nào đó đã nêu bật được tình cảm, thái độ của ông dành cho dành cho cuộc đời, cho kiếp
người. Có cảm giác đọc truyện ngắn Vũ Trọng Phụng như đến với một quyển sách với
nhiều chương, mỗi một chương lần giở ra lại thấy hiện lên một cảnh đời, một câu chuyện
khác nhau. Điều ấy khiến quyển sách chưa bao giờ nhàm chán, luôn mới lạ, hấp dẫn, kích


thích người đọc khám phá tiếp tục để hiểu thêm bao nhiêu trang đời đã nén chặt, đã được
lồng ghép trong quyển sách số phận ấy. Lại có một hình dung khác về những câu chuyện
trên, nó cứ như những bông hoa đang chớm nở. Ta phải bóc dần từng cánh từng cánh để
thấy được cái nhụy bên trong – một cái nhụy mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như một hạt
giống lành để lại mùa sau.

1.1.3 Kết cấu trần thuật theo diễn biến tâm lí của nhân vật :
Có thể nói đây là kiểu kết cấu mới mẻ nhất trong văn học Việt Nam giai đoạn đầu
thế kỷ XX. Đó là kiểu kết cấu của những tác phẩm có cốt truyện tâm lí nhằm miêu tả
những diễn biến tinh vi, phức tạp của đời sống nội tâm con người. Trong những truyện
này, chỉ có một vài sự việc, còn lại là cảm giác, suy nghĩ của nhân vật với những hồi ức,
liên tưởng và độc thọai nội tâm. Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò khơi gợi cho
dòng chảy tâm lý. Tiêu biểu cho truyện có kết cấu tâm lý này là những truyện của các tác
giả thuộc dòng truyện ngắn trữ tình như Thạch Lam, Thanh Tịnh và sau này được tiếp
nối, phát huy, thành công rực rỡ với Nam Cao.
Hẳn nhiên mạch truyện được triển khai theo tâm lý nhân vật nhưng vẫn phải bám
sát vào các sự kiện, dựa vào sự kiện. Do vậy, để có một truyện hay, người viết không chỉ
miêu tả tâm lý mà là phân tích tâm lý, phân tích gắn với với sự kiện, vì sao chỉ có sự kiện
ấy thì tâm lý nhân vật mới có biểu hiện như vậy.
Dẫu không nhiều nhưng một số truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng đã được cấu trúc
theo chính diễn biến tâm lý của nhân vật. Rửa hờn, Nhân quả, Duyên không đi lại, Chống
nạng lên đường, … là những truyện ngắn như vậy.
Với Chống nạng lên đường, tác giả đã cấu trúc truyện ngắn này phần lớn theo diễn
biến tâm lý nhân vật Hai Xuân. Câu chuyện bắt đầu với nỗi buồn, dần chuyển sang hoài
niệm xa xôi về một quá khứ đẹp tươi, rồi ai oán khi nghĩ đến cảnh nhà túng thiếu và phận
ăn nhờ của mình. Dần dần tác giả mở rộng ra những cảnh mà Hai Xuân đã trông thấy ở
trên cầu, bao nhiêu cảnh tượng yên bình mở ra nhưng thực chất đó là cố nhìn, cố quên để


qua cơn đói đang cồn cào trong người. Những ý nghĩ tốt đẹp, rồi hài hước, thoáng qua để
trở về với nỗi cay đáng, xót xa cho số phận. Sau đó Hai Xuân nhớ về những kí ức đau
khổ của nghề kéo xe tay phải chiến đấu hằng ngày cùng “những tia nắng mặt trời dữ dội
chiếu xuống đốt lưng, đốt gáy”, “những trận mưa gió phũ phàng ném những hạt nước
nặng nề thẳng vào mặt” hoặc “thổi tung cát bụi lên làm tối mắt”, chiến đấu với cả sự
cạnh tranh không cân sức với những chiếc xe cơ khí hóa đang lăm le cướp cơm của mình.
Tận cùng trong dòng hồi ức ấy là bao ai oán, ngỡ ngàng, uất ức với bước ngoặt cuộc đời :

ngày bị tật nguyền. Những điều đó đưa Hai Xuân trở lại với nỗi buồn ghê gớm, buồn vì
nỗi mặc cảm ; hổ thẹn khi cụt chân, buồn đến độ muốn chết đi ngay được. Và rồi, nhân
vật ngủ quên đi trước khi bị đánh thức dậy bởi tiếng đoàn tàu. Và khi tỉnh dậy, Hai Xuân
sợ chết, lần lần tìm về nhà nhưng lại càng buồn hơn khi chứng kiến cảnh nhà. Trước sự
tàn nhẫn lạnh lùng và hỗn láo của anh mình, Hai Xuân đã thấy giận sôi lên nhưng rồi vì
sợ, vì thương bố mẹ nên đành ra đi, dẫu rằng không biết đi về đâu, dẫu rằng “đau lòng
quá đỗi”. Chịu trận ngoài đường qua cơn mưa đêm xối xả, anh trở về nhà và chọn cách ra
đi để cha mẹ đỡ tủi nhục, tê tái. Cả một quá trình tâm lý của Hai Xuân trong khoảng thời
gian ngắn ngủi từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau được diễn tả sinh động, chân thực
và đầy thương tâm. Câu chuyện cũng chỉ diễn ra trong chừng ấy thời gian, tuy ngắn ngủi
mà gây nhiều xúc động. Ta phục cái tài của Vũ Trọng Phụng đã cấu trúc, nối kết những
diễn biến tâm lý của nhân vật vào một câu chuyện hoàn chỉnh, nhưng càng kính trọng
hơn cái tâm đã xúc động biết bao với số phận đau khổ của nhân vật mà tác giả đã ẩn sâu
vào từng dòng tâm lý ấy. Nếu không xót xa chân thành và yêu thương sâu sắc, làm sao
nhà văn có thể miêu tả được đến như vậy.
Rửa hờn, Duyên không đi lại và Nhân quả có thời gian diễn ra còn nhanh hơn cả
Chống nạng lên đường. Ở đó, Vũ Trọng Phụng đã dồn nén sự kiện và cấu trúc tác phẩm
theo diễn biến tâm lý của nhân vật chính ở những thời điểm có tính chất bước ngoặt của
cảm xúc.
Với nhân vật gã đàn ông trong Nhân quả thì thời điểm ấy là đêm tân hôn. Bao
nhiêu khung cảnh lãng mạn trữ tình được y vẽ ra trong đầu. Càng tưởng tượng đến cảnh


đó hắn càng bực mình khi khách khứa vẫn chưa chịu về, để hắn cứ mãi phải ngồi tiếp
chuyện, đáp lại “những lời chúc sáo bằng một nụ cười gằn luôn điểm vờ vĩnh trên môi”.
Tình cờ ngắm mình trong gương, nhân vật có cảm xúc tự hào vì “hắn cũng biết mình là
điển đấy”. Chợt cả một đoạn hồi ức năm xưa sống dậy trong hắn, một quá khứ nổi tiếng
là một tay chuyên lừa tình. Được trời phú cho bộ mã, lại có học, hắn nghiễm nhiên thu
hút được bao nhiêu cô gái ngây thơ. Trong lúc đang tự nhủ bây giờ phải sống tử tế vì đã
có vợ, “phải tu tỉnh làm ăn mà kính, mà yêu, mà thờ người vợ mới cưới ấy”, hắn vẫn

nghĩ đến “mấy cô gái non đã là nhân tình của hắn xưa kia”, vẫn nhớ đến “những buổi
hẹn hò ân ái cũ”. Hắn thấy nực cười vì hai lẽ : cô nào cũng thề nguyền tha thiết sẽ chọn
cái chết nếu không lấy được hắn nhưng chẳng có ai chết khi hắn cưới vợ và ý nghĩ không
bao giờ cưới về làm vợ những cô gái hắn đã “lôi qua được cái cổng trên có chữ đề
“Phòng cho thuê”” vì hắn cho rằng : “Đời nó thế, ai làm gì được ? Mình chẳng chơi thì
rồi cũng chán vạn thằng chơi”. Thế rồi hắn sống lại hoài niệm hai năm trời khó khăn để
có được lòng yêu của người con gái giờ là cô dâu mới của hắn. Ngạc nhiên thay, trong
giờ phút sung sướng cực đỉnh ấy, cô dâu mới tiết lộ việc mình trót thất tiết với một gã trai
từ năm mười sáu tuổi, câu chuyện tình phụ vợ hắn kể cứ y như những chuyện trước đây
hắn đã làm với bao người. Bao nhiêu trạng thái cảm xúc dồn dập ùa đến : khi đau đớn
tưởng đến “ngất đi”, lúc tưởng như “bị một nhát búa vào đầu”, khi “ngây người ra” tức
giận nhưng cuối cùng tỉnh ngộ khi nghĩ đến chuyện bạc tình của mình để mà tha thứ cho
vợ. Mấy trang truyện ngắn ngủi nhưng đã khắc họa thật chi tiết và tài tình tâm lý của một
kẻ đểu giả đang chịu cảnh “gậy ông đập lưng ông”. Bài học nhân quả ở đời được tác giả
tái hiện lại thật sống động qua diễn biến tâm lý của nhân vật khiến người đọc vừa bất ngờ
vừa hả hê vì sự trừng phạt đích đáng dành cho kẻ xấu.
Cũng nhớ về ngày xưa, cũng có những phút giây trăn trở dữ dội với thực tại bất
ngờ là trường hợp của Duyên không đi lại. Truyện ngắn này cũng được Vũ Trọng Phụng
xây dựng từ diễn biến tâm lý của cô thầy bói khi gặp lại người tình phụ năm xưa. Mười
năm mang mối hận tình, khởi đầu cho tâm trạng đặc biệt sắp xảy đến là sự hồi tưởng về
quãng đời của một thiếu nữ khuê các bị một gã trai “đến phá hoại mất mọi sự e lệ, ngây


thơ” đến nỗi giờ đây “cái tương lai rực rỡ chỉ còn lại cái thân thể một cô thầy bói nghèo
nàn, làm cái nghề báo phúc, báo họa cho đời mà chẳng đủ nuôi mình và nuôi con”. Cô
bỗng “bủn rủn chân tay, lạnh toát cả người” khi nghe lại giọng nói năm xưa, xót xa bao
nhiêu khi giờ đây “kẻ bạc tình nỡ đến hỏi mình về chuyện vợ con”. Sau đó là sự “sung
sướng” vì được nhân cơ hội để báo thù khi dồn ép, tra tấn tâm lí người tình phụ bằng việc
dần hé lộ quá khứ xấu xa của y. Nhưng khi nghe hắn tỏ ý muốn tìm lại mình và con, cô
thầy bói đã “lặng im, cảm động”. Tiếp nối diễn biến câu chuyện là bao dằn xé : tha thứ

hay không tha thứ, cho cha con nhận nhau hay mãi mãi lặng im. Cuối cùng, lòng tự trọng
đã thắng và cô đoạn tuyệt với người xưa bằng lời phán cả hai mẹ con mình đã chết từ lâu
cho người ấy khỏi kiếm tìm. Như đã phân tích ở phần trên, nhân vật cô thầy bói khiến ta
xót thương và quí trọng – thương xót cho số phận hẩm hiu và quí trọng một nhân cách tốt
đẹp. Đi từ hận thù, oán giận đến mủi lòng và cuối cùng dứt khoát đoạn tuyệt ân tình, một
kết thúc bất ngờ nhưng hợp lý cho cả quá trình diễn biến tâm lý phức tạp, đa dạng của
nhân vật. Truyện ngắn này có nhiều điều khiến ta phải ngạc nhiên : ngạc nhiên vì sự gặp
gỡ trùng hợp, ngạc nhiên trong cách cô ứng xử rõ ràng với người xưa nhưng hơn hết vẫn
là niềm tin cho nhân cách tốt đẹp của con người vẫn tồn tại trên cuộc đời vốn nhiều dối
trá, lọc lừa.
Rửa hờn lại đưa ta sống cùng với những cảm xúc đối nghịch đến bất ngờ của nhân
vật thầy đội Chín Tư trong buổi sáng mùng một Tết. Đang phơi phới trong bao nhiêu sự
tha thứ với ý nghĩ quyết chẳng đánh đập ai hôm nay, thầy Chín Tư thấy sao “cuộc đời lại
có thể tốt đẹp đến thế !”, nhân vật sống trong lâng lâng xúc cảm ngày Tết khi nhận thấy :
“Xác pháo trông đẹp, mùi thuốc pháo ngửi thơm. Ai cũng có quần áo đẹp, ai cũng tươi
cười. Ăn mày chẳng cần lè nhè nhiều, phu xe không phải giở giọng vòi vĩnh”, với đứa trẻ
nghịch pháo ném trúng giữa lưng thầy, thầy “chỉ quay lại, mỉm cười tha thứ”. Ấy thế
nhưng tất cả nhanh chóng bị xóa tan đi hết khi bác phải đánh vợ vì tội buôn bán trên hè
phố làm mất mĩ quan đô thị. Nén lòng, đau đớn để vụt roi vào vợ nhằm tránh cho vợ bị
ông xếp Tây làm lật úp thúng hàng và trừng trị, từ đó thầy Tư đổi hẳn thái độ. Không còn
tử tế được nữa, thầy chua chát với nghề và nảy sinh ý định phải trừng trị mọi người cho


hả nỗi hờn, nỗi nhục hôm nay. Thế là cái roi ấy cứ vung lên hỏi tội mọi người. Từ cô
hàng mía, bác hàng kẹo, bà cụ hàng bún chả đến đám ăn mày tội nghiệp đều bị cái roi
“hỏi thăm” đầy tàn nhẫn. Cứ thế Chín Tư đánh, đánh tới tấp, đánh liên tục, đánh cho
“thằng què nhăn nhó xoa cánh tay”, đánh cho “con mụ hủi bưng lấy mũi, cố ngăn hai
giải máu đào” và hất tung bữa cơm thừa ngày Tết trên bàn tay ông lão lòa ăn xin đáng
thương. Bao cảnh Tết “quang đãng”, “rộn rịp tưng bừng”, “hớn hở” giờ biến đi đâu mất
chỉ còn cảnh mất mĩ quan hiện ra trước mắt Chín Tư : “một thằng què chống nạng, một

con mẹ mặt mũi xù xì như mắc bệnh phong, một lão mù tóc bạc phơ, gầy hơn cái ống sậy,
với hai thằng bé hở ngực, hở đít, tuy có quần áo song lại quá cởi truồng. Chúng quây
nhau quanh một cái lá sen. Khố tải, chiếu rách chúng giải la liệt. Thật là một cái núi trấn
lừng lững cả bờ hè. Chung quanh chúng, ruồi với nhặng vừa bay vo ve loạn xạ hơn cuộc
thao diễn về nghề hàng không ở nước Nga La Tư”. Vậy nên thầy Tư đã đánh. Về đến
nhà, thầy chua chát an ủi vợ rồi cả cười, cái cười sung sướng hả hê vì hả được hờn, rửa
được nhục của một ông cảnh sát phải đánh người thân trong ngày Tết chỉ vì giữ việc làm.
Như một bức tranh có hai mặt, một tươi sáng một xám xịt, tác giả khắc họa diễn tiến câu
chuyện theo hai trạng thái tâm lý của nhân vật Chín Tư với bước ngoặt vụt roi đánh vợ.
Qua đó, ông đã giúp ta hiểu thấu hơn một lẽ : đôi khi lòng tự ái khiến người ta trở nên
độc ác, tàn nhẫn ; vì mình đau nên người khác phải chịu cùng, chịu hơn thế thì mới hả.
Khám phá, cắt nghĩa và rồi tái hiện cụ thể tâm lý ấy qua diễn biến câu chuyện, Vũ Trọng
Phụng khiến ta khó lòng nhẹ nhõm dù tác phẩm đã kết lại bằng cái cười to sung sướng
của nhân vật.
1.2 Cách trần thuật tô đậm phần cuối truyện với những kết thúc bất ngờ :
Trong quá trình dựng truyện, đoạn kết luôn luôn là một vấn đề được các nhà văn
quan tâm. Sêkhốp từng nhấn mạnh rằng viết truyện ngắn, cốt yếu nhất là phải tô đậm
phần mở đầu và kết luận. Trong dòng văn học hiện thực phê phán, đi trước và nổi bật hơn
Vũ Trọng Phụng trong lĩnh vực truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan là một tác giả rất chú ý
đến nghệ thuật dựng truyện sao cho đến chỗ kết thúc thật bất ngờ, tạo ấn tượng mạnh nơi
người đọc. Trong Đời viết văn của tôi, ông từng nhấn mạnh: “Câu kết của tôi là một cái


lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột cũng như đến chỗ hẹp nước chảy mạnh, thì cá
bất thình lình bị đẩy tuột vào hom”. Người đọc như bị cuốn hút vào những lời căn vặn,
tra hỏi ráo riết, dữ dội tìm cho ra thủ phạm trong truyện Mất cái ví nhưng đến cuối truyện
mới vỡ lẽ ra là chính người cháu quý hoá đã dựng chuyện để đuổi khéo người cậu của
mình đi. Với truyện Đồng hào có ma, tác giả tạo được một tình huống truyện độc đáo làm
nổi bật một cách bất ngờ bản chất nhân vật huyện Hinh. Hắn ta đầy uy nghi, oai vệ khiến
con mẹ Nuôi sợ hãi quá, lóng ngóng đánh rơi một đồng hào, tìm mãi không thấy ở đâu.

Nhưng không phải đồng hào có ma mà huyện Hinh khi thấy đồng hào lăn đến chân đã
thản nhiên dậm chân lên. Và rồi khi mụ Nuôi đi khỏi, hắn mới “đưa mắt xuống chân,
dịch chiếc giày ra một tí” và “vẫn tự nhiên như không”, “cúi xuống, thò tay, nhặt đồng
hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giày bám vào, rồi bỏ tọt vào túi”. Trong
truyện Oẳn tà roằn, theo logic thông thường, ta đoán bố đứa trẻ là Phong hoặc Bắc,
nhưng bất ngờ thay, khi Bắc “nhìn từ cái tóc, cái mặt, cái mũi con… rồi giở bọc ra ngắm
thằng bé … Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui ra, thở dài một cái rõ dài,
nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như cái cột nhà cháy. Vậy
nó không phải là con Rồng cháu Tiên. Nó giống oẳn tà roằn, không biết chống gậy”.
Trong cách dựng truyện của mình, Vũ Trọng Phụng cũng đã rất chú ý đến việc tổ
chức các yếu tố, xây dựng tình huống sao câu truyện kết thúc thật bất ngờ, ấn tượng.
1.2.1 Với truyện Ông đừng lầm, tác giả đã sử dụng tình huống nhầm lẫn để làm
bật lên tiếng cười phê phán sâu sắc. Nhầm lẫn đã khởi đầu ngay từ khi câu chuyện diễn ra
nhưng tác giả đã khéo léo che giấu nó. Những cảnh tượng bất ngờ liên tục xảy ra trước
mắt tác giả với tư cách người kể chuyện, tác giả đã có những ý phê phán khi thấy người
phụ nữ “đẹp nõn”, “răng trắng như ngà” ấy “lả lơi với chồng, có khi lại lả lơi với cả
bạn chồng”. Tác giả với những điều tận mắt chứng kiến đã quy định rõ hai người đàn
ông : âu phục tím là chồng còn âu phục xanh là bạn chồng. Do vậy tác giả đã rất bất ngờ,
“bất bình”, “muốn phát điên”, “bứt rứt như người bị mất cắp” khi thấy người phụ nữ
“hôn trộm bạn chồng sau một tảng đá”. Lát sau, tại phòng của người tác giả cho là
chồng, anh đã chứng kiến “cả hai vợ chồng đang ôm ấp nhau trên một cái giường Tây”


thật lãng mạn và danh giá. Nhưng hỡi ôi, khi tác giả có lòng tốt tố giác, cảnh báo rằng
người vợ có tình ý với anh bạn của “người chồng” thì bất ngờ, “người chồng” ấy cả cười
: “Ông đừng lầm, chính ông mặc quần áo xanh ấy mới là chồng. Còn tôi, tôi chỉ là người
bạn thân mà thôi”. Tác giả tự thấy mình là “một thằng ngốc, một thằng ngu dại, bỗng
không rước lấy một chuyện bẽ bàng”. Đến đây thì cả người đọc cũng bị cuốn vào chính
cái kết thúc đầy bất ngờ ấy. Sử dụng một tình huống nhầm lẫn khéo léo, Vũ Trọng Phụng
dẫn dắt người đọc vào câu chuyện thật mà như đùa với một kết thúc đầy bất ngờ mà cũng

thật bẽ bàng. Giật mình sau cái cười thoáng qua, ta thấy truyện “bẽ bàng” thật. Vũ Trọng
Phụng đã không dùng từ “bẽ mặt” mà hạ thật chính xác hai chữ “bẽ bàng”. Trong sự bất
ngờ ấy có lẫn nỗi chua xót cay đắng cho lòng người trâng tráo và giả trá đến khôn lường.
Tình huống nhầm lẫn này một lần nữa được tác giả sử dụng trong truyện Người có quyền.
Kết thúc của nó cũng đầy bất ngờ nhưng so về cả nội dung và hình thức, nó chưa có gì
nổi bật so với Oẳn tà toằn của Nguyễn Công Hoan. Ta chọn Ông đừng lầm tiêu biểu cho
tình huống nhầm lẫn tạo nên kết thúc bất ngờ là vì vậy. Nó tạo được tiếng cười có dư âm,
dư âm của một nỗi đắng chát trước nhân sinh, thói đời giả dối.
1.2.2 Sử dụng tiếng cười làm phương tiện phê phán, ngoài tình huống nhầm lẫn,
ta thấy Vũ Trọng Phụng còn lưu ý đến việc sử dụng tình huống thử thách để tạo nên
những kết thúc bất ngờ. Điều này thể hiện rõ trong hai tác phẩm Sư cụ triết lý và Bệnh
lao chữa bằng mồm hay là … thầy lang bất hủ. Với truyện Bệnh lao chữa bằng mồm hay
là … thầy lang bất hủ, chỉ nhằm một mục đích chơi xỏ bọn thầy lang, các nhân vật đã đặt
ra một chuyện là nhờ ông lang đi khám bệnh cho “cô đầm con gái quan chánh”. Sự phối
hợp nhịp nhàng giữa những người ở ngoài và ở trong đã làm cho ông lang một phen thất
điên bát đảo, cuối cùng đành phải đưa tiền ra nhằm cho qua mọi chuyện. Tình huống thử
thách đã đặt ra và bản chất của thầy lang bộc lộ rõ. Sự nói quá, khoác lác, quảng cáo láo
để nhường chỗ cho nỗi sợ sệt, lo lắng khi đối diện với tình huống chữa bệnh thật treo lơ
lửng trên đầu những tù gông, cơm vôi, cạo đầu, xà lim. Nhưng bất ngờ hơn khi về cuối
câu chuyện, ta thấy cũng tên lang băm ấy đã hùng hồn, “nện gót giày lộp cộp mà thuyết
cách một cách oai hùng” : “Các cụ phải biết. Số tiền ấy không to đâu. Mệnh là người


trọng. người làm ra của chứ không phải của làm ra người. Kém một đồng cũng không
được. cứ xin các cụ đúng một trăm. Đó là giá đặc biệt cho đồng bào An Nam ta đấy thôi,
chứ người Tây, dưới ba trăm nên tôi không nhận chữa. Không tin các cụ lại hỏi ngay
quan chánh mật thám mà xem! Hôm qua cho gọi tôi mà dưới ba trăm nên tôi không đến
chữa cái bệnh lao cho con gái ngài đấy”. Thật ngoạn mục vì nhân vật đã lợi dụng ngay
chính tình huống thử thách ấy làm chiêu bài trục lợi cho mình. Điều ấy khiến cho kết thúc
đầy bất ngờ xảy ra quanh tình huống thử thách đặt ra cho nhân vật lang băm ấy.

Cũng như thế trong truyện Sư cụ triết lý, tình huống thử thách đặt ra cho sư cụ là
khi ông ta phát hiện ra một gói thịt cầy mà sư bác đang muốn giấu đi. Sư cụ đã triết lý rất
hay, rất nhiều bao nhiêu điều: “Ở thế gian này vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng
có một lý. Cuộc đời là bể khổ thì sinh ra loài người chẳng lẽ đấng Thượng Đế lại làm
một việc vô nghĩa lý hay sao? Không! Sinh ra loài người để bắt họ trầm luân phải chịu
thì bọn tăng ni sống mới có nghĩa, cái nghĩa cứu vớt họ. Cảnh chùa vắng vẻ, dân gian
thưa đến, nhà chùa sẽ quẫn bách, cơ nguy rồi đến hết … vực đạo, vậy đó há cũng lại là
một sự vô nghĩa lý hay sao? Không, sự tịch mịch khiến ta xa tục lụy, hồn phách phiêu
phiêu, gần cõi Nát Bàn. Cây gỗ đương mọc xanh tươi trong rừng mà có người bẻ gốc đốn
về, dễ đó cũng là sự vô nghĩa lý hay sao? Không! Có đốn về thì mới có tạc tượng, thì kẻ
tu hành mới có được quỳ trước bệ để cúi đầu kinh kệ mà vọng tưởng đến đức Thích già
Mâu Ni. Thượng đế không vô nghĩa lý bao giờ. Trên thế gian cũng như trong vũ trụ, vật
nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một lý”, sư cụ say sưa thuyết lý và giảng đạo:
“Đã sa ngã thì nên tự tìm cách chịu tội để chuộc lỗi”, “Đấng Như Lai là chí thiện chí
nhân: đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ tìm đến”, “Đấng Thượng Đế là bậc chí công.
Cái cây trên rừng bị kẻ tiều phu đốn xuống, đó là sự ác. Nhưng đốn xuống làm củi nấu
nướng cho sống loài người thì lại là sự thiện. Mà ta thuê thợ tạc gỗ thành tượng thì lại là
sự thiêng liêng. Ơ đời này, vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một lý” . Thế
nhưng khi đứng trước một gói thịt cầy, con người “từ bi, hết hỉ, nộ, ái, lạc” ấy “chỉ ung
dung, ôn tồn”, “không sầm mặt, không lắc đầu, chỉ khoan thai, bình tĩnh thò tay …
nhót”. Lại một lần nữa tác giả hạ một chữ thật hay : “nhót”. Chỉ một từ thôi nhưng nó


cho ta một kết thúc bất ngờ, gây nên tiếng cười khi chỉ cần một cái “nhót” nó đã kéo sư
cụ từ thượng tầng triết lý, từ bi, cao đạo xuống hạ tầng tầm thường, mất tư cách. “Cái
nghĩa lý của sự tu hành” của sư cụ Tăng Sương trong truyện ngắn này thật ra rất đơn
giản: có thịt cầy không được ăn giấu mà phải mời thầy. Và thầy đã đón nhận nó, tuy hơi
thô tục, nhưng rất bình thường như mọi nghĩa lý ở đời này.
Khéo léo trong việc sử dụng những tình huống truyện để tạo ra những kết thúc bất
ngờ gây tràng cười dài sảng khoái cho người đọc. Nhưng tiếng cười đó là tiếng cười phê

phán nên giá trị của nó rất cao. Nó góp phần làm rõ hơn cảm hứng mà tác giả thể hiện
trong tác phẩm. Kết thúc bất ngờ của Vũ Trọng Phụng trong truyện ngắn có khi là cái bất
ngờ gây cười nhưng có khi lại là cái bất ngờ không gây cười. Đó là cái bất ngờ trong
những câu truyện như Mơ ngày tết, Gương … tống tiền, Duyên không đi lại.
1.2.3 Nằm chung trong nội dung phê phán, kết thúc trong Mơ ngày tết và Gương
… tống tiền là những kết thúc đáng suy ngẫm. Với Mơ ngày tết, Vũ Trọng Phụng như đã
phân tích, ông chỉ hạ hai chữ “Tỉnh mộng” mà sự vật, sự việc đã diễn tiến từ trước đến
đây đều đảo lộn cả. Chỉ là một giấc mơ mà thôi, một giấc mơ đẹp của một con người
đang phải sống trong cuộc đời thực không như mơ, không hề đẹp. Một sự đảo lộn bất ngờ
như vậy khiến cho giá trị phê phán của tác phẩm cao hơn, sâu sắc hơn. Tác giả đã khéo
léo đan cài tình huống quay ngược 180o để kết thúc được nâng lên, không chỉ còn lẽ bất
ngờ nữa, nó đã là điều bất ngờ với rất nhiều tất yếu. Gương … tống tiền cũng vậy, vẫn
một kết thúc đầy bất ngờ khi bức màng nhung nhân cách hạ xuống, Lê Vân lộ rõ chân
tướng điêu trá, khốn nạn của một tên tống tiền đầy nghệ thuật, một kẻ lợi dụng tình cảm
để trục lợi bậc thầy. Kết thúc bất ngờ này cho ta một kết thúc bất ngờ khác, đó là cái kết
thúc nhân tính và nhân tình của nhân vật.
Không cùng nằm chung trong nội dung phê phán, Duyên không đi lại với kết thúc
bất ngờ của nó cho ta một cái nhìn khác của Vũ Trọng Phụng. Nhân vật cô thầy bói cũng
được tác giả đặt trước tình huống thử thách: gặp lại người khi xưa đã phụ bạc mình.
Những câu trả lời chính xác về số phận con người phụ bạc kia dần dần gây nên những


bước chuyển tâm lý dữ dội trong khoảnh khắc ở nhân vật. Có cái hả hê khi ít nhiều báo
lại thù xưa, có lúc băn khoăn khi nghĩ đến việc con mình sẽ ra sao nếu nhận lại bố, có bố.
Nhưng cuối cùng cô thầy bói “vẫn lạnh lùng” đáp : “Đã chết cả, cả mẹ lẫn con, đã lâu
lắm rồi” khi người đàn ông ấy hỏi dò tung tích. Không hề hé lộ chuyện mình chính là
người bị phụ bạc năm xưa, cô thầy bói đã làm rất đúng, đã lựa chọn rất chính xác, dù rất
khó khăn. Làm như vậy, giá trị nhân cách của cô còn được nâng cao hơn vì đã không
“làm hại hạnh phúc của một ngưòi đã làm hại một đời cô”, đồng thời lòng tự trọng đã
khiến cô nghĩ rằng “không ai “ăn mày” được sự quý trọng”. Nhân vật của tác giả dù

khốn khổ, tàn tật, đau đớn ghê gớm về tinh thần nhưng vẫn còn đó một nhân cách lành
vững. Chính điều đó khiến nhân vật không gục ngã mà vượt qua được tình huống thử
thách đó để cho ta một kết thúc bất ngờ mang thái độ khẳng định, ngợi ca sâu sắc.
Nhìn chung, trong việc xây dựng kết cấu cho truyện ngắn, Vũ Trọng Phụng đã chú
ý đến việc xây dựng tình huống truyện và đem đến cho người đọc những kết thúc bất
ngờ, đặc sắc. Tác giả đã rất có ý thức khi xây dựng nên những kết thúc bất ngờ. Những
kết thúc bất ngờ ấy nó như cái lò xo nén chặt bất chợt bung ra, gây nên một hiệu quả tác
động đặc biệt. Nó phù hợp với nội dung mà tác giả thể hiện trong tác phẩm như ta đã nói.
Ngoài việc gây một khoái cảm thẩm mỹ cần có cho người tiếp nhận, những kết thúc bất
ngờ của tác giả trong truyện ngắn như những “cú đấm nghệ thuật” trúng đích và đầy sức
nặng. Đấy chính là giá trị của nó và cũng là một thành công đáng ghi nhận trong nghệ
thuật dựng truyện của tác giả.

1.3 Về những đoạn trữ tình ngoại đề cuối tác phẩm:
Trữ tình ngoại đề chỉ là một trong những yếu tố ngoài cốt truyện trong tác phẩm tự
sự là những đoạn văn (thơ) mà tác giả hay người kể chuyện trực tiếp bộc lộ những tình
cảm, ý nghĩa, quan điểm của mình đối với nhân vật, đối với cuộc sống thể hiện trong tác
phẩm. Chính vì vậy, đã có ý kiến cho là trữ tình ngoại đề “trực tiếp đi vào thế giới tư


tưởng, lý tưởng của tác giả, giúp vào việc xây dựng hình tượng tác giả như một người trò
chuyện “tâm giao” với độc giả” [6, tr.223]
Ở những tác phẩm văn xuôi, đó là những đoạn mang tính biểu cảm cao hơn hẳn so
với trần thuật trong cốt truyện. Trữ tình ngoại đề góp phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng của
tác phẩm, làm sáng tỏ thêm hình tượng nhân vật. Nếu xuất phát từ tư tưởng tiến bộ, từ
những thể hiện sâu sắc về cuộc sống, những đoạn trữ tình ngoại đề có ý nghĩa giáo dục
lớn đối với người đọc.
Đến với truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, ta thấy sự xuất hiện của những đoạn trữ
tình ngoại đề không phải quá hiếm hoi. Ít nhất cũng có đến năm tác phẩm có yếu tố độc
đáo này : Tết ăn mày, Cô Mai thưởng xuân, Từ lý thuyết đến thực hành, Chống nạng lên

đường và Rửa hờn. Mỗi lần xuấn hiện, nó lại đem đến cho tác phẩm những ý vị đặc biệt.
1.3.1 Với truyện ngắn Cô Mai thưởng xuân, Vũ Trọng Phụng đã hạ một câu kết
như sau : “Nhưng này! Cho cô Mai thưởng xuân đến tận bao giờ hở vợ chồng ông
Phán…?”. Có thể nói đây là phát ngôn mỉa mai, châm biếm không thể không bật lên của
tác giả. Xuân đến rồi xuân sẽ qua, ngày xuân và tuổi xuân vốn ngắn ngủi vậy mà nhân vật
cô Mai cứ trượt dài, mê mải trong tháng ngày vui chơi bất tận. Ngày xuân chỉ có ý nghĩa
thật sự khi nó gắn với những giá trị truyền thống thiêng liêng từ bao đời, tuổi xuân chỉ
trọn vẹn khi con người biết sống với bao khát khao tốt đẹp, với nhiệt huyết sục sôi và sức
sống căng tràn. Cái thú vị của ngày xuân từ điểm nhìn của cô Mai chuyển sang qui chiếu
người khác sẽ thành vô vị, vô nghĩa lí. Ấy vậy mà bố mẹ cô không biết điều này, vẫn mãi
nuông chiều con; chỉ thương mà không nhắc, không rèn; chỉ dỗ mà chưa dạy. Vả chăng,
chính ông Phán, một viên chức nhà nước nhỏ nhoi vẫn đang sống một cuộc đời phè phỡn
trên số phận bao kẻ khốn cùng ngoài xã hội cũng khó lòng răn dạy con mình vì bản thân
cũng như thế. Cha mẹ có chiếu bạc ở ngoài thì bên trong nhà con cũng có chiếu bạc; cha
mẹ đàn đúm, quần tụ đông đúc cùng bạn bè thì con cũng có cách tụ họp của riêng con.
Thậm chí, con gái còn biết cách “thưởng xuân” cho trọn vẹn, đầy đủ mùi đời. Và cứ thế,


câu hỏi kết lại tác phẩm rơi vào hư vô. Câu hỏi không lời đáp ấy cất lên như một sự tố
cáo gay gắt : bao nhiêu cảnh trái tai gai mắt sẽ còn tiếp diễn trong xã hội này?
1.3.2 Tường thuật lại những việc xảy ra với thầy đội Chín Tư trong truyện ngắn
Rửa hờn, Vũ Trọng Phụng đã giúp ta có cái nhìn khái quát về công việc cũng như nỗi
lòng một ông cảnh sát thời Pháp thuộc. Cuối tác phẩm, nhà văn đã viết :
“Cái cười ròn, kêu ha hả ấy chính là sự sung sướng.
Vì nó giống cái sung sướng của đấng cứu thế, khi bị đóng đanh câu rút, vì nó
giống cái sung sướng của một đôi trai tài gái sắc yêu nhau rồi lấy được nhau, vì nó
chính là cái sung sướng riêng của một ông lính cảnh sát, thưa các ngài!
Cái sung sướng ấy phát tự đáy lòng phát ra.”
Vũ Trọng Phụng đã miêu tả kĩ cho ta cái cười của thầy đội, ông cũng lặp lại cụm
từ “sự sung sướng”. Ông khắc họa cái cười giòn tan, lớn tiếng nhưng thực chất là nén

chặt tiếng khóc trong lòng nhân vật, nói sung sướng nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi đau
đớn, uất ức, nhục nhã ê chề. Ta lưu ý đến câu nói của nhân vật Chín Tư với vợ : “Thôi,
chịu vậy. Nghề tao phải thế, mà chả cứ mình mẹ mày bị rông ngày Tết đâu”. Tác giả so
sánh, dẫu hơi quá lời, rằng niềm sung sướng ấy giống đấng cứu thế khi chịu hình phạt
mong cứu rỗi loài người với sự hi sinh của mình, lại cũng giống với hạnh phúc mĩ mãn
“của một đôi trai tài gái sắc yêu nhau rồi lấy được nhau”. Thế nhưng làm gì có một sự
hi sinh vĩ đại và niềm vui sướng viên mãn ở đây khi “sự hi sinh” đánh vợ để hòng giúp
vợ tránh đòn của ông xếp Tây chỉ là cách tránh né nỗi nhục; và ngày Tết cũng đâu còn
vui vẻ nỗi gì trước cơ sự ai oán : vì nghề, vì việc làm nên phải đánh cả người nhà. Dẫu đã
đánh được bao người khác để “rửa hờn” cho ngày hôm nay, dẫu “cái sung sướng ấy phát
tự đáy lòng phát ra” nhưng thực ra là nỗi đau buồn, xót xa tận tâm can. Cách nói của tác
giả đầy mỉa mai; nhưng có lẽ sau thái độ mỉa mai, phê phán chính là sự ngậm ngùi, chua
chát cho cảnh đời lắm nỗi.
1.3.3 Ai oán, xót xa cho đời người không chỉ có Rửa hờn. Trong truyện ngắn
Chống nạng lên đường, phần trữ tình ngoại đề cũng đã gợi nên cho ta những mối thương
tâm:


“Thương thay! Mái tóc hoa râm đã điểm ngót 60 tuổi trên đầu mà bà cụ ấy vẫn
chưa biết mình thân già tuổi yếu, ton ton chạy được vài mươi bước thì chỗ mặt đê trơn
như đổ mỡ đã làm bà cụ té nhào xuống đấy lấm hết từ đầu đến chân, nằm trong một vũng
nước đầy vừa run vừa khóc. Bà cụ ấy ngã đau, đau lắm nhưng cũng cố gượng chống tay
nghển cổ mà nhìn, nhìn đến đứa con thân yêu kia, nhìn đến thằng Hai lúc ấy chỉ còn như
một cái chấm trông thẳng về Cầu Sắt Hà Nội mà đi, dần dần biến mình vào đám sương
mù…”.
Trong phần trữ tình ngoại đề này, Vũ Trọng Phụng đã miêu tả nhiều hơn bộc lộ
cảm xúc. Nhân vật Hai Xuân đã “chống nạng lên đường”, dứt lòng ra đi; có hay không
hình ảnh người mẹ đáng thương chạy theo và té ngã thì câu chuyện cũng đã hoàn kết.
Nhưng hình ảnh này vẫn khiến lòng người nhói đau : bà mẹ từng bước hối hả chạy theo
con như muốn níu kéo, rồi bà té ngã, đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn khi nhìn theo đứa

con tật nguyền tội nghiệp xa dần. Xót xa mà bất lực; lạnh, đau và tê tái, nhức buốt thấu
tâm can khi bóng con đi cứ chìm khuất trong đám sương mù vây phủ. Bóng con nhỏ bé
dần trong cuộc đời mờ mịt phía trước cũng là bao nhiêu lo lắng, khắc khoải dấy lên trong
lòng người mẹ ấy. Những số phận nghèo hèn tủi cực va đập, cộng hưởng vào nhau khiến
lời trữ tình ngoại đề này sâu lắng, tha thiết đến thắt cả tim người. Hai Xuân ra đi trong
xót xa, cái nhìn xót xa của người mẹ, sự xót xa của tác giả và của cả người đọc – nỗi
niềm ấy cứ như nhân lên, lan rộng ra khiến ta có cảm giác lời cảm thán : “Thương thay!”
không đong đếm nỗi.
Cảnh tượng này khiến ta nhớ đến đoạn văn trữ tình ngoại đề trong truyện ngắn Số
phận con người của Sô – lô – khốp. Ở đó, sau cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi
cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi niềm. Nhìn bóng
hai cha con Xô – cô - lốp và Va - ni - a bước đi, nhà văn Xô Viết đã cảm thán : “Hai con
người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới
những miền xa lạ…Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga
đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia
một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên
đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”. Từng dòng chữ giàu xúc cảm, giàu chất thơ, khỏe


khoắn, khoáng đạt mà vẫn vô cùng thấm thía, sâu sắc đã thể hiện cho ta rất nhiều cảm
xúc. Đó vừa là một nỗi niềm trĩu nặng khi nghĩ đến số phận con người : dù chiến tranh đã
qua đi nhưng đau khổ, khó khăn vẫn đeo bám; vừa tô đậm, mở rộng và nâng cao thêm
hình tượng hai con người Xô - cô - lốp và Va – ni – a : dũng cảm và cao thượng, biết sống
và vượt lên trên mọi thách thức bằng sức mạnh của nghị lực và lòng yêu thương; và cuối
cùng là bộc lộ thái độ khâm phục, tin yêu của tác giả trước những con người Nga bình dị
mà kiên cường, giàu tinh thần hi sinh, giàu lòng vị tha, nhân ái cho dù bão tố cuộc đời có
thổi bạt họ tới những miền xa lạ.
Với Vũ Trọng Phụng thì khác hẳn. Chống nạng lên đường khép lại bằng bế tắc lấn
át hết niềm tin, bằng tuyệt vọng lấp che hết đi hi vọng. Thế nhưng cả hai phần trữ tình
ngoại đề này đều thấm đẫm tình cảm nhân đạo sâu sắc của hai tác giả. Đó cũng là điều

quí nhất còn đọng lại sau bao nhiêu nỗi buồn cho số phận con người mà hai tác phẩm đã
gợi ra.
1.3.4 Cùng trong cảm hứng ấy, truyện ngắn Tết ăn mày đã kết lại bằng những
dòng trữ tình ngoại đề sau :
“Hỡi cô gái giang hồ! Đây là ngày tết. Ngày hôm nay là ngày thiên hạ tưng bừng
đón chào xuân mới. Trước bàn thờ khói trầm nghi ngút, đèn nến sáng trưng, cô gái ngồi
với tráp giầu, sửa soạn chè nước tiếp khách và sẵn sàng đỏ mặt lên nhận những câu chúc
đắt chồng, vào dịp xuân sang.
Cô gái giang hồ có biết những cái dĩ vãng tốt đẹp ấy chăng? Hay cô mê mệt vào
cuộc truy hoan để chờ khi thấy mặt ta thì lại làm cho ta bồi hồi và giật mình bằng những
câu như: "Nay mai anh xuống hát cho một chầu tất niên để em kiếm cái tết nhé!".”
Trong tiểu thuyết và phóng sự, Vũ Trọng Phụng đã từng viết rất hay, rất chân thực
về những cô gái giang hồ. Giờ đây với những trang truyện ngắn có ai ngờ ông vua phóng
sự đất Bắc lại thốt lên những lời thấm thía. Ông tiếp tục dựng lại hai cảnh đối lập trong
ngày Tết năm xưa và ngày Tết hôm nay của những đào nương – lần này ông đã gọi thẳng


×